Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

công tác đăng kí và quản lý đất đai tại phòng tài nguyên & môi trường quận tây hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.44 KB, 94 trang )

Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
LỜI NÓI ĐẦU
Đất là tài nguyên, là nguồn sống, môi trường, môi sinh quan trọng nhất
cho đời sống con người, cho sinh hoạt xã hội và cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đất đai có những đặc trưng cơ bản khiến nó không giống với bất
cứ một loại tư liệu sản xuất nào. Đất đai là tài nguyên có hạn về số lượng và
không có khả năng tái sinh; đất đai có vị trí cố định trong không gian, không
thể di chuyển theo ý muốn chủ quan của con người Chính từ đặc trưng hạn
chế về số lượng, không có khả năng tái sinh và di chuyển được đã làm cho đất
đai được đặt đúng giá trị của nó. Từ nhiều đời nay, ông cha ta đã nói “Tấc đất
tấc vàng” câu nói này đặc biệt đúng với đất đô thị. Chúng ta đã khẳng định:
đất đai là tài nguyên đặc biệt quý giá và là tư liệu sản xuất đặc biệt như vậy
đất đai cũng có những đặc tính cơ bản của các loại hàng hóa khác tức là có thể
mua, bán và trao đổi được.
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năm 2007
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới
WTO. Trong bối cảnh đó, quản lý nhà nước về đất đai là một công tác quản lý
đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của đất nước, trong đó công tác đăng kí đất
đai và nhà ở cũng trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Tây Hồ - một quận mới được thành lập từ năm 1996, dựa trên sự sát
nhập của 3 phường thuộc quận Ba Đình và 5 xã thuộc huyện Từ Liêm Nhiệm
vụ đặt ra cho công tác quản lý đất đai trên địa bàn quận là đẩy nhanh tiến độ
cấp Giấy chứng nhận, hoàn chỉnh hệ thống quản lý nhà nước về đất đai góp
phần đưa quận thành trung tâm du lịch-dịch vụ của cả thủ đô Hà Nội. Chính vì
lẽ đó mà trong thời gian thực tập tại Phòng Tài Nguyên và Môi trường quận
Tây Hồ em đã lựa chọn đề tài:
“Công tác đăng kí và quản lý đất đai tại Phòng Tài nguyên & Môi
trường quận Tây Hồ”
1
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xây dựng hệ thống lý luận về quản lý


đất đai, từ đó vân dụng vào thực trạng quản lý đất đai và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực quản lý đất đai tại quận Tây Hồ.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các phương pháp điều tra,
thống kê, phương pháp tổng quát và phương pháp cụ thể.
Nội dung nghiên cứu của đề tài xoay quanh thực trạng đăng ký và quản lý
đất đai đồng thời nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ
cấp giấy chứng nhận và hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai tại địa bàn quận
Tây Hồ.
2
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
1-Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đất đai:
1.1. Khái niệm
Đất đai là vật thể thiên nhiên hình thành lâu đời do kết qủa quá trình
hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố gồm: đá, thực vật, động vật, khí hậu, địa hình
và thời gian. Tất cả các loại đất trên trái đất này được hình thành sau một quá
trình thay đổi lâu đời trong thiên nhiên. Chất lượng của đất phụ thuộc vào đá
mẹ, khí hậu, cỏ cây và sinh vật sống trên đất và trong lòng đất.
Đất là lớp bề mặt của trái đất, có khả năng cho sản phẩm cây trồng để
nuôi sống loài người. Mọi hoạt động của con người gắn liền với lớp bề mặt đó
theo thời gian và không gian nhất định. Chất lượng của đất phụ thuộc vào độ
phì nhiêu của nó.
1.2. Đặc điểm
1.2.1 Đặc tính không thể sản sinh và có khả năng tái tạo của đất đai:
Đất đai có vị trí cố định không di chuyển được, với một số lượng có
hạn trên phạm vi toàn cầu và phạm vi từng quốc gia. Tính cố định không thể
di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác của đất đai đồng thời quy định tính giới
hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu chi
phối (nguồn gốc hình thành, khí hậu, sinh thái với những tác động khác của

thiên nhiên). Vị trí của đất đai có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế trong quá trình
khai thác và sử dụng đất. Những đất đai ở gần các đô thị, các đường giao
thông, các khu dân cư được khai thác sử dung triệt để hơn những đất đai ở các
vùng xa xôi, hẻo lánh và do đó có giá trị sử dụng và giá trị lớn hơn. Đất đai
không thể sản sinh thông qua sản xuất.
3
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Độ phì là một thuộc tính tự nhiên của đất và là yếu tố quyết định chất
lượng đất. Độ phì là một đặc trưng về chất gắn liền với đất, thể hiện khả năng
cung cấp thức ăn, nước cho cây trồng trong quá trình sinh trưởng và phát triển.
Khả năng phục hồi và tái tạo của đất chính là khả năng phục hồi và tái tạo độ
phì thông qua tự nhiên hoặc do tác động của con người. Tuỳ theo mục đích sử
dụng mà độ phì của đất có vai trò khác nhau. Chẳng hạn, trong nông nghiệp
độ phì hay độ màu mỡ của đất có vai trò cực kì quan trọng, quyết định việc
tăng năng suất và sản lượng cây trồng. Việc sử dụng và khai thác đất nông
nghiệp phải đảm bảo nguyên tắc là không ngừng cải tạo, nâng cao độ phì đất.
Đất đai dùng để canh tác có khả năng tạo ra một khối lượng lương thực
lớn hơn số lương đủ để duy trì sự sống của người lao động.” Đất, trong hầu
hết các tình huống, sản sinh ra một lượng lương thực nhiều hơn so với số
lượng đủ để duy trì sự sống của người lao động”
1

Tính hai mặt của đất đai (không thể sản sinh nhưng có khả năng tái tạo)
có ý nghĩa cực kì quan trọng trong quá trình sử dụng dất. Một mặt, phải hết
sức tiết kiệm đất đai, xem xét kỹ lưỡng khi bố trí sử dụng các loại đất. Mặt
khác phải chú ý ứng dụng tiến bộ kĩ thuật để tăng khả năng phục hồi và tái tạo
của đất đai.
1.2.2 Đất đai là một tư liệu sản xuất gắn liền với hoạt động của con người:
Trong quá trình hoạt động sản xuất, đất đai trở thành tư liệu sản xuất
không thể thiếu được. Tác động của con người vào đất đai thông qua hoạt

động sản xuất đa dạng phong phú với nhiều vẻ khác nhau trực tiếp hay gián
tiếp nhằm khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên này vì lợi ích của
mình. Những tác động đó có thể làm thay đổi tính chất sử dụng của đất đai, từ
đất đai hoang sơ thành đất đai canh tác được, hoặc đất đai từ sử dụng mục đích
này sang sử dụng mục đích khác. Hoặc những tác động để cải tạo chất đất, làm
tăng độ màu mỡ của đất đai. Tất cả những tác động ấy của con người làm cho
1
(Adam Smith-Của cải của các dân tộc-trang 240,Nhà xuất bản giáo dục,Hà Nội,1997).
4
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
đất đai vốn dĩ là một sản phẩm của tự nhiên trở thành một sản phẩm của lao
động.
“Tuy có những thuộc tính tự nhiên như nhau nhưng một đám đất được
canh tác có giá trị lớn hơn một đám đất bỏ hoang”
1

Con người không tạo ra được đất đai, nhưng bằng lao động của mình
(lao động sống và lao động vật hoá) mà cải thiện đất đai, làm cho đất đai từ
đất xấu trở thành tốt hơn và làm tăng sản lượng ruộng đất.
“Tư bản có thể được cố định vào đất, bỏ vào ruộng đất, trong một thời
gian tương đối ngắn, như trường hợp cải tạo những thuộc tính hoá học, áp
dụng phân bón…hoặc cố định trong một thời gian dài hơn, như trường hợp
xây dựng các kênh đào tiêu nước, hệ thống tưới nước, san bằng mặt đất, xây
dựng các kiến trúc dùng vào việc kinh doanh…Ở một nơi khác, tôi đã từng gọi
tư bản sáp nhập vào ruộng đất như vậy là la terre-capital”
2
(ruộng đất-tư bản).
Trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa, những đầu tư vào ruộng đất
đã biến ruộng đất thành tư bản (tư bản-ruộng đất) và ruộng đất đã trở thành
một quan hệ kinh tế-xã hội. Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ này ngày

càng phát triển và càng làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn trong xã hội.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, đất đai trở thành đối tượng của sự
trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành một thị trường đất đai.
1.2.3 Đặc điểm về sự chiếm hữu và sở hữu đất đai:
Cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người, chế độ sở hữu và
chiếm hữu đất đai cũng phát triển theo nhiều kiểu khác nhau. Tuy nhiên “sở
hữu ruộng đất khác với các hình thái sở hữu khác ở chỗ là, đến một trình độ
1
(Mác-Ănghen toàn tập-Tập 25 phần II-trang248.Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,1994).
2
(Sách đã dẫn trang 246).
5
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
phát triển kinh tế nhất định, nó trở nên thừa và có hại, ngay cả khi xét trên
quan điểm của phương thức tư bản chủ nghĩa”
*

Chế độ chiếm hữu ruộng đất và biến quyền sở hữu đất đai thành sở hữu
tư nhân là một quá trình phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử của từng vùng
trên trái đất hay mỗi quốc gia.
Đất đai trước hết là sản phẩm của tự nhiên, được con người khai phá
chiếm hữu thành tài sản chung của cộng đồng, bộ lạc. Những nhu cầu sản
phẩm nuôi sống con người ngày càng tăng lên do dân số phát triển, những đất
đai màu mỡ dễ khai phá đã được chiếm hữu và được canh tác. Nhà nước ra đời
và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng xuất hiện.
Quyền sở hữu đất đai không phải chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà quan
trọng hơn còn đem lại địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Trong chế độ sở
hữu tư nhân về ruộng đất, ai nắm nhiều ruộng đất thì không những kẻ đó là
người giàu có, mà còn là người có uy lực chính trị. Những người không có đất
trở thành kẻ làm thuê, cuộc sống bấp bênh và phụ thuộc. Duy trì chế độ sở hữu

tư nhân về ruộng đất sẽ dẫn đến ruộng đất tập trung trong tay một số ít người,
nhóm người hoặc một tầng lớp nào đó trong xã hội, còn đại bộ phận người làm
ruộng trực tiếp sẽ không có ruộng, trở thành người làm thuê. Đồng thời chế độ
sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng dẫn đến việc tách người làm ruộng khỏi điều
kiện sống và làm việc của họ, tức là tách người lao động với đối tượng lao
động và tư liệu sản xuất.
Một hậu quả khác của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất là tạo ra một
lớp người mới ở nông thôn - lớp người cho vay nặng lãi. Lớp người này
thường đặc trưng cho chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất ở châu Á-nơi kết
hợp chế độ ruộng đất truyền thống trước thực dân hoá của châu Âu và chế độ
*
(Mác-Ănghen toàn tập,tập 25 phần II-trang 252. NXB Chính trị quốc
gia,1994).
6
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
ruộng đất với chính sách thực dân hoá của châu Âu. Tức là sở hữu ruộng đất
cộng đồng làng xã với chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến - tư bản.
Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, sản xuất đủ sống đến một nền
nông nghiệp thương mại hoá, vai trò của tầng lớp người cho vay nặng lãi thay
đổi một cách căn bản. Hoạt động cho vay nặng lãi từ chỗ chỉ cung cấp cho
người nông dân những khoản tiền hạn chế để vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống mà thường phải trả bằng hiện vật với lãi suất cao và rất cao, đến
việc cung cấp tiền cho người dân không hạn chế do những nhu cầu chuyển đổi
cây trồng hoặc đầu tư đầu vào sản xuất. Thường người cho vay nặng lãi quan
tâm hơn đến việc chiếm đất của người nông dân do họ không trả được nợ vì
lãi suất cao và nghiễm nhiên họ bị hất cẳng ra khổi mảnh đất của mình. Từ
đó, người cho vay nặng lãi trở thành kẻ đầu cơ ruộng đất để bán cho những địa
chủ kếch sù giàu có và chính họ trở thành những địa chủ có thế lực ở nông
thôn và trong xã hội. Tất yếu dẫn đến địa vị xã hội người nông dân bị hạ thấp.
Cùng với quá trình thương mại hoá nền nông nghiệp thì việc chia nhỏ

đất đai và quyền sở hữu tư nhân về đất đai cũng tất yếu dẫn đến quá trình bần
cùng hoá nông dân, làm tổn thương đến nền kinh tế và làm mất đất đai của đại
bộ phận nông dân, tập trung vào tay một số địa chủ giàu có và đầy quyền lực.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, chế độ phong kiến hình thành và dần
dần chế độ sở hữu tư nhân cũng bắt đầu xuất hiện. Song nhìn chung trong một
thời gian dài suốt hành trăm năm chế độ phong kiến kết hợp với chế độ thuộc
địa của thực dân Pháp, chế độ sở hữu ruộng đất của nước ta vẫn gồm hai loại
song song tồn tại: sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Tuỳ theo từng thời kỳ
lịch sử khác nhau mà sự biểu hiện của quyền sở hữu đó cũng khác nhau và
diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ngày nay Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”. Nhà
nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan
7
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình và cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
thuê đất…”
*

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là người đại diện. Nhà nước
giao cho các tổ chức, các cá nhân sử dụng đất đai theo mục đích quy định.
Người cử dụng ruộng đất phải đóng thuế cho Nhà nước. Nhà nước có thể cho
thuê và người thuê đất phải trả tiền thuê đất trong thời hạn thuê.
1.2.4 Tính đa dạng và phong phú của đất đai:
Tính đa dạng và phong phú của đất đai trước hết là do đặc tính tự nhiên
của đất đai và phân bố cố định trên từng vùng lãnh thổ nhất định gắn liền với
điều kiện hình thành đất quyết định, mặt khác nó còn do yêu cầu và đặc điểm,
mục đích sử dụng các loại đất khác nhau. Một loại đất có thể sử dụng theo
nhiều mục đích khác nhau. Đặc điểm này của đất đai đòi hỏi con người khi sử

dụng đất đai phải biết khai thác triệt để lợi thế của mỗi loại đất một cách tiết
kiệm và có hiệu quả nhất trên mỗi vùng lãnh thổ. Để làm được điều đó phải
xây dựng một quy hoạch tổng thể và chi tiết sử dụng đất đai trên phạm vi cả
nước và vùng lãnh thổ.
1.3. Vai trò của đất đai
1.3.1 Đất đai là một tài nguyên:
Đất đai là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia,
là điều kiện tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái
đất.
Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày
càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của
con người, con người dựa vào đó để tạo nên sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai
luôn luôn là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Không có
*
(Điều 1 Luật đất đai năm 1993).
8
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
đất đai thì không có bất kì một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao
động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người.
Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình
công nghiệp, giao thông thuỷ lợi, các công trình phúc lợi khác, các cánh đồng
để con ngưòi trồng trọt, chăn nuôi…
Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là
thước đo sự giàu có của mỗi quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm cho cuộc
sống, bảo hiểm về tài chính, như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ
và như là một nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng.
Luật đất đai 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
ghi: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc

phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu
mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay!”.
Con người khai thác bề mặt đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, tạo nên sản
phẩm nuôi sống cả xã hội loài người. Khai thác bề mặt đất đai và cải tiến chất
lượng đất đai để tạo ra khối lượng sản phẩm ngày càng nhiều hơn, thoả mãn
nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng. Trình độ khai thác đất đai gắn
liền với sự tiến hoá của xã hội. Quá trình ấy làm cho con người ngày càng gắn
chặt với đất đai hơn. Quan hệ giữa con người và đất đai ngày càng phát triển
và gắn liền chặt chẽ với nhau. Mặt khác con người ngày càng nhận thức và
hiểu biết hơn về khoa học kĩ thuật, khám phá và khai thác “kho báu” trong
lòng đất phục vụ cho mục đích của mình.
Đất đai gắn liền với khí hậu, môi trường trên phạm vi toàn cầu cũng
như từng vùng, từng miền lãnh thổ. Trải qua lịch sử hàng triệu năm của trái
đất, khí hậu cũng trải qua nhiều biến động do những nguyên nhân tự nhiên
hoặc do tác động của con người. Trong quá trình chinh phục và cải tạo thiên
9
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
nhiên, con ngưòi ngày càng can thiệp vào quá trình biến đổi của tự nhiên. Biến
đổi khí hậu có tác động mạnh mẽ đến các hệ sinh thái trên đất liền, nhất là đối
với cây trồng.
Như vậy việc sử dụng hợp lý đất đai ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý
nghĩa về bảo vệ, cải tạo và biến đổi môi trường. Ngày nay với sự phát triển
của khoa học kĩ thuật, người ta rất chú ý đến tác động của môi trường trong
quá trình hoạt động sản xuất của con người, trong đó sử dụng khai thác đất đai
là yếu tố vô cùng quan trọng.
Trong các yếu tố cấu thành của môi trường như đất đai, nguồn nước,
khí hậu, cây trồng, vật nuôi, hệ sinh thái… thì đất đai đóng vai trò quan trọng.
Những biến đổi tiểu khí hậu, những sự phá vỡ hệ sinh thái ở những vùng nào
đó trên trái đất ngoài tác động ảnh hưởng của tự nhiên thì vai trò con người tác
động cũng rất lớn: lụt úng do phá rừng, canh tác bất hợp lí… Tất cả những cái

đó làm ảnh hưởng đến môi trường. Bởi vậy sử dụng tài nguyên đất không thể
tách rời việc bảo vệ và cải tạo môi trường.
1.3.2 Đất đai đối với sự phát triển các ngành kinh tế:
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như
là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Tuy nhiên đối với từng ngành cụ thể trong nền
kinh tế quốc dân, đất đai cũng có những vị trí vai trò khác nhau.
Trong ngành công nghiệp (trừ ngành khai khoáng), đất đai làm nền
tảng, làm cơ sở, làm địa điểm để tiến hành những thao tác, những hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Muốn xây dựng một nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích
đất đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng các nhà xưởng để máy móc, kho
tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường xá đi lại trong nội bộ… Tất cả những cái
đó là sự cần thiêt trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
10
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp đòi hỏi mở rộng
quy mô xây dựng. Các nhà máy mới tăng lên làm tăng số lượng diện tích đất
đai dành cho yêu cầu này.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp là sự
phát triển các ngành xây dựng, các công trình dân cư phát triển đòi hỏi xây
dựng nhà ở và hình thành đô thị, các khu dân cư mới. Những yêu cầu này
ngày càng tăng lên làm cho nhu cầu đất đai dành cho các ngành đó cũng tăng
lên.
Trong nông nghiệp đất đai có một vị trí đặc biệt quan trọng, là yếu tố
hàng đầu của ngành sản xuất này. Đất đai không chỉ là chỗ tựa, chỗ đứng để
lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng. Mọi tác động của
con người vào cây trồng đều dựa vào đất đai và thông qua đất đai. Đất đai sử
dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất.
Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
không thể thay thế được. Ruộng đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu

lao động.
Hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, đặc biệt trong ngành trồng trọt,
là quá trình tác động của con người vào ruộng đất (như cày bừa,bón phân…)
nhằm làm thay đổi chất lượng đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển, tức là quá trình biến ruộng đất kém màu mỡ thành
ruộng đất màu mỡ hơn. Trong quá trình này ruộng đất đóng vai trò như là đối
tượng lao động. Mặt khác con người sử dụng đất đai như một công cụ để tác
động lên cây trồng, thông qua đó làm tăng độ màu mỡ của đất nhằm thu sản
phẩm nhiều hơn. Trong quá trình này, ruộng đất đóng vai trò như là tư liệu lao
động.
Quá trình sản xuất nông nghiệp (trong ngành trồng trọt) là quá trình
khai thác sử dụng đất. Bởi vậy không có ruộng đất thì không thể có hoạt động
sản xuất nông nghiệp.
11
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
2- Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng đất
Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị chi
phối bởi các điều điều kiện và quản lí sinh thái của tự nhiên mặt khác bị sự
kìm chế của điều kiện, quy luật xã hội và các yếu tố kĩ thuật.
2.1 Điều kiện tự nhiên
Khi sử dụng đất đai ngoài bề mặt không gian như diện tích trồng trọt,
mặt bằng xây dựng… cần chú ý đến việc thích nghi với điều kiện tự nhiên và
quy luật sinh thái trong đất như: nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và
khoáng sản dưới lòng đất, trong điều kiện tự nhiên thì yếu tố khí hậu là yếu tố
hàng đầu trong việc sử dụng đất sau đó là điều kiện và địa hình thổ nhưỡng và
các điều kiện khác.
2.2 Điều kiện yếu tố khí hậu
Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn trực tiếp tới sản xuất và sinh hoạt
của con người. Tổng tích ôn nhiều hay ít, nhiệt độ bình quân cao hay thấp, sự
sai khác về nhiệt độ thời gian hoặc không gian, cường độ ánh sáng mạnh hay

yếu, thời gian ánh sáng dài hay ngắn, đặc điểm của gió và cường độ của gió.
Cường độ nước, lượng nước mưa, ẩm độ đều có ý nghĩa quan trọng đến
tăng trưởng và phát triển của cây trồng vật nuôi và cả nuôi trồng thuỷ sản.
2.3 Điều kiện đất đai (địa hình và thổ nhưỡng)
Sự khác nhau về địa hình, địa mạo, độ chia cắt, độ cao, hướng dốc dẫn
tới sự khác nhau về khí hậu ảnh hưởng trực tiếp tới nông nghiệp như chọn cây
trồng vật nuôi, lựa chọn phương thức sản xuất, bố trí công trình hạ tầng. Về
thổ nhưỡng các loại đất có đặc điểm khác nhau về nguồn gốc đều tác động đến
sinh trưởng, phát triển và xây dựng các công trình. Đặc điểm của điều kiện tự
nhiên mang tính khu vực. Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt khí hậu một
nước và điều kiện khác nhau sẽ quyết định đến khả năng công dụng và hiệu
quả sử dụng đất. Như vậy thực tiễn sử dụng đất đai cần tuân thủ theo quy luật
12
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
tự nhiên tận dụng các lợi thế nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao cả mặt môi
trường xã hội đồng thời khắc phục hạn chế để né tránh rủi ro và thiệt hại.
2.4 . Điều kiện kinh tế-xã hội
Bao gồm các yếu tố: dân số và lao động, thông tin và quản lý, chính
sách môi trường và chính sách đất đai, yêu cầu quốc phòng an ninh, sức sản
xuất và phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và cơ cấu phân bố sản
xuất, các điều kiện về nông nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp, giao thông
vận tải, sự phát triển của khoa học công nghệ, trình độ quản lý sử dụng lao
động, điều kiện trang thiết bị vật chất và phát triển nguồn lực đưa khoa học kĩ
thuật vào sản xuất.
Điều kiện kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định mang tính chủ
đạo đối với việc sử dụng đất đai. Phương hướng sử dụng đất được quy định
bởi yêu cầu sử dụng đất và mục tiêu kinh tế của từng thời kì nhất định. Điều
kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng, phương thức
sử dụng đất đai, sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi trình độ, sự năng
động của con người và điều kiện kinh tế xã hội, kĩ thuật công nghệ hiên có với

tính hợp lý và tính khả thi về mức độ đầu tư đồng thời quy định bởi nhu cầu
của thị trường.
Trong một vùng trên phạm vi một nước điều kiện vật chất của đất đai
thường có sự khác biệt không lớn nhưng về cơ bản là giống nhau với điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau. Vì vậy tình trạng có vùng đất đai được khai thác triệt
để từ lâu đời đem lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời có những vùng điều kiện
kinh tế xã hội thấp khai thác sử dụng đất kém hiệu quả.
Ta có thể khẳng định rằng điều kiện tự nhiên và đất đai tồn tại khách
quan, khai thác sử dụng đất quyết định vẫn là con người cho dù điều kiện tự
nhiên của đất đai có nhiều lợi thế nhưng điều kiện kinh tế xã hội không tương
ứng thì ưu thế về tài nguyên đất cũng khó có thể trở thành sức sản xuất hiện
thực theo ý muốn và ngược lại điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện kinh tế công
13
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
nghệ phát triển ứng dụng vào khai thác sử dụng đất sẽ phát huy tác dụng và
tiềm lực sản xuất của đất đai biến những bất lợi của điều kiện tự nhiên thành
những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Ảnh hưởng của điều
kiện kinh tế đến việc sử dụng đất đai được đánh giá bằng hiệu quả kinh tế của
sử dụng đất.
Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và xã hội xác định được mục đích sử
dụng đất kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu thế tài nguyên đất để đặt
được một cơ cấu tổng hợp ,hợp lí,đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện
tích đất.
2.5. Yêu cầu không gian
Các ngành sản xuất vật chất và phi vật chất (nông nghiệp-công nghiệp-
khai khoáng-xây dựng) và nhiều hoạt động kinh tế, xã hội đều cần đến đất đai
như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian bao gồm cả mặt bằng, vị
trí. Không gian của đất là yếu tố vĩnh cửu của tự nhiên ban phát cho xã hội
loài người. Vì vậy không gian là một trong những yếu tố cơ bản hạn chế việc
sử dụng đất.

Không gian mà đất đai cung cấp có tính cố định về vị trí sử dụng và số
lượng, không thể vượt quá quy mô, phạm vi hiện có.
Do vị trí không gian của đất không bị mất đi, không tăng thêm trong
quá trình sử dụng, không thay đổi trong khi dân số ngày càng tăng, yêu cầu,
nhu cầu cuộc sống đòi hỏi ngày càng cao cả về kinh tế,x ã hội vậy nên áp lực
sử dụng đất ngày càng tăng.
Sự bất biến về tổng diện tích đất đai không chỉ hạn chế khả năng mở
rộng diện tích (không gian) chi phối giới hạn thay đổi cơ cấu sử dụng đất nên
điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại. Số lượng đất
được sử dụng căn cứ vào sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội
nhằm đảm bảo nâng cao năng lực và lượng giả của đất.
14
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Khả năng dịch chuyển của đất đai dẫn đến việc phân bố khu vực rất chặt
chẽ. Với mật độ phân bố khu vực khác nhau thì tỷ lệ về cơ cấu của vùng là
như nhau. Tài nguyên đất có hạn, lại giới hạn về không gian nên phải tuân thủ
nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả, có kế hoạch bảo vệ
môi trường.
Đối với đất xây dựng đô thị, đất chuyên dùng trong công nghiệp, hạ
tầng, giao thông, thuỷ lợi… mặt bằng không gian ngày càng có ý nghĩa quan
trọng và có giá trị kinh tế rất cao.
3. Đăng kí đất
3.1. Khái niệm về đăng kí đất
Trong thực tế đời sống xã hội có rất nhiều việc cần phải đăng kí. Khi sở
hữu một tài sản có giá trị người sở hữu như đất đai, nhà ở, ô tô, xe máy
người sở hữu cần phải đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong
những hoạt động đăng kí trên có những loại đăng kí được coi là bắt buộc
nhưng cũng có những công việc chỉ phải đăng kí theo nhu cầu của người cần
đăng kí. Đăng kí bắt buộc chỉ áp dụng cho những hoạt động mà buộc phải có
sự giám sát của cơ quan nhà nước, còn đăng kí tự nguyện là những hoạt động

thông thường như đăng kí mua bán những tài sản ít có giá trị, đăng kí du lịch
mà không cần có sự giám sát của cơ quan nhà nước, việc đăng kí này chỉ được
thực hiện khi có nhu cầu từ người dân và chủ yếu người dân đăng kí vì mục
đích là có sự chứng thực của cơ quan nhà nước đối với hành vi của mình.
Đăng kí thường được hiểu là việc của cơ quan nhà nước hay một tổ
chức có tư cách pháp nhân đứng ra thực hiện việc ghi nhận hay xác nhận về
một sự việc hoặc một tài sản nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người
đăng kí cũng như tổ chức và cá nhân đứng ra đăng kí. Đăng kí đất là công việc
của cơ quan nhà nước thực hiện việc xác nhận về mảnh đất đó đối với tổ chức,
cá nhân sử dụng đất. Theo điều 33 Luật đất đai năm 1993 và điều 696 của Bộ
Luật dân sự, việc đăng kí đất đai là công việc bắt buộc đối với mọi tổ chức, cá
15
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
nhân và diễn ra trên phạm vi toàn quốc. Sau khi đăng kí các tổ chức, cá nhân
mới được Nhà nước giao đất, cho thuê đất sử dụng, được Nhà nước thay đổi
mục đích sử dụng, chuyển quyền sử dụng đất hoặc thay đổi những nội dung
quyền sử dụng đất đã đăng kí khác.
Đăng kí đất là một thủ tục hành chính thiết lập hồ sơ địa chính đầy đủ
và cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất hợp pháp nhằm xác lập mối
quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước với người sử dụng đất, làm cơ sở để
Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai theo pháp luật và bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người sử dụng đất.
Việc đăng kí đất thực chất có mục đích là để thiết lập nên một hồ sơ địa
chính hoàn chỉnh tới từng xã, phường, thị trấn thông qua đó để cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho những tổ chức cá nhân sử dụng đất. Thông qua hồ
sơ địa chính đó, Nhà nước thực hiện kiểm soát toàn bộ đất đai trên lãnh thổ,
điều này càng trở nên quan trọng khi mà ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do nhà nước thay mặt đứng ra trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, đăng kí đất
không chỉ là hoạt động thành lập hệ thống bản đồ,hồ sơ địa chính hoàn chỉnh
mà thường xuyên cập nhật các biến động về diện tích thửa đất, chủ sở hữu

đất bởi lẽ trong một xã hội luôn luôn vận động thì các hành vi của chủ sở
hữu này tác động lên chủ sở hữu khác thường xuyên diễn ra do vậy công tác
đăng kí đất đai luôn có được những thông số mới nhất về tất cả những vấn đề
liên quan tới thửa đất cũng như chủ sử dụng đất. Chính vì lẽ đó mà trong đăng
kí đất người ta đã chia ra thành 2 giai đoạn. Giai đoạn đăng kí ban đầu được
định nghĩa là giai đoạn được tổ chức thực hiện lần đầu tiên trên phạm vi cả
nước để thiết lập hệ thống hồ sơ địa chính ban đầu cho toàn bộ đất đai và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tất cả các chủ sử dụng đủ điều kiện.
Giai đoạn đăng kí biến động được thực hiện ở những địa phương đã hoàn
thành đăng kí đất ban đầu cho mọi trường hợp có nhu cầu thay đổi nội dung
của hồ sơ địa chính đã thiết lập.
16
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
3.2. Vai trò của công tác đăng kí đất
3.2.1 Đăng kí đất là cơ sở để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai:
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước đại diện trực
tiếp quản lý với mục đích sử dụng nguồn lợi đất đai một cách đầy đủ,tiết kiệm
và hiệu quả. Nhà nước thực hiện giao đất, cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá
nhân, tổ chức bằng hình thức thu tiền hoặc không thu tiền sử dụng đất. Thực
chất, bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân có nghĩa là bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất đảm bảo mảnh đất của người đăng kí có được đầy đủ các
quyền cơ bản như chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế, góp vốn liên
doanh Thông qua việc đăng kí đất, hệ thống hồ sơ, bản đồ địa chính được
hình thành một cách chi tiết tới tận xã, phường, thị trấn. Đó chính là cơ sở để
Nhà nước giám sát và bảo vệ chính đáng cho những mảnh đất hợp pháp của
người sử dụng đất. Ngoài ra cũng để tính toán thu nghĩa vụ tài chính.
3.2.2 Đăng kí đất là điều kiện đảm bảo để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ
quỹ đất trong phạm vi lãnh thổ; đảm bảo cho đất đai được sử dụng đầy đủ,
hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất:
Đất đai trong toàn bộ lãnh thổ là đối tượng quản lý của Nhà nước chính

vì vậy muốn quản lý được diện tích lớn đến như vậy Nhà nước cần phải nắm
được chắc chắn thông tin của từng mảnh đất. Đối với những mảnh đất có chủ
sử dụng hợp pháp thì cần phải nắm được những thông tin về diện tích, hình
thể, vị trí, chủ sử dụng, hình thức sử dụng, mục đích sử dụng, hạng đất. Đối
với những mảnh đất chưa có chủ sử dụng thì nắm những thông tin về diện
tích, hình thể, vị trí, hạng đất. Tất cả các chi tiết đó phải được thực hiện một
cách hết sức chi tiết bởi đó là căn cứ để nhà nước tính nghĩa vụ tài chính, định
giá để đấu thầu, đấu giá và đó cũng là căn cứ để giải quyết những tranh chấp
về đất đai.
17
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
3.2.3 Đăng kí đất là một nội dung quan trọng có quan hệ hữu cơ với các nội
dung, nhiệm vụ khác của quản lý nhà nước về đất đai:
Đăng kí đất thiết lập nên hệ thống hồ sơ địa chính và chủ yếu dùng để
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không chỉ là kết quả của đăng kí đất mà còn là sản phẩm kế thừa của các nội
dung, nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai khác như:
- Xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng
đất đai. Đây là cơ sở cho việc đăng kí đất đúng thủ tục, đúng đối tượng, đúng
quyền và nghĩa vụ sử dụng đất.
- Công tác điều tra, đo đạc: là việc hình thành nên diện tích, vị trí, kích
thước, hình thể của thửa đất. Là thông tin chính trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
- Công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất: kết quả của công tác này
sẽ hình thành nên cơ sở xác lập giữa những mảnh đất hợp pháp và bất hợp
pháp. Công tác này cũng đảm bảo cho việc sử dụng đất đầy đủ, tiết kiệm và
hiệu quả.
- Công tác giao đất và cho thuê đất: là công tác có ảnh hưởng quan
trọng tới việc sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức sử dụng đất
bởi đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước đại diện đứng ra thực hiện việc

giao đât, cho thuê đất theo hai hình thức có thu tiền hoặc không thu tiền sử
dụng đất.
- Công tác phân hạng và định giá đất: công tác này chủ yếu dùng trong
việc xác định nghĩa vụ tài chính và chia tài sản trong giải quyết tranh chấp,
khiếu kiện về đất đai.
- Công tác thanh tra và giải quyết tranh chấp về đất đai: nhằm xác định
đúng chủ sử dụng đất. Trong quá trình thực hiện đăng kí ban đầu,nếu nảy sinh
những tồn tại trong quan hệ sử dụng đất hay những tiêu cực trong quá trình
18
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
quản lý công tác này sẽ đóng vai trò giải quyết những tồn tại vướng mắc từ đó
tìm ra những cách thức xử lý phù hợp.
Để đảm bảo thực hiện đăng kí đất đạt được chất lượng tốt và hiệu quả
cao đòi hỏi người quản lý phải triển khai đồng bộ các công tác trên từ việc lập
quy hoạch, kế hoạch tới công tác ban hành các văn bản pháp luật và kết thúc là
công tác giao đất và cho thuê đất.
3.3. Đặc điểm của đăng kí đất:
3.3.1 Đăng kí đất là một nội dung mang tính đặc thù của quản lý nhà nước về
đất đai:
Tính đặc thù của quản lý nhà nước thể hiện rõ ở hai mặt sau đây:
- Là hình thức bắt buộc đối với mọi đối tượng sử dụng đất: Ở bất cứ
một quốc gia nào trên thế giới thì việc đăng kí đất là hình thức bắt buộc để
thông qua đó nhà nước giám sát và kiểm soát mọi biến động đối với diện tích
mà họ quản lý. Đây là công việc mà thông qua đó thiết lập nên mối quan hệ,
ràng buộc pháp lý giữa Nhà nước và người sử dụng đất.
- Là công việc của cả bộ máy hành chính:điều này xuất phát từ Điều 8
Luật Đất đai, ngành địa chính chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Chính phủ
trong việc quản lý đất đai các cấp.
3.3.2 Đăng kí đất thực hiện với một đối tượng đặc biệt là đất đai:
Đất đai là một đối tượng quản lý đặc biệt bởi 3 lý do chính sau đây:

- Khác với những công tác đăng kí khác, đăng kí đất - một tài sản thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện trực tiếp quản lý. Nhà nước không cho
phép bất kì cá nhân hay tổ chức nào đứng tên sở hữu đất mà chỉ cho phép
được nhận đất được giao hay cho thuê từ Nhà nước và mảnh đất đó có thể bị
thu hồi bất kỳ khi nào để Nhà nước phục vụ cho các nhu cầu của xã hội.
- Đất đai tuy không được sở hữu mà chỉ được phép sử dụng nhưng lại là
19
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
một tài sản rất có giá trị. Trong hầu hết những tài sản của người sử dụng đất
thì đất đai thường là tài sản có giá trị và có ý nghĩa đặc biệt đối với người sử
dụng đất và nó càng đặc biệt hơn đối với một đất nước luôn coi ngôi nhà và
mảnh đất là “mái ấm” không thể thiếu. Nó không chỉ là tài sản có giá trị đối
với mỗi cá nhân nói riêng mà còn là tài sản quý giá đối với cả xã hội nói
chung, như ông bà ta đã nói “tấc đất tấc vàng”. Chính bởi vậy việc sử dụng đất
tiết kiệm, hiệu quả phải là ý thức chung của mỗi cá nhân.
- Đất đai là một tài sản cố định và gắn liền với nó luôn là những công
trình có giá trị và có ý nghĩa rất quan trọng. Những tài sản trên đất này có thể
được phép sở hữu bởi người sử dụng đất.
3.3.3 Đăng kí đất phải được tổ chức thực hiện theo phạm vi hành chính từng
xã,phường,thị trấn.
Ở Việt Nam, bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thành 4 cấp:
Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Luật Đất đai quy định Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn là cơ quan chịu trách nhiệm trong việc tổ chức đăng kí đất.
Việc tổ chức đăng kí đất theo phạm vi từng xã sẽ đảm bảo:
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người sử dụng đất thực hiện đăng kí
đất đầy đủ, thể hiện đúng bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa: “Nhà nước
của dân, do dân, vì dân”.
- Phát huy vai trò và sự hiểu biết về lịch sử, thực trạng tình hình sử dụng
đất ở địa phương của đội ngũ cán bộ xã, làm chỗ dựa tin cậy để các cấp có
thẩm quyền xét duyệt đăng kí, cấp giấy chứng nhận theo đúng quy định của

pháp luật.
- Góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm, nhận thức pháp luật đất đai
cho cán bộ xã.
- Giúp cán bộ địa chính xã nắm vững và khai thác có hiệu quả hệ thống
hồ sơ địa chính.
20
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
3.4. Quy trình thực hiện công tác đăng kí đất theo cơ chế “một cửa”
Việc đăng kí đất đai và nhà ở được thực hiện tại văn phòng đăng kí đất
và nhà. Văn phòng này có chức năng tổ chức thực hiện đăng ký quyền sử dụng
đất, quản lý hồ sơ địa chính gốc và thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý
đất đai theo cơ chế “một cửa”. Cơ chế “ một cửa” là cơ chế giải quyết thủ tục
hành chính thuộc thẩm quyền cơ quan hành chính, theo đó các khâu từ tiếp
nhận hồ sơ hành chính đến trả kết quả giải quyết đều được thực hiện tại một
đầu mối. Quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa gồm 3
bước:
Bước 1: “Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành
chính” xem hồ sơ yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính của công dân, tổ chức.
Nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định thì viết giấy biên nhận đã nhận hồ sơ và hẹn
ngày trả kết quả.
Nếu hồ sơ chưa đầy đủ thì hướng dẫn cụ thể để tổ chức, công dân bổ
sung hoàn chỉnh. Trường hợp yêu cầu của tổ chức, công dân không thuộc
phạm vi giải quyết thì hướng dẫn để tổ chức, công dân đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để giải quyết.
Đối với những thủ tục hành chính có yếu tố chuyên môn kinh tế - kĩ
thuật phức tạp cần phải giải trình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết, phải thông báo bằng văn bản cho công dân,tổ chức biết nội dung, thời
gian, địa điểm giải trình những vấn đề đó. Thời gian gửi thông báo phải đủ
thời gian để cho công dân, tổ chức nhận được và chuẩn bị giải trình.
Bước 2: “Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành

chính” chuyển hồ sơ thủ tục hành chính đến các phòng chuyên môn để giải
quyết. Các phòng chuyên môn sẽ nghiên cứu hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt, sau đó chuyển về bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để trả kết quả
đúng kết quả quy định.
21
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Bước 3: “Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành
chính” nhận kết quả giải quyết hồ sơ, lưu giữ kết quả giải quyết, thu phí, lệ phí
theo quy định trả kết quả cho công dân, tổ chức theo đúng thời gian đã hẹn.
Trường hợp giải quyết hồ sơ không đúng thời gian đã hẹn thì bộ phận
tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính có trách nhiệm
thông báo cho tổ chức, công dân biết lý do và hẹn lại thời gian trả kết quả.
Toàn bộ công việc ở bước 2, bước 3 diễn ra trong cơ quan hành chính,
công dân và tổ chức không cần phải đến từng phòng chuyên môn.
Phạm vi thực hiện cơ chế một cửa bao gồm toàn bộ thủ tục hành chính
thuộc thẩm quyền thụ lý hồ sơ và giải quyết của cơ quan hành chính của
Thành phố trừ những thủ tục không có khả năng giải quyết hoặc không đủ
điều kiện thực hiện. Đối với những thủ tục đó cơ quan tiếp nhận và trả kết quả
phải giải trình rõ lý do, riêng đối với những thủ tục chưa đủ điều kiện phải đề
ra giải pháp khắc phục và thời gian đưa vào thực hiện theo cơ chế “một cửa”.
5.2. Nội dung đăng kí đất đai
5.2.1 Đăng kí xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất để họ yên tâm đầu tư, cải
tạo nâng cao hiệu quả sử dụng đất và thực hiện các quyền và nghĩa vụ sử dụng
đất theo pháp luật.
Các bước thực hiện cấp giấy chứng nhận và xử lý vi phạm của Ủy ban
nhân dân cấp huyện, tỉnh:
- Lập bản đồ và các sổ sách địa chính: sổ địa chính,sổ mục kê,sổ cấp
giấy chứng nhận, thống kê toàn bộ diện tích đất đai, tổ chức kiểm tra và

nghiệm thu toàn bộ hồ sơ địa chính và phân cấp quản lý, lưu trữ hồ sơ địa
chính.
- Giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và thu
22
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
lệ phí địa chính, thu toàn bộ các giấy tờ gốc về nguồn gốc sử dụng đất về
Trung tâm địa chính của tỉnh.
- Tổ chức xử lý các trường hợp vi phạm chính sách đất đai đã có quyết
định của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện xử lý các trường
hợp vi phạm chính sách đất đai theo đúng nội dung, hình thức, thời hạn thực
hiện xử lý đã ghi trong quyết định của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Cơ quan thuế địa phương phối hợp với Ủy ban nhân dân xã tổ chức thu
các khoản nghĩa vụ tài chính theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền.
Hết thời hạn thực hiện quyết định xử lý vi phạm, Ủy ban nhân dân xã
lập biên bản kết thúc việc thực hiện xử lý và lập tờ trình đề nghị Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận bổ sung cho các đối tượng đủ
điều kiện sau khi đã chấp hành quyết định xử lý vi phạm.
5.2.2 Đăng kí biến động quyền sử dụng đất,tài sản gắn liền với đất:
Bao gồm các nội dung về:
-Thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất.
-Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
-Thủ tục cho thuê,cho thuê lại đất.
-Thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất.
-Thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất.
-Đăng kí biến động khi nhà nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
-Đăng kí chuyển mục đích sử dụng, thay đổi thời hạn sử dụng,thay
đổi hình thể sử dụng, chia tách quyền sử dụng đất.
-Đăng kí biến động do thiên tai không còn đất sử dụng.

-Đăng kí tình trạng mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
-Đăng kí đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
23
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐĂNG KÍ VÀ QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂY HỒ
1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội quận Tây Hồ
Quận Tây Hồ là đơn vị hành chính cấp quận, được thành lập theo Nghị
đinh 69/CP ngay 28/10/1995 của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ
ngay 01/01/1996 trên cơ sở sát nhập 3 phường của quận Ba Đình và 5 xã
thuộc huyện Từ Liêm.
Quận Tây Hồ nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội, phía Nam
giáp quận Ba Đình, đông bắc giáp quận Long Biên, phía Tây giáp huyện Từ
Liêm và quận Cầu Giấy, tây bắc giáp huyện Đông Anh. Phía đông bắc có sông
Hồng nằm dọc theo ranh giới giữa quận Tây Hồ với huyện Đông Anh và quận
Long Biên chảy theo hướng đông bắc xuống đông nam, tạo ra một vùng đất
bãi ven sông trù phú từ chân cầu Thăng Long xuống tới khu bãi An Dương
thuộc các phường Phú Thượng, Nhật Tân, Tứ Liên, Quảng An, Yên Phụ với
diện tích khoảng hơn 200 ha, diện tích sông Hồng nằm trong địa giới hành
chính của quận Tây Hồ khoảng 464 ha.
Hồ Tây là một hồ tự nhiên nằm trọn trong địa giới hành chính của quận
Tây Hồ với diện tích mặt nước khoảng 526 ha. Hồ Tây là danh thắng nổi tiếng
của Hà Nội và của cả nước, nằm xung quanh ôm lấy hồ là các khu dân cư và
các công trình xây dựng lớn thuộc các phường Yên Phụ, Quảng An, Nhật Tân,
Xuân La và Thụy Khuê với các tuyến đường trục chính chạy vòng quanh hồ
như:đường Bưởi - Thụy Khuê dài 4,5 km; đường Thanh Niên dài 1,2 km;
đường phố Yên Phụ dài 1,5 km; đường Xuân Diệu dài 800 m; một phần
đường Âu Cơ (từ đồn công an Quảng An tới đồn công an Nhật Tân) dài 3,5
km và đường Lạc Long Quân dài 3,8 km.Hồ Tây và vùng đất xung quanh hồ

24
Luận văn tốt nghiệp Trần Trung
trọng tâm đầu tư xây dựng các công trình đô thị bao gồm: công tình hạ tầng kĩ
thuật xung quanh Hồ Tây và các công trình kiến trúc lớn khác như: công viên
nước Hồ Tây, làng du lịch Nghi Tàm, làng văn hóa Việt - Nhật Đây là vùng
đất có khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước rất lớn: dự án cải tạo
môi trường nước Hồ Tây - 30 triệu USD (vốn vay ODA); dự án liên doanh
Câu lạc bộ Hà Nội; khách sạn K5; Khách sạn Cổ Ngư (Lake View Sport)
Khu dân cư của các phường nằm quanh hồ vốn xưa kia là các làng cổ
ven đô với những địa danh rất nổi tiếng như: Nghi Tàm, Quảng Bá, Tây Hồ,
Yên Phụ, Yên Thái, Võng Thị gắn liền với vùng hoa đào, quất cảnh nổi
tiếng và những nghề thủ công truyền thồng như giấy dó, dệt vải
Tổng diện tích đất tự nhiên theo địa giới hành chính của quận là
2400,81 ha. Trong đó:
- Đất nông nghiệp :933,28ha
- Đất phi nông nghiệp :1338,18ha
- Đất chưa sử dụng :129,34ha
* Trên địa bàn quận có 8 đơn vị hành chính cấp phường gồm:
- Phường Yên Phụ nằm ở phiá đông nam của quận, có
diện tích tự nhiên là:
149,77ha
- Phường Quảng An nằm ở trung tâm quận phía bờ đông
bắc của Hồ Tây với diện tích tự nhiên là:
345,79ha
- Phường Tứ Liên nằm ở phái đông bắc của quận, có
diện tích tự nhiên là
351,05ha
- Phường Nhật Tân nằm ở phía bắc của quận, có diện
tích tự nhiên là:
341,23ha

- Phường Phú Thượng nằm ở phía tây bắc của quận, có
diện tích tự nhiên là:
609,54ha
-Phường Bưởi nằm ở phía tây nam của quận, có diện
tích tự nhiên là:
139,20ha
25

×