Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng việt giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.19 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



Nguyễn Thò Ngọc Hân



ĐẶC ĐIỂM LƯT LỜI HỒI ĐÁP THUỘC
HÀNH ĐỘNG HỎI TRỰC TIẾP TRONG
TIẾNG VIỆT GIAO TIẾP



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ HAI










Thành phố Hồ Chí Minh – 2006

Lời cảm ơn

Luận văn này hoàn thành ngoài sự trau dồi học hỏi, nỗ lực học tập và nghiên cứu
của bản thân, còn nhờ có sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của quý thầy cô, các anh chò và
các bạn học cùng khóa.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính yêu và tri ân sâu sắc
PGS.TS Nguyễn Thò
Hai
, người đã tận tâm, tận tình hướng dẫn khoa học, đã đònh hướng, gợi mở và truyền
đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô cùng các em học sinh Trường THCS bán
công Phú Thọ, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh đã hết lòng giúp đỡ và động viên tôi
hoàn thành khóa luận.
Xin cảm ơn Phòng Khoa học Công nghệ – Sau đại học và Khoa Ngữ văn Trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi thực hiện và bảo vệ
luận văn.
Sau cùng, tôi vô vàn biết ơn gia đình và chân thành cảm ơn bạn bè gần xa đã cổ
vũ, khích lệ để tôi an tâm học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn chân thành và sâu sắc!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2006

Nguyễn Thò Ngọc Hân


MỞ ĐẦU
1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, hỏi là một trong những hành động được người bản ngữ sử
dụng nhiều khi giao tiếp nhằm thể hiện điều hoài nghi và mong muốn sự giải đáp của người đối
thoại. Không riêng ở hành động hỏi mà tất cả các hành động ngôn ngữ đều đòi hỏi phải có sự
hồi đáp. Và “không có gì đáng sợ bằng sự thiếu vắng lời hồi đáp” như người ta đã từng nói.
Vấn đề hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp cũng đã được đề cập
không ít trong các tài liệu ngữ dụng học tiếng Việt, cũng như trong những công trình, những bài
viết đăng trên một số tạp chí. Nhưng nhìn chung, cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được nghiên
cứu một cách sâu rộng, toàn diện, có tính hệ thống.
Việc đi sâu nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp ta xác đònh đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành
hỏi trực tiếp trong ngôn ngữ giao tiếp. Nhờ đó chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về vò trí, vai trò
và chức năng của nó trong hoạt động giao tiếp. Đồng thời, từ đó, chúng ta xác đònh được các quy
tắc văn hóa ứng xử khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, nói chung, của học sinh, nói
riêng. Đó là tính cấp thiết của vấn đề. Chính vì vậy chúng tôi quyết đònh lựa chọn đề tài cho
luận văn của mình là: Đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt
giao tiếp.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhìn lại lòch sử nghiên cứu ngữ dụng học tiếng Việt, trong khoảng mươi năm trở lại đây,
trong các công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến vấn đề hồi
đáp thuộc hành động hỏi trên bình diện rộng gắn với ba cuộc vận động đặc trưng của hội thoại:
trao lời, trao đáp và tương tác. Gần đây, có thể kể đến một số công trình, bài viết g
ần
gũi với đề
tài luận văn như:
- Lê Đông, trong Luận án Phó tiến só KHNV, 1996, đã tập trung nghiên cứu câu hỏi chính
danh trên bình diện ngữ nghóa – ngữ dụng gắn với sự tác động qua lại của câu trả lời. Qua
đó, tác giả khẳng đònh: trả lời là phản ứng đặc trưng cho hành động hỏi, nó có nhiệm vụ
cung cấp lượng tin mà người hỏi cần biết.
- Lê Anh Xuân, Các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh, Tạp chí Ngôn ngữ, 2000.

Bài viết tập trung mô tả nội dung, cách thức, của các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi
chính danh. Chủ yếu khảo sát trên cứ liệu tác phẩm văn chương.
- Vũ Thanh Hương, Ngôn ngữ phản hồi của giáo viên trên lớp học ở bậc tiểu học, Tạp chí
Ngôn ngữ, 2003, tập trung vào miêu tả và cấu trúc thông tin trong ngôn ngữ phản hồi của
giáo viên và phân tích giá trò của nó đối với quá trình tiếp nhận kiến thức của học sinh.
- Phạm Văn Tình, Im lặng - một dạng tỉnh lược ngữ dụng, Tạp chí Ngôn ngữ, 2000, tác giả
đã xem xét các tình huống im lặng nhằm diễn đạt các nội dung ngữ nghóa, biểu thò các
thái độ khác nhau khi trao đáp…
Thế nhưng, đặc điểm lượt lời hồi đáp trong hội thoại, nhất là trong hành động hỏi trực tiếp
diễn ra trong môi trường dạy học chưa được các nhà nghiên cứu tập trung khai thác sâu và kó.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Như trên đã trình bày, mặc dù vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu khai thác, nhưng nó
vẫn chưa được nghiên cứu một cách chi tiết, có hệ thống trên cứ liệu tiếng Việt giao tiếp trong
môi trường dạy - học. Do đó, việc nghiên cứu nó không phải là hoàn toàn đơn giản.
Do tính phức tạp của vấn đề, của việc thu nhập nguồn tư liệu, xử lý tư liệu, cũng như giới hạn
thời lượng nghiên cứu, và trong khuôn khổ của một luận văn thạc só cho phép, người viết luận
văn chỉ miêu tả lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp, dựa
trên nguồn tư liệu chủ yếu: một số băng thu từ các cuộc hội thoại trong giờ học của học sinh
trung học cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh.
4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Các phương pháp nghiên cứu khoa học: quan sát, thống kê, phân loại, miêu tả.
- Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học: phương pháp phân bố, phương pháp thay thế,
phương pháp phân tích ngữ nghóa,…
- Phương pháp điền dã: thu băng tự nhiên. Các băng ghi âm ngôn ngữ giao tiếp của thầy – trò
diễn ra tại các tiết học chính khóa từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS bán công Phú Thọ,
quận 11, tp.HCM. Các tiết học này có nội dung thuộc kiểu bài lónh hội tri thức mới, thuộc

môn học Ngữ văn (tiếng Việt), và những cuộc hội thoại diễn ra giữa học sinh với nhau
trong giờ chơi.
5. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Tìm ra đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp.
- Xác đònh vò trí , vai trò và chức năng của lượt lời hồi đáp trong hội thoại.
- Hai mục đích trên dẫn đến việc xác đònh các quy tắc văn hóa ứng xử của người Việt trong
giao tiếp bằng ngôn ngữ .
- Cố gắng đưa ra một số đề nghò có tính biện pháp nhằm giáo dục cho học sinh có thói quen
đáp lại lời hỏi một cách văn hóa, trong các tình huống giao tiếp ở lớp học cũng như ở môi
trường sinh hoạt thường ngày.
6. GIÁ TRỊ CỦA ĐỀ TÀI
6.1.
Giá trò khoa học
- Giúp các nhà nghiên cứu có cái nhìn tổng quan về đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành
động hỏi trực tiếp trong giao tiếp hội thoại.
- Trên cơ sở đó các kết quả cũng như các kết luận của luận văn có thể là tài liệu tham khảo
cho những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề hành động ngôn ngữ, nói riêng, cũng như
các vấn đề thuộc ngữ dụng học, nói chung.
- Nếu đề tài này được triển khai tốt, thì sự thành công của nó sẽ là một đóng góp nhỏ
không chỉ vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề thuộc lý thuyết ngữ nghóa học và ngữ dụng
học, mà còn vào việc phát triển các lý thuyết này.
6.2.
Giá trò thực tiễn
- Những kết quả của việc triển khai đề tài đưa lại sẽ có thể đóng góp được vào việc biên
soạn các giáo trình ngữ pháp học, ngữ dụng học và chuyên đề ngữ nghóa học.
- Việc triển khai đề tài này có thể giúp các nhà sư phạm tìm ra một số giải pháp nhằm kích
ứng sự phát triển tư duy ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của học sinh.
7. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài

Chương 2: Phân loại và miêu tả các phát ngôn hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong
tiếng Việt giao tiếp
Chương 3: Mối quan hệ giữa lượt lời hồi đáp với một số vấn đề hội thoại, lập luận và lòch sự

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Ngôn ngữ học, khi đã có Lý thuyết Ngữ pháp tạo sinh của N. Chomsky, vẫn còn tồn tại những
khuynh hướng đi theo chức năng luận. Đến năm 1976, khi giáo trình Subject and topic của Ch.
N. Li và S. A. Thompson ra đời, các nhà nghiên cứu đã có thể chọn cho mình hướng đi nào (hình
thức luận, chức năng luận) thích hợp. Cuối cùng, người ta đã chọn hướng xem ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp nghóa là, khi nghiên cứu, người ta xem xét ngôn ngữ trong hoạt động hành
chức của nó.
1.1.

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, “Lý thuyết hành động ngôn ngữ” (Speech acts theory) đã
được J. Austin và J. Searle đi sâu nghiên cứu và đề xuất trên khái niệm “trò chơi ngôn ngữ”
(Linguistic games) mà Wittgenstein đã nêu ra trước đó.
Thuật ngữ Speech atcs theory được các nhà Việt ngữ học dòch khác nhau, cụ thể:
1. Nguyễn Đức Dân gọi là: Lý thuyết hành vi ngôn ngữ [9]
2. Nguyễn Thiện Giáp gọi là: Lý thuyết hành động ngôn từ [23]
3. Đỗ Hữu Châu gọi là: Lý thuyết hành động ngôn ngữ/ Lý thuyết hành vi ngôn ngữ [3]
4. Cao Xuân Hạo gọi là: Lý thuyết hành động ngôn từ/ Lý thuyết hành động ngôn ngữ [26]
Để thống nhất cách dùng thuật ngữ trên, trong luận văn, chúng tôi gọi theo cách dòch của
Cao Xuân Hạo: Lý thuyết hành động ngôn ngữ.
1.1.1. Hành động ngôn ngữ và các loại hành động ngôn ngữ
Thực ra, trước khi có sự ra đời của Lý thuyết hành động ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học đã
nghiên cứu ng
ữ pháp của câu chủ yếu là phân tích cấu trúc. Câu được đánh giá đúng sai về ngữ

nghóa theo tiêu chuẩn logic. Chẳng hạn, so sánh bốn câu: [9, tr. 16].
(1)
- Con coi băng học tiếng Anh này.
(2) - Con coi băng học tiếng Anh này đã.
(3) - Con coi băng học tiếng Anh này chứ bộ.
(4) - Con coi băng học tiếng Anh này kia/cơ.
Nghiên cứu dưới góc độ của ngữ pháp truyền thống, cả bốn câu trên đều đồng nhất về cấu
trúc và hầu như đồng nhất về từ ngữ. Các nhà ngữ pháp chưa chú ý đến giá trò tạo nghóa câu của
các tiểu từ tình thái đứng ở cuối câu.
Tuy nhiên, xem xét các hiện tượng hoạt động lời nói theo quan điểm Lý thuyết hành động
ngôn ngữ thì bản chất ngữ nghóa và cú pháp của bốn câu trên khác nhau về cơ bản vì chúng thể
hiện mục đích dùng khác nhau, những hành động ngôn ngữ khác nhau.
Câu (1): là một lời tường thuật, dùng để trả lời một câu hỏi mà tiền giả đònh có thể: “Con coi
băng học tiếng Anh nào?”.
Câu (2): được dùng để trả lời cho câu đề nghò mà tiền giả đònh có thể: “Con có đi với mẹ
không thì bảo”. Ở đây chủ thể tiếp nhận “con” không từ chối việc “đi” với “mẹ”, nhưng trước
hết “con” cần thực hiện việc “coi” xong băng học tiếng Anh. Chính từ “đã” làm cho câu (2) có
nét nghóa trên.
Câu (3): là một lời thanh minh khẳng đònh rằng “Con coi băng học tiếng Anh này” nhằm bác
bỏ một kết luận rằng “con” đã làm một việc gì đó mà việc đó được coi là không hài lòng. Tiền
giả đònh có thể: “Con lại coi cái gì nữa đấy!”.
Câu (4): tiền giả đònh có thể là có rất nhiều loại băng học tiếng Anh nhưng người ta đã chọn
đưa ra một loại băng chưa đúng “ý” của “con”, nên “con” từ chối bằng cách đưa ra một đề nghò
như trên.
Rõ ràng, cả bốn câu nêu trên đều diễn ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất đònh nào đó, mà
người mở lời mẹ - có vai xã hội cao hơn so với người đáp lời – “con”. Bằng phương tiện “lời”,
chủ thể “con” đã thể hiện hành động, diễn tả ý đònh trong từng trường hợp một khác nhau. “Các
hành động được thể hiện bằng lời gọi là hành động ngôn từ (speech act). Hành động ngôn từ
chính là ý đònh về mặt chức năng của một phát ngôn” [23, tr. 38].
“Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc

biệt mà phương tiện là ngôn ngữ” [3, tr. 88]. Cũng theo Đỗ Hữu Châu: “Trong khi cố gắng biểu
hiện mình người ta không chỉ tạo ra các phát ngôn chứa các cấu trúc ngữ pháp và các từ, mà
người ta còn thực hiện các hành động bằng các phát ngôn đó”. Chẳng hạn: Phát ngôn sau đây:
(5) - Con xin lỗi ngoại, con hổng dám nữa.
Trong phát ngôn trên, đứa cháu nói ra lời “xin lỗi” tức là hành động xin lỗi đã được thực
hiện. “Các hành động được thực hiện bằng các phát ngôn được gọi chung là hành động nói” [26,
tr. 96]. Tuy nhiên, một phát ngôn không giản đơn chỉ có thể tương ứng với một hành động mà nó
có thể có nhiều hơn, ví dụ: phát ngôn sau:
(6) - Bài toán này khó thực.
Trước hết, đây có thể là lời “than” của học sinh khi đứng trước bài toán mà khả năng giải
của em chưa đủ tầm. Hoặc, phát ngôn này có thể là lời “khen ngợi” qua nhận xét đánh giá của
người kiểm tra theo sát việc học của em học sinh nào đó và nhận thấy rõ sự tiến bộ trong việc
tiếp thu kiến thức toán học của em.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng: “Mục đích cuối cùng của hoạt động ngôn ngữ là thực hiện
sự giao tiếp giữa người và người trong xã hội” [26, tr. 6], cho nên việc nghiên cứu câu phải được
tiến hành với ý thức không chỉ để lập danh sách các đơn vò ngôn ngữ mà còn để theo dõi cách
hành chức của ngôn ngữ thông qua những biểu hiện sinh động của nó khi được sử dụng; quan
tâm tới mối quan hệ ngữ nghóa – ngữ dụng giữa các câu với tính cách là những hành động ngôn
ngữ hiện thực, thực hiện ý đồ giao tiếp, chiến lược giao tiếp của các chủ thể nói trong quá trình
tương tác liên chủ thể, với cả những yếu tố hiển ngôn lẫn những yếu tố tiền giả đònh và hàm
ngôn… Mối quan hệ giữa các nhân tố đó trong một chỉnh thể thống nhất phản ánh cái logic của
sự tổ chức ngôn từ, của hành vi hoạt động, của nhận thức.
Theo các nhà nghiên cứu, trong bất kỳ trường hợp nào, một phát ngôn được tạo ra bởi ba
hành động liên quan nhau. Đó là hành động tạo lời (locutionary act), hành động ở lời
(illocutionary act) và hành động mượn lời (perlocutionary act).
1

Hành động tạo lời là hành động cơ sở của phát ngôn, là hành động thực hiện một phát ngôn
với ý nghóa và sở chỉ xác đònh. Trong đó, một phát ngôn được tạo ra (về hình thức và nội dung)
từ việc sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ (ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu…).

Thông thường một phát ngôn đúng được tạo ra bao giờ cũng hướng đến mục đích nhất đònh.
Thực ra khi tạo nên một phát ngôn là trong ý nghó chúng ta đã gán cho nó một chức năng nào đó

1
Thuật ngữ này chúng tôi dùng theo cách gọi của Đỗ Hữu Châu
và mong muốn làm cho nó có một hiệu quả. Nói khác đi, đó chính là hành động ở lời và hành
động mượn lời mà chúng tôi sẽ đề cập dưới đây trong các kiểu hành động ngôn ngữ.
Hành động mượn lời thực chất là những kiểu tác động khác nhau về tâm lý, tình cảm của
người nói đến người tham gia giao tiếp. Chẳng hạn, làm cho người ta quan tâm, chú ý, tin tưởng
hay hoài nghi, lo lắng, run sợ…
Trong các kiểu hành động ngôn ngữ, người ta đặc biệt quan tâm đến hành động ở lời.
1.1.2.
Hành động ngôn ngữ ở lời
Hành động ở lời thực chất là những hành động thể hiện các kiểu mục đích phát ngôn: hỏi,
yêu cầu, ra lệnh, mời mọc, hứa hẹn, khuyên bảo…
1.1.2.1.

Những hiểu biết cần thiết về hành động ở lời
Theo
Đỗ Hữu Châu,“Hành động ởø lời là những hành động người nói thực hiện ngay khi nói
năng” [3, tr. 89]. Hành động ở lời được thực hiện nhờ hiệu lực giao tiếp của phát ngôn. Nó thực
chất là những hành động thể hiện các kiểu mục đích phát ngôn như hỏi, trả lời, hứa hẹn, ra lệnh,
yêu cầu, điều khiển… Ví dụ:
(7) - Anh có khỏe không?
(8) - Mày đònh nói cho cha mày nghe đấy à? (Ngữ văn 8, tập I, NXB Giáo dục)
Câu (7): đây là lời thăm hỏi nhau của những người quen biết lâu ngày mới gặp lại. Người hỏi
muốn hỏi thăm về tình trạng sức khỏe.
Câu (8): hành động hỏi trong phát ngôn của tên cai lệ được phát ra không nhằm mục đích hỏi
mà là thể hiện hàm ý đe dọa chò Dậu khi chò nài nỉ xin khất tiền sưu.
“Hành động ở lời của phát ngôn là ý đồ giao tiếp của người nói hoặc chức năng mà phát ngôn

nhắm thực hiện” [23, tr. 46]. Làm sao người nghe có thể nhận biết được ý đồ giao tiếp của người
nói cũng như làm thế nào để người nói dám chắc rằng hành động ở lời mà mình chủ đònh đó sẽ
được người nghe nhận biết? Chẳng hạn, phát ngôn: (9) -“Em sẽ báo anh sau” có thể được giải
thích là: a) một lời từ chối, b) một lời hứa.
a) Em sẽ báo anh sau.
b) Em hứa rằng em sẽ báo anh sau.
Như vậy, cùng một phát ngôn nhưng có thể tiềm tàng nhiều hành động ở lời khác nhau. Gần
đây, người ta cũng phân biệt hai hành động ở lời: Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời
gián tiếp.
1.1.2.2.

Hành động ở lời trực tiếp
“Hành động ở lời trực tiếp là hành động ngôn ngữ được biểu hiện, được cảm nhận một cách
trực tiếp nhờ vào các phương tiện hay dấu hiệu ở lời riêng vốn có trong ngôn ngữ”[19]. Căn cứ
vào mục đích phát ngôn, người ta chia câu tiếng Việt thành 4 loại là: câu trần thuật
(declarative), câu hỏi (interrogative), câu cầu khiến (imperative) và câu cảm thán (interfetive).
Mỗi kiểu câu đều ứng với cấu trúc và chức năng riêng. Chẳng hạn: dùng các hình thức hỏi để
biểu hiện ý hỏi: Anh có khỏe không? Cháu về à? Em là Nam phải không? dùng các hình thức
cầu khiến để biểu thò các dạng yêu cầu, mệnh lệnh: Cả lớp giữ trật tự! Hãy im lặng! Cứ tự nhiên
đi, em!
“Những phát ngôn có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc với một chức năng là những phát
ngôn có hành động ngôn ngữ trực tiếp (direct speech act). Nói cách khác, hành động ngôn ngữ
trực tiếp là hành động ngôn ngữ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ trực tiếp giữa một
cấu trúc và một chức năng” [23, tr. 54].
1.1.2.3.

Hành động ở lời gián tiếp
Hành động ở lời gián tiếp là kiểu hành động ngôn ngữ được biểu hiện và cảm nhận một cách
gián tiếp qua một câu nói chứa những dấu hiệu ở lời vốn gắn với một kiểu hành động ngôn ngữ
khác. Chẳng hạn, một câu trần thuật không dùng để nhận đònh mà được dùng để cầu khiến:

Hôm nay trời đẹp. (Trong trường hợp, người phát ngôn dùng để đề nghò “Trời đẹp, chúng ta phải
nên đi cắm trại”.). Hay một câu hỏi được dùng để yêu cầu: Trò có bút đỏ không? (hàm ý đích
của lời nói: Bạn cho mình mượn cây bút đỏ.)… Những phát ngôn vừa dẫn đều thực hiện một hành
động ngôn ngữ gián tiếp.
Vậy thì làm thế nào mà một người nói, khi nói về cái điều gì đó, có thể ngụ ý cả một cái
điều khác nữa trong phát ngôn của mình, và người nghe phải làm sao mới có thể hiểu được hành
động ngôn từ gián tiếp. “Người ta giải thích rằng trong những trường hợp như vậy, cần phải
thông qua sự suy luận, dựa vào hoàn cảnh, ngữ cảnh, vào thông tin cơ bản đã có được, vào lẽ
thường và vào khả năng suy luận của người nghe”. [23, tr. 56]
1.1.3. Hành động hỏi
Trong các công trình nghiên cứu liên quan đến câu hỏi, vấn đề thường được các tác giả đặt
ra trong khuôn khổ nhằm xây dựng và hoàn thiện những khái niệm, những tư tưởng lý thuyết về
các hành động ngôn ngữ. Một số tác giả phê phán những ảnh hưởng nặng nề của logic hình thức
cổ điển trong việc nghiên cứu các câu hỏi. Trong luận án của mình, khi dựa vào ý kiến có tính
chất gợi ý của những nhà nghiên cứu thuộc Liên Xô cũ đã đăng trên tạp chí “Những vấn đề
ngôn ngữ học” năm 1955, Lê Đông đã viết: “Những đặc trưng bên ngoài của câu vốn được coi là
đặc trưng làm gốc trong miêu tả truyền thống hóa ra lại chưa đủ để xác đònh ý nghóa được truyền
đạt trong quá trình giao tiếp”,“Trong câu hỏi có thể đan bện vào nhau những tác phẩm ý nghóa
phong phú” [19]. Và do vậy, khi nghiên cứu câu hỏi, chúng ta cần phải chú ý đặt nó trong ngữ
cảnh, ngữ huống, chú ý tới cả những nhân tố như tư tưởng hay hệ thống tư tưởng được phát biểu
trong câu, trong hành động lời nói, tức là cái mà người nói thể hiện khi nói nghóa là các hành
động giao tiếp.
1.1.3.2
.Hành động hỏi trực tiếp
Hỏi là một hành động ngôn ngữ. Và để cho hành động hỏi được thực hiện một cách chân
thành và đạt hiệu quả thì theo Searle cần thỏa mãn một số điều kiện sau [3, tr. 117]:
-
Điều kiện nội dung mệnh đề: tất cả các mệnh đề hay hàm mệnh đề.
-
Điều kiện chuẩn bò :


Người nói không biết lời giải đáp điều mình hỏi.

Cả đối với người nói, người nghe (người đối thoại) không chắc rằng bất cứ lúc nào
người nghe cũng cung cấp thông tin ngay lúc trò chuyện nếu người nói không hỏi .
-
Điều kiện chân thành: người nói mong muốn có được thông tin đó.
-
Điều kiện căn bản: người nói nhằm cố gắng nhận được thông tin từ người đối thoại.
Đó là những điều kiện được xem như là quy tắc thực hiện hành động hỏi. Nếu người nói cố
tình vi phạm điều kiện trên khi nói câu nghi vấn thì tức là người nói đã lạm dụng hành động hỏi,
dùng chúng để thực hiện một cách gián tiếp hành động ở lời khác. Cụ thể người nói dùng câu
nghi vấn khi:
-
Đã biết lời giải đáp cho nội dung hỏi của câu.
-
Biết chắc rằng người đối thoại không thể giải đáp được nội dung trong câu.
-
Biết người đối thoại không thể giải đáp nội dung hỏi trong câu nhưng vẫn cố tình xúc
phạm người đối thoại bằng cách nói ra câu nghi vấn đó.
1.1.3.2
.Hành dộng hỏi gián tiếp
Trong tiếng Việt, phát ngôn hỏi không chỉ đi tìm lời giải đáp điều mình hỏi mà chúng còn
được sử dụng với chức năng gián tiếp. Cụ thể là [32]:
-
Chào khi gặp mặt
-
Yêu cầu
-
Bác bỏ

-
Phê phán, chê trách, mắng mỏ
-
Đe dọa, thách thức
-
Phản ánh sự ngạc nhiên, nghi ngờ
1.2.
SƠ LƯC VỀ LÝ THUYẾT LỊCH SỰ
Lòch sự là một nhân tố quan trọng trong giao tiếp xã hội. Nó có tác động chi phối không
những đối với quá trình giao tiếp nói chung, đối với ứng xử vai nói riêng, mà cả đối với hiệu
quả giao tiếp.
Các lý thuyết về lòch sự của R. Lakoff, N. G. Leech, P. Brown và S. Levinson đều thống nhất
ở quan điểm cho rằng “lòch sự là chiến lược, là phương tiện tránh đụng độ trong giao tiếp liên
nhân” [61]. Và do vậy, lý thuyết lòch sự được hiểu như là những lý thuyết về lòch sự chiến lược:
lòch sự chiến lược là sự ứng xử bằng ngôn ngữ một cách khéo léo của người nói nhằm tránh
hoặc giảm thiểu sự đụng độ và gia tăng sự vừa lòng từ phía người nghe để đạt hiệu quả giao
tiếp có thể.
Trong giao tiếp, lòch sự cũng là một trong những yếu tố có tính chất quyết đònh tới sự thành
công của cuộc hội thoại. Do đó, khi đối thoại, người tham gia cuộc thoại phải luôn ý thức về vấn
đề này và đặt nó lên một mức quan trọng nhất đònh để từ đó có những cách thức giao tiếp hợp
lý, có giải pháp hữu hiệu nhằm hướng đến tính “khả thi” của hành động ngôn ngữ, tạo ra hiệu
quả cao và đạt được mục đích giao tiếp mà mình đặt ra với cuộc giao tiếp.
Xét trong phạm vi giao tiếp, hiểu theo nghóa thông thường, lòch sự là một từ chỉ cách giao
tiếp, cách cư xử khiến cho người khác vui lòng. Tuy nhiên, trên cơ sở ngữ dụng học, theo C. K.
Orecchioni: “Khái niệm lòch sự bao trùm tất cả các phương diện của diễn ngôn bò chi phối bởi
các quy tắc có chức năng giữ gìn tính chất hài hòa của quan hệ liên cá nhân” [3, tr. 256]. Còn
theo George Yule, “Bên trong một cuộc tương tác, lòch sự được đònh nghóa như là phương diện
dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện của người khác” [24, tr. 119], trong ý nghóa đó thì
lòch sự có thể được thực hiện trong những tình huống có khoảng cách xã hội xa hay gần, khi ấy,
người nói phải có giải pháp sử dụng ngôn từ để bảo toàn được thể diện của người cùng tham gia

giao tiếp.
Tóm lại, lòch sự trong giao tiếp là vấn đề ứng xử giữa người nói và người nghe, theo đó mà
quan hệ liên nhân được hình thành trên cơ sở sử dụng ngôn ngữ có chiến lược nhằm bảo đảm
được tính văn hoá, tính bảo toàn thể diện của cả hai phía.
1.3.

SƠ LƯC VỀ LÝ THUYẾT LẬP LUẬN
Trong cuộc sống con người luôn cần đến lập luận. Người ta dùng lập luận để chứng minh
một điều gì đó hoặc để thanh minh, giải thích sự kiện nào đó nhằm thuyết phục người khác tin
vào một sự kiện và cũng có thể lập luận để phản bác, bác bỏ một ý kiến khác. Một thực tế
không thể phủ nhận rằng, trong rất nhiều ngành nghề, thành hay bại, thắng hay thua phần lớn là
nhờ những cách thiết lập lý lẽ, lập luận.
1.3.1. Đònh nghóa lập luận
Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói/ viết đưa ra những lý
lẽ nhằm dẫn dắt người nghe/ đọc đến một hệ thống xác tin nào đó: rút ra một/ một số kết luận
hay chấp nhận một/ hay một số kết luận nào đó.
Tác giả O. Ducrot đã cho rằng “lập luận là một hành động ở lời” [3, tr. 174]. Ông đã chứng
minh: hành vi lập luận cũng thay đổi tư cách pháp nhân của người lập luận và người tiếp nhận
lập luận. Ông cho rằng lập luận cũng có ý đònh, cũng là một hành vi qui ước và có những thể
chế như những hành vi ở lời khác. Trong giao tiếp thông thường, khi nói ra một phát ngôn, ít khi
ta chỉ dừng lại ở mức miêu tả để mà miêu tả thực tế, bao giờ cũng để đi tới một cái gì khác nữa,
để đi tới một kết luận. Và người nói, người tiếp nhận sẽ cảm thấy thỏa mãn chỉ khi nào lời nói
có kết luận, còn ngược lại, những phát ngôn không có kết luận khiến cho người tiếp nhận
thường cảm thấy “ấm ức” không thỏa mãn, có khi không nén được họ phải đặt ra câu hỏi. Việc
đặt ra câu hỏi như thế khiến cho người lập luận và người tiếp nhận lập luận có sự thay đổi tư
cách pháp nhân. Theo Nguyễn Đức Dân, sơ đồ lập luận được thể hiện bằng mô hình sau:


(tiền đề, sự kiện) (kết đề)


D

C
(Lý lẽ, luật suy diễn)

1.3.2.
Đặc tính của quan hệ lập luận
Luận cứ và kết luận là những thành phần trong lập luận. Có quan hệ lập luận giữa luận cứ
với luận cứ, và có quan hệ lập luận giữa luận cứ với kết luận. Trong quan hệ lập luận, lý lẽ
được gọi là luận cứ (argument). Do vậy, quan hệ lập luận là quan hệ giữa luận cứ (một hoặc một
số) với kết luận. Thêm vào đó, lại còn có quan hệ lập luận giữa hai hay nhiều lập luận với nhau
trong một phát ngôn, một diễn ngôn. Ví dụ:
(10) Cuộc thoại giữa hai em học sinh lớp 7
Thành
1
: – Ông biết làm câu 5 hôn?
Minh: – Tao biết làm câu c đó.
Thành
2
: – Trời ơi, (chết mẹ) rồi! Ở lại lớp rồi, ở lại lớp rồi.
Trên đây là lập luận trong một cuộc song thoại. Các phát ngôn (Thành
1
– Minh) là một cặp
trao – đáp. Trong đó Thành là người trao lời đưa ra câu hỏi: muốn biết Minh có làm được câu 5
không. Minh là người đáp lời tiếp nhận câu hỏi của Thành, rồi đưa ra câu đáp: Mình làm được
đến câu c của bài 5. Và câu đáp của Minh là luận cứ xác tin để từ đó đi đến kết luận ở lời than
của Thành
2
(Mình sẽ ở lại lớp vì không làm được hết bài).
Trong một cuộc thoại, các nhân vật hội thoại có thể đưa ra những lập luận dẫn đến kết luận

hoặc là đồng hướng hoặc là nghòch hướng với nhau. Quan hệ đồng hướng lập luận xảy ra khi các
luận cứ cùng dẫn đến một kết luận chung. Ngược lại, khi luận cứ này hướng tới kết luận này mà
luận cứ kia lại hướng tới phủ đònh kết luận trên thì chúng là quan hệ nghòch hướng lập luận.
1.4.

SƠ LƯC VỀ LÝ THUYẾT HỘI THOẠI
Hội thoại là một lónh vực mênh mông của ngôn ngữ học, bởi vì nó vừa là sản phẩm vừa là
hoạt động sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp trong đời sống cá nhân và xã hội. Các cuộc thoại, các
sản phẩm của hội thoại thì vô cùng, song, giữa chúng vẫn có những cái gì đó chung, chung cho
toàn nhân loại, cho một nền văn hóa, một cộng đồng ngôn ngữ.
Nghiên cứu hội thoại, người viết luận văn chỉ sơ lược đề cập tầm vó mô của hội thoại, bao
gồm: vận động hội thoại, cấu trúc hội thoại, quy tắc và nguyên tắc hội thoại. Do vậy, việc
nghiên cứu hoạt động giao tiếp của học sinh chính là việc nghiên cứu nó trong trạng thái động,
nghóa là, nghiên cứu sự diễn biến của cuộc hội thoại trong vận động thời gian của nó, nghiên
cứu từng bước đi của cuộc thoại cùng với các dấu hiệu đi kèm ngôn ngữ như những động tác vật
lý của nhân vật hội thoại đối với hoàn cảnh hẹp như: lật trang vở, giở quyển sách, kéo cái ghế….
Trong trường hợp, những cuộc hội thoại mà lượt lời của Sp
1
được phát ra nhưng không có lượt
lời đáp lại của Sp
2
thì cuộc hội thoại đó khó hình thành. Bởi lẽ, tất cả các hành động ngôn ngữ
đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có thể thực hiện bằng các yếu tố phi lời hoặc bằng lời. Sự
hồi đáp bằng các hành động ngôn ngữ tương thích với hành động dẫn nhập lập thành cặp như
hỏi/trả lời, cầu khiến/nhận lời hoặc từ chối… Mối quan hệ câu nghi vấn (hỏi) với câu hồi đáp
(trả lời) trong một cặp thoại, theo tác giả Lê Đông, đó là mối quan hệ thống nhất chặt chẽ. Từ
chỗ nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa hỏi/trả lời, tác giả cho rằng:
“Được trả lời là mục đích, là lý do của việc đặt câu hỏi, ngược lại không có câu hỏi thì
cũng không có câu trả lời. Câu trả lời chân chính là câu trả lời nhằm đúng điểm hỏi, phù hợp
với những cách trả lời mà câu hỏi đặt ra đã giả đònh, đáp ứng nhu cầu bổ sung thông tin

thiếu hụt của người hỏi và không đi chệch khỏi chương trình đối thoại, ứng với mỗi câu hỏi
đặt ra, có thể có rất nhiều cách trả lời cụ thể khác nhau. Song, nó đều thuộc một trong hai
phương thức cơ bản là hoặc trả lời bằng hình thức hiển ngôn, trực tiếp vào câu hỏi theo đúng
những cái khung trả lời mà câu hỏi đặt ra đã giả đònh trước không phải thông qua suy luận”
[19].
Ví dụ: (11) –“Câu 8 mày quýnh câu mấy? Tám mấy?”, _“8b”. Hoặc trả lời gián tiếp, bằng
lối nói có hàm ngôn, phải thông qua những phép suy luận nhất đònh để rút ra.
Ví dụ : (12)
Cô giáo: – Làm bài được hôn Thành?
Thành: – Sinh, hả cô? Sinh trên trung bình rồi cô. Khỏi lo. Sinh dễ.
Cũng theo Lê Đông [19], khác với trả lời, đáp chỉ là những phát ngôn được người nói phát ra
để phản ứng lại một phát ngôn, một kích thích đối thoại có trước. Nó không đáp ứng những
thông tin của câu hỏi mà hoàn toàn đi chệch khỏi điểm hỏi, chệch khỏi những khả năng trả lời
đã được câu hỏi đặt ra giả đònh trước, nó thường phá vỡ chương trình đối thoại. Có một số hình
thức đáp:
-
Từ chối trả lời hoặc nêu rõ lý do không trả lời.
-
Phản bác lại câu hỏi, nhằm vào chỗ vô lý của câu hỏi.
-
Đáp lại điều hàm ẩn hay dụng ý của câu hỏi trong trường hợp câu hỏi chứa hàm ẩn, dụng
ý nào đó.
1.4.1.
Ba cuộc vận động của hội thoại:
Trong bất kỳ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, trao đáp và tương tác
[3, tr. 205]. Trong đó, trao lời là vận động mà người nói/viết phát lượt lời của mình ra và hướng
lượt lời của mình về phía người nghe nhằm làm cho người nghe nhận biết được rằng lượt lời
được nói ra đó là dành cho người nghe là toàn thể.
Ví dụ: (13) Đoạn thoại sau diễn ra giữa giáo viên và các học sinh.
(…)

Gv: – Lớp trưởng đâu rồi?
Hs: – Lớp trưởng…!Lớp trưởng…!
Giáo viên thực hiện lượt lời trao lời hướng vào học sinh là một nhóm học sinh đang quây
quần quanh cô giáo. Có khi người nghe chỉ là một người cụ thể:
Ví dụ: (14)
(…) Trong giờ nghỉ giải lao chuẩn bò thi môn học kế tiếp, một em học sinh đi tới, hỏi:
Gv: – Cô… cô… câu 1 mấy vậy cô?
Hs: – Nghò luận.
Hội thoại là một hoạt động ngôn ngữ diễn ra trong mọi lónh vực hoạt động sống động của xã
hội với những dạng thức rất khác nhau, với số lượng nhân vật có từ hai cho đến hàng chục, hàng
trăm,… Có hai dạng hội thoại: hội thoại viết và hội thoại miệng. Luận văn chỉ sử dụng tư liệu ở
dạng hội thoại miệng (ghi lại các cuộc nói chuyện của học sinh, giờ dạy – học của thầy trò)
nghóa là các nhân vật giao tiếp cùng hiện diện ở một thời gian và một không gian hội thoại nhất
đònh.
Trong hội thoại, các nhân vật hội thoại có sự tương tác ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau
làm biến đổi lẫn nhau, nghóa là sẽ có sự giảm đi hoặc mở rộng những khác biệt, đối lập, thậm
chí trái ngược nhau về các mặt hiểu biết, tâm lý, tình cảm… giữa các nhân vật hội thoại. Nhân
vật hội thoại cũng là nhân vật liên tương tác (interactants), mà liên tương tác trong hội thoại
trước hết là liên tương tác giữa các lượt lời của các nhân vật tham gia hội thoại. Trong hội thoại,
một lần nói của mỗi người gọi là một lượt lời. Lượt lời hiểu một cách giản đơn là sự thay đổi
luân phiên lần nói giữa những người đối thoại với nhau. Một lượt lời là đơn vò cơ bản nhất của
hội thoại. Cấu tạo của một lượt nói có thể là từ, đoản ngữ, câu hoặc là cả đoạn.
Ví dụ: (16) Đoạn thoại sau đây diễn ra giữa cô giáo và một nhóm học sinh
Hs (nhóm): - Cô… cô… cô…
Gv: - Lớp trưởng đâu rồi?
Hs (nhóm): - Lớp trưởng… lớp trưởng…
Hs1 : - Cô… Cô đẹp ghê.
Gv : - Làm bài sao rồi?
Hs (một số) : - Dạ được cô.
Gv : - Coi đó. Vừa ăn vừa uống.

Hs (nhóm) : - (cười)
Gv: - Nay làm bài được hôn?
Hs2: - Được, cô. Lớp trưởng dạy đó.
Hs3: - Thôi, tao… chỉ chứ bộ.
Gv : - Thi có hai môn. Đúng hôn?
Hs (nhóm) : - Dạ.
Gv: - Đề văn cho gì vậy?
Hs1: - “Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Hs4: - Thưa cô, cô cho em 6 điểm.
Gv: - (Nhìn em học sinh, im lặng)
Hs (nhóm):- Ơ … ơ … (cười, em học sinh vừa nói)
Hs4: - Bữa làm trong tập nộp, cô cho 6 điểm chứ bộ.
Gv: - (Im lặng một lúc). Lát lớp trưởng xuống dưới gặp cô nha. Lấy mấy bài kiểm tra.
Hs

: - Ye … cô. Bài thi hả cô. Cô chấm bài dễ dễ chút nha cô. Đừng chấm ác quá. (cười).
(…)
Xét theo quan điểm nghiên cứu, khi nói đến lượt lời phải nhắc đến quyền được nói. Chỉ
những người tham gia đối thoại mới có quyền được nói và mới có lượt lời dành cho người đó.
Như trong đoạn thoại trên có những em học sinh có mặt trong cuộc thoại nhưng không có tư
cách người tham gia đối thoại. Tuy nhiên, điều quan trọng đối với lượt lời đó là nó phải được
dùng đúng lúc để bảo đảm cho cuộc hội thoại được diễn ra thông thuận và diễn ra trong không
khí lòch sự, qua đó mà hội thoại thành công, tránh xảy ra việc tranh lời, dẫn đến xung đột, ẩu đả.

1.4.2.
Cấu trúc hội thoại
Theo lý thuyết hội thoại Thụy Só – Pháp [3, tr. 311], hội thoại là một tổ chức tôn ti như tổ
chức một đơn vò cú pháp. Cấu trúc hội thoại bao gồm các đơn vò: cuộc thoại (conversation), đoạn
thoại (sequence) và cặp trao đáp (exchange). Cả ba đơn vò trên được hình thành từ vận động trao

đáp của các nhân vật hội thoại. Trong đó, về nguyên tắc, cặp trao đáp là đơn vò lưỡng thoại tối
thiểu, cơ sở của hội thoại. Nó được cấu tạo từ các tham thoại. Còn tham thoại là phần đóng góp
của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại nhất đònh [3, tr. 316].
Ví dụ: (16) Cặp thoại trò chuyện diễn ra giữa cô giáo và em học sinh.
(…)
(1)
Cô giáo: - Làm bài được hôn Thành?
(2)
Thành: - Sinh, hả cô? Sinh trên trung bình rồi cô. Khỏi lo. Sinh dễ.
(1) và (2) là một cặp thoại hỏi/đáp, trong đó (1) là một lượt lời gồm một tham thoại. (2) là
một lượt gồm 4 tham thoại, một tham thoại hỏi lại, và 3 tham thoại đáp xác minh cho việc làm
được bài Sinh của Thành.
Căn cứ vào số lượng các tham thoại thì cấu trúc nội tại của cặp thoại thường gặp:
-
Cặp thoại một tham thoại: tham thoại Sp1 không được Sp2 hưởng ứng hồi đáp bằng một
hành vi tương ứng.
Ví dụ: (17) Đàm thoại giữa giáo viên và một nhóm học sinh
(…)
(1)
Gv: – Rồi chừng nào mới thi môn Toán?
(2) Hs1: – Mai, cô, thứ năm cô.
(3) Hs2 : – Cô chấm nhẹ tay thôi, cô.
(4)
– …
Trong đoạn thoại trên, (3) và (4) là cặp thoại một tham thoại, còn gọi là cặp thoại hẫng.
-
Cặp thoại hai tham thoại (cặp thoại đôi): tham thoại thứ nhất là tham thoại dẫn nhập,
tham thoại thứ hai là tham thoại hồi đáp.
Ví dụ: (18) Cặp thoại
(…)

Gv: - Làm bài sao rồi?
Hs: - Dạ được, cô.
-
Cặp thoại ba tham thoại (cặp thoại ba): trong đó tham thoại thứ ba do Sp
1
phát ra có tính
chất “đóng lại” cặp thoại đang diễn ra để chuyển sang cặp thoại khác.
Ví dụ: (19)
(1)
Hs:_ Câu 1 mấy vậy cô?
(2)
Cô giáo: _ Nghò luận.
(3) Hs: _ Ye… Thằng Nhật xạo. Nó nói tự sự.
(1) là tham thoại hỏi, có chức năng dẫn nhập. (2) là tham thoại hồi đáp có chức năng trả lời
cho (1). (3) là tham thoại hồi đáp, kết thúc cặp thoại.
Các nhà theo Lý thuyết phân tích hội thoại Mó cho rằng: cặp kế cận là hai phát ngôn: (a) kế
cận nhau, (b) do hai người nói khác nhau nói ra, (c) được tổ chức thành bộ phận thứ nhất và bộ
phận thứ hai, (d) có tổ chức riêng sao cho bộ phận riêng thứ nhất đòi hỏi phải có bộ phận thứ
hai. Chẳng hạn: cặp chào/chào, hỏi/trả lời…
Ví dụ: (20) Đoạn thoại diễn ra giữa các học sinh với nhau
(…)
(1) Hs1: – Ủa mà điểm trong lớp ông sao, khá hôn? Khá phải hôn?
(2) Hs2: – …
(3) Hs1: – Ông, ông học có cái nào ít dưới trung bình hôn, kiểm tra Toán đó?
(4) Hs2: – Có cái năm điểm rưỡi đó con.
Cặp thoại (3) và (4) là cặp kế cận hỏi/trả lời.
Theo George Yule: “Cặp kế cận luôn gồm có phần thứ nhất (first) và phần thứ hai (second
part), tạo ra bởi những người nói khác nhau. Phát ngôn của phần thứ nhất ngay lập tức tạo ra
cảm giác chờ đợi phát ngôn của phần thứ hai trong cùng một cặp. Lờ đi không tạo ra phần thứ
hai để đáp lại sẽ được coi là sự vắng mặt có ý nghóa và do đó được xem là có mang nghóa” [24,

tr. 146]. Tuy nhiên, trong hội thoại, có trường hợp phần thứ nhất của phát ngôn không phải lập
tức nhận được phần thứ hai tương ứng.
Ví dụ: (21) Cặp hỏi đáp sau:
(1) Thầy : – Lớp nào về vậy?
(2) Hs (nhóm): – 7
4

(3) Hs1 : – Thầy ơi, sao? Còn A
1
thầy?
(4) Thầy: – Cái gì?
(5) Hs2 : – Hai tiết sau trống con về nha thầy? Con học Lý, Hoá. Đăng kí …
(6) Thầy: – Nhưng hai tiết sau học gì?
(7) Hs (nhóm): – Học Anh.
(8) Thầy: – Hông. Của lớp 9 nè! Anh vô đi. Học Lí, Hoá, có Lí, Hoá không hả? Phải hôn? Rồi
về đi.
Cặp thoại (5)và (8) là cặp kế cận hỏi/trả lời. Song, có cặp thoại (6)và (7) chêm xen nằm bên
trong một cặp (5)và (8).
1.4.3. Quy tắc và nguyên tắc hội thoại:
Trong giao tiếp có những quy đònh, tuy không được nói ra thành lời như những người tham
gia giao tiếp cần tuân thủ, nếu không giao tiếp cũng sẽ không thành công, khó đạt được hiệu
quả.
C. K. Orrechionio đã chia các quy tắc hội thoại thành ba nhóm: [3, tr. 225]
-
Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời.
-
Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại.
-
Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại
Lượt lời hiểu một cách giản đơn là sự thay đổi luân phiên lần nói giữa những người đối thoại

với nhau. Luân phiên lượt lời là một nguyên tắc hội thoại. Nguyên tắc này chỉ rõ rằng, trong
tiến trình hội thoại, các nhân vật tham gia hội thoại phải luân phiên lượt lời nhau để nói và
nghe. Đó là một yêu cầu để hội thoại đạt được hiệu quả cao.
Tuy nhiên, tùy vào tính chất cuộc thoại mà những biểu hiện của nguyên tắc trên cũng rất
khác nhau. Chẳng hạn, những cuộc thoại như là hội nghò, họp hành… yêu cầu rất nghiêm
khắc về sự luân phiên lượt lời, còn những cuộc thoại như là cuộc trò chuyện, tán gẫu giữa
những bạn bè với nhau thì lại không đặt ra yêu cầu khắc khe lắm về sự luân phiên lượt lời. “
Những cuộc thoại mà người nói có tinh thần hợp tác thì họ cùng chia sẻ quyền nói. Sự chuyển
lời nhòp nhàng từ người này sang người khác dường như được tôn trọng. Nhưng cũng có những
cuộc thoại người ta tranh nhau nói, ngăn trở quyền nói của người khác” [23, tr. 66].
Nói chung, khi giao tiếp hội thoại cần tránh nói tranh lượt lời của người khác (cướp lời) để
giữ lòch sự, hoặc, khi đến lượt lời của mình mà im lặng thì cũng là hình thức biểu lộ thái độ nhất
đònh.
Bên cạnh quy tắc luân phiên lượt lời, một cuộc thoại còn cần đến những quy tắc điều hành
nội dung của nó, đúng hơn là điều hành quan hệ giữa nội dung các lượt lời tạo nên một cuộc hội
thoại đó. Quy tắc ấy bao gồm: nguyên tắc cộng tác hội thoại và nguyên tắc quan yếu.
Hội thoại miệng (mặt đối mặt), trong đó, nguyên tắc cộng tác sẽ là một sợi dây ràng buộc
các nhân vật hội thoại với nhau. Một cuộc hội thoại không sớm thì muộn cũng phải kết thúc nếu
như một phía nào đó trong các nhân vật hội thoại tỏ ra không muốn cộng tác nữa “Ngay cả
những trường hợp mà cuộc hội thoại là cuộc cãi lộn, gây sự, chửi bới nhau thì tác động của
nguyên tắc cộng tác vẫn lộ khá rõ, (…) Nói một cách khác, một cuộc thoại bất kỳ cũng đòi hỏi
phải có sự “cộng tác” trong xung đột [66]. Tinh thần hợp tác trong hội thoại được thể hiện trong
việc tuân thủ bốn quy tắc hội thoại [28, tr. 509].
1.
Lượng:
a)
Hãy nói sao cho có nội dung đáng nói.
b)
Đừng nên nói nhiều hơn cái nội dung đáng nói.
2.

Chất:
c) Hãy nói đúng sự thật.
d) Đừng nói điều gì mình biết là không đúng.
3.
Quan hệ
e)
Hãy hói vào đề.
4.
Cách thức:
f) Hãy nói cho rõ, tránh cách nói rối rắm hay mơ hồ.
Cần nói thêm, các nguyên tắc hội thoại có hiệu quả chỉ khi người nói sử dụng nắm chắc
được tình huống giao tiếp (nói với ai, khi nào, ở đâu). Cũng cần hiểu rằng, nó chỉ là yêu cầu
chung trong giao tiếp chứ không phải là quy đònh bắt buộc. Người ta có thể không tuân thủ quy
tắc hội thoại do thiếu văn hóa giao tiếp; nhưng cũng có thể do ưu tiên một/những quy tắc hội
thoại hoặc một yêu cầu khác quan trọng hơn, hoặc cố gây chú ý để người nghe hiểu theo hàm ý
nào đó.
Trong hội thoại ngoài quan hệ trao đổi thông tin còn có quan hệ liên cá nhân. Các nhân vật hội
thoại phải liên hòa phối để cho các quy tắc luân phiên lượt lời vận hành được tốt, mà các quy tắc
luân phiên lượt lời có vận hành tốt thì cuộc hội thoại mới có kết quả [3, tr. 228]. Quan hệ liên cá
nhân chòu sự chi phối của quy tắc lòch sự. R. Lakoff và G. N. Leech cho rằng “lòch sự là những quy
tắc đối với quan hệ liên cá nhân”. [3, tr. 257]. Và R. Lakoff nêu lên ba loại quy tắc lòch sự:
_ Thứ nhất là quy tắc lòch sự quy thức (formal politeness rule). Đó là quy tắc: Không
được áp đặt.
-
Thứ hai là quy tắc: dành cho người đối thoại sự lựa chọn.
-
Quy tắc thứ ba là quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè.
Do yêu cầu của đề tài luận văn, chúng tôi trình bày kó hơn về quy tắc thứ ba. Quy tắc này
thích hợp với những bạn bè gần gũi hoặc thật sự thân mật với nhau. “(…) Trong phép lòch sự thân
tình, hầu như tất cả đề tài đều có thể được đem ra trò chuyện. Theo quy tắc này thì: “Đã là bạn

bè với nhau thì không có gì cần phải giấu giếm nhau nữa cả”,… không phải “uốn lưỡi”. (…),
nguyên tắc chi phối ở đây không phải là chỉ dừng ở chỗ tỏ ra quan tâm thực sự đến nhau mà còn
phải tỏ ra săn sóc nhau, tin cậy nhau…” [3, tr. 260]. Hãy nghe đoạn thoại sau: (22)
Thầy Dũng: - Em này. Giữ dùm cho tui, chút nữa là… hết giờ chơi trả lại cho tui. Nghe chưa?
Hs1: - (em học sinh cầm lấy… )
Hs1: - Gì vậy? (cười) khi không đưa cho tao hà. Tao mắc cười quá.
Hs2: - Gì vậy?
Hs1: - Ai biết.
Hs2: - Máy thu âm.
Hs3: - Máy thu âm đó con.
Hs1: - Ê, qua bên kia ngồi mày.
Hs1: - Đ.m tao hết hồn. Tao tưởng (cười) ổng đưa gì chứ. Tự nhiên đưa cho tao hà.
Hs2: - Cái gì vậy ?
Hs1: - (Đ…) biết.
Hs2: - Lấy máy ra coi coi
Hs3: - Cái gì vậy? Máy MP3 phải không?
Hs1: - Đ.m cái này mắc lắm đó. Triệu mấy đó con. Cái này triệu mấy đó.
Hs3: - Anh tao có một cái.
Hs1: - Cái gì?
Hs2: - Ổng quýnh bầm dập mày bây giờ. Chớ ở đó?
Hs1: - Đ.m (cười). Mày dám hôn? Bầm dập luôn đó. Chỉ giữ dùm thôi hà.
Đoạn thoại diễn ra chủ yếu là cuộc trò chuyện giữa các em học sinh với nhau về việc thầy
đưa cái máy MP
3
. Cuộc thoại diễn ra trong ngữ cảnh những bạn bè chung lớp, gần gũi. Do vậy,
ngôn ngữ mà các em xưng hô, sử dụng không thuộc quy tắc quy thức, đó là: những tiếng chửi
thề (đ.m, đéo), các từ xưng hô thân thuộc (tao, mày, ổng, con)…
1.5. SƠ LƯC VỀ Ý NGHĨA TƯỜNG MINH VÀ HÀM ẨN
Mỗi phát ngôn của người nói đều có mục đích truyền đạt đến người nghe một nội dung thông
báo nhất đònh. Thông báo này thường gồm hai phần: phần nội dung thứ nhất là ý nghóa trực tiếp

nhận ra nhờ nghóa nguyên văn của từng từ ngữ có mặt trong câu và nhờ những mối quan hệ cú
pháp giữa các từ ngữ ấy; đó là nghóa tường minh (còn gọi là nghóa hiển ngôn). Phần thứ hai là ý
nghóa gián tiếp, bởi vì chúng không nằm trực tiếp trên câu chữ, nghóa là nó không có sẵn trong
nghóa nguyên văn mà người nghe nắm bắt được qua một sự suy diễn; đó là nghóa hàm ẩn.
P. Grice [3, tr. 360] nghiên cứu các ý nghóa hàm ẩn nào mà người nói có ý đònh thông
báo cho người đối thoại biết, mặc dầu vì những lý do nào đấy không nói nó ra một cách
tường minh. Theo đó, Grice đã phân biệt hai loại ý nghóa: ý nghóa hàm ẩn tự nhiên và ý
nghóa hàm ẩn không tự nhiên. Người ta đã đưa vào hai tiêu chí sau để phân loại ý nghóa
hàm ẩn (không tự nhiên):
(1)
– Bản chất của chúng (ngữ nghóa và ngữ dụng)
(2)
– Chức năng của chúng trong diễn ngôn (là đối tượng hay không là đối tượng của diễn
ngôn).
Dựa vào bản chất ngữ nghóa, ngữ dụng, ý nghóa hàm ẩn bao gồm: tiền giả đònh và hàm ngôn.
Tiền giả đònh là những căn cứ hiểu biết cần thiết đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên
thừa nhận, dựa vào đó mà người nói tạo ra ý nghóa tường minh. Tiền giả đònh ít lệ thuộc vào ngữ
cảnh giao tiếp.
Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ ý nghóa tường minh và tiền giả đònh của
ý nghóa tường minh. Hàm ngôn nằm trong phát ngôn, lệ thuộc sâu sắc vào ngữ cảnh giao tiếp,
thói quen, phong cách, màu sắc, phạm vi sử dụng riêng biệt của từng dân tộc.
Để phân loại các ý nghóa tiền giả đònh và hàm ngôn, người ta dựa vào hai tiêu chí sau đây:
(1) - Dựa vào tiêu chí “cái được biểu hiện”, ý nghóa biểu niệm theo chiều nghóa học, ta có: tiền
giả đònh nghóa học và hàm ngôn nghóa học.
(2)
- Dựa vào tiêu chí “cái lí giải”, ý nghóa biểu thái và ý nghóa sử dụng theo chiều dụng học, ta
có: tiền giả đònh dụng học và hàm ngôn dụng học.
Tiền giả đònh nghóa học là tiền giả đònh có quan hệ với tổ chức hình thức ngôn ngữ diễn đạt
nội dung miêu tả tường minh của phát ngôn [3, tr-400].
Tiền giả đònh ngữ dụng là những nhân tố quy tắc dụng học làm tiền đề cho một phát ngôn cụ

thể nào đó. [3, tr. 398].
Hàm ngôn ngữ nghóa là hàm ngôn được suy ra từ nội dung ngữ nghóa tường minh của phát
ngôn, nghóa là, từ các luận cứ hoặc kết luận không được nói ra một cách tường minh, để cho
người nghe dựa vào quan hệ lập luận mà rút ra. [3, tr. 393].
Hàm ngôn ngữ dụng là những hàm ngôn do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng mà có [3, tr.
395].
Ví dụ: (23) Cặp thoại diễn ra giữa một phụ huynh và thầy giáo.
Phụ huynh: – Lớp 9 bao nhiêu tiền?
Thầy giáo: – Cô coi bảng thông báo.
-
Tiền giả đònh nghóa học: có một cuộc thoại hỏi/đáp về tiền học phí diễn ra; người hỏi
chưa biết phải đóng học phí bao nhiêu, phụ huynh này có con học lớp 9, tiền học phí đã được ghi
rõ trên bảng thông báo.
-
Tiền giả đònh dụng học: phụ huynh xem bảng thông báo để biết giá tiền rồi hãy đóng học
phí.
-
Hàm ngôn nghóa học: thầy giáo đề nghò phụ huynh xem chi tiết các khoản tiền học phí
phải đóng được dán ở bảng thông báo.
-
Hàm ngôn dụng học: Phụ huynh đến đóng tiền không phải chỉ có một mà hiện tại có
nhiều phụ huynh đang chờ đến lượt mình; để tránh sự chờ đợi của phụ huynh và công việc ghi
biên lai của thầy giáo không bò gián đoạn; phụ huynh cần nắm rõ các khoản phải đóng mà
không phải thắc mắc nhiều về sau này…
Nói chung, nghóa hàm ẩn có một vò trí hết sức quan trọng trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ.
“Không hiểu nghóa của một câu nói là chưa thật sự hiểu câu nói đó, và đó là một điều gây trở
ngại rất lớn trong giao tiếp ngôn ngữ” [28, tr-469]. Do đó, khi xét nghóa hàm ẩn, chúng ta phải
đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng đối lập và thống nhất giữa nghóa hiển ngôn và nghóa
hàm ẩn; giữa nghóa tiền giả đònh và nghóa hàm ngôn. Có thế, các nghóa hàm ẩn mới có thể
không bò bó hẹp trong nghóa nguyên văn.


 Sơ kết:
1.
Với sự ra đời của “Lý thuyết hành động ngôn ngữ”, các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu
ý nghóa của câu gắn liền với các hành động ngôn ngữ, gắn với những nhân tố của hoàn cảnh,
ngữ cảnh, những điều kiện sử dụng hiện thực các hành động ngôn ngữ. So với các kiểu hành
động khác, hành động hỏi được người ta sử dụng phổ biến trong giao tiếp. Nó cùng với hành
động hồi đáp cấu thành cặp thoại vận động trong thể thống nhất biện chứng của hai mặt đối
lập. Sự thống nhất ấy chòu sự chi phối của quy luật ngôn ngữ, của quan hệ lập luận, bởi tính
lòch sự và quy tắc, nguyên tắc trong hội thoại…
2.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn, không phải là bản thân các khái niệm, các quy tắc,
nguyên tắc được nêu trên, song, những điều đã được trình bày cũng cho phép người viết đi đến
việc vận dụng nó trong phân tích các cuộc thoại giữa học sinh với nhau, nhằm bước đầu có thể
đề xuất một số đặc điểm lượt lời hồi đáp cho hành động hỏi trực tiếp, góp phần vào việc nghiên
cứu hội thoại và văn hóa giao tiếp trong hội thoại của người Việt.

×