Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

đặc điểm truyện ngắn tạ duy anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.13 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH



Trần Văn Viễn



ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN
TẠ DUY ANH



Chun ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒNG THỊ VĂN






Thành phố Hồ Chí Minh – 2009


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành nhất của mình, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Hoàng
Thò Văn
, người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu, thực
hiện và hồn thành bản luận văn này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cơ giáo trong tổ Văn học Việt Nam,
ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học – trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi học tập và nghiên cứu.
Đồng thời, tơi cũng xin được gửi lời cám ơn
từ đáy lòng tới Ban giám hiệu, tổ Văn, các
đồng nghiệp trường Trung học phổ thơng Dân lập Hồng Đức thành phố Hồ Chí Minh đã quan
tâm, động viên và tạo điều tốt nhất cho tơi trong thời gian vừa qua.
Sau cùng tơi xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tận tình để tơi hồn thành luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2009
Trần Văn Viễn


MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Từ khi ra đời cho đến nay, truyện ngắn đã có những bước phát triển đáng kể, gặt hái
được nhiều thành tựu quan trọng và tạo dựng được một vò trí vững chắc bên cạnh các thể
loại văn học khác. Gọn, cơ động, dễ dàng công bố trên báo chí; khởi đi từ một tình huống,
một khoảnh khắc mà có thể hé lộ cả một số phận, một tính cách của con người cùng một

trạng thái nhân sinh. Truyện ngắn quả thật là một món ăn tinh thần hấp dẫn và có tầm phổ
biến rộng rãi.
Nói đến truyện ngắn Việt Nam đương đại, không thể không nhắc đến T
ạ Duy Anh -
người đã góp phần làm cho đời sống văn học thời kì đổi mới sôi nổi và khởi sắc. Tràn đầy
tinh thần cách tân, T
ạ Duy Anh đã sử dụng một cách tối đa khả năng của ngôn ngữ và của
thể loại để biểu đạt một cách cao nhất ý tưởng, tình cảm của mình. Tạ Duy Anh là tác giả
của những tác phẩm ln làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã
hội hiện đại. Ơng cũng là tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ rơi
vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện
thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng đầy thương xót con người.
Để đạt được thành cơng trên con đường văn chương hơm nay, Tạ Duy Anh đã vượt lên
số phận, vượt qua bệnh tật, những đau đớn thể xác và chinh phục được những kiến thức cần
thiết cho nghề nghiệp của mình. Thành quả đó có được là do sự nỗ lực khơng mệt mỏi của ơng.
Cho đến hơm nay Tạ Duy Anh đã trở thành một nhà văn có tên tuổi trên văn đàn Văn học Việt
Nam, đã nhận được nhiều giải thưởng quan trọng: Giải thưởng truyện ngắn viết về đề tài nơng
thơn (do báo Văn nghệ, Nơng nghiệp và Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức năm 1989).
Chính vì sự mới mẻ ấy mà từ khi xuất hiện đến nay, Tạ Duy Anh đã tạo nên dư luận.
Các ý kiến về truyện ngắn của ông, khen hay chê, tất thảy đều mạnh mẽ quyết liệt và thậm
chí trái ngược nhau.
Tên tuổi của Tạ Duy Anh càng được nhiều người biết đến khi Giáo sư
Hồng Ngọc Hiến mượn tên truyện của ơng để khái qt “Có một dòng văn học bước qua lời
nguyền”. Từ thực tế trên Tạ Duy Anh đã trở thành nhà văn được nhiều người u mến. Ơng có
tác phẩm “Bức tranh của em gái tơi” là truyện ngắn đoạt giải nhì trong cuộc thi viết “Tương
lai vẫy gọi” của báo Thiếu niên Tiền Phong, in trong tập “Con dế ma” – Nhà xuất bản Kim
Đồng, Hà Nội, năm 1999, được đưa vào chương trình (Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6, tập 2, tr
30). Ngồi ra, ơng còn có đoạn trích “Cánh diều tuổi thơ” trong sách giáo khoa (Tiếng Việt 4,
tập 1, tr 146).
Thời gian trơi qua, những cảm xúc nóng bỏng về những gì ơng viết ở người đọc chuyển

dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Nhiều người bắt đầu đi sâu vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá
tài năng văn chương của ơng một cách khách quan hơn qua những trang viết thận trọng. Như
vậy, khi lựa chọn đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh” chúng tơi đã tiếp cận với một số
bài viết về truyện ngắn của ơng, trong đó ý kiến của giới nghiên cứu – phê bình văn học nói
chung đã thống nhất. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu truyện ngắn Tạ Duy Anh giúp chúng tơi có
thêm cái nhìn tổng thể, và có ý nghĩa thiết thực về mặt nghiệp vụ, trong lĩnh vực nghiên cứu,
giảng dạy trong nhà trường tốt hơn. Một điều càng thú vị hơn nữa càng tiếp xúc với tác phẩm
của Tạ Duy Anh càng phát hiện ra những điều mới mẻ, lơi cuốn người đọc. Ở đây, người viết
muốn nhờ vào q trình tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện cơng trình nhỏ bé này mà học hỏi thêm
đơi điều về truyện ngắn Tạ Duy Anh. Đó là những lí do thơi thúc chúng tơi chọn truyện ngắn
Tạ Duy Anh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.

2. Lòch sử vấn đề
Xuất hiện vào những năm đầu của cơng cuộc đổi mới đất nước. Tạ Duy Anh đã khuấy
động cả một bầu khơng khí sinh hoạt văn hố, văn nghệ nước nhà. Tác phẩm của ơng, với
những hiệu ứng mà nó gây nên, đã góp phần phá vỡ bình ổn của văn học dân tộc trong suốt hai
cuộc kháng chiến, đồng thời tạo nên sự chuyển nhịp, tăng tốc cho những bước đi vốn bình
thường, chậm rãi của lí luận và phê bình văn học đương đại Việt Nam. Trong những năm gần
đây, đời sống văn học nước ta rộ lên sự xuất hiện của hàng loạt cây bút trẻ như Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hồi, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư…
Trong những tên tuổi đó, Tạ Duy Anh hiện đang được xem là một hiện tượng nổi bật, một cây
bút sung sức với nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo.

“Là tác giả của những tác phẩm ln làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm” Tạ Duy Anh
là nhà văn trẻ được dư luận quan tâm. Tác phẩm của nhà văn họ Tạ này ẩn chứa những giá trị
nghệ thuật nào mà gây xơn xao dư luận, tạo ra nhiều tranh cãi, khen – chê? Thực chất Tạ Duy
Anh là ai? Những bàn luận về Tạ Duy Anh và sáng tác của ơng đúng sai ra sao? Quả là, Tạ Duy
Anh đã tạo ra một “từ trường” riêng hấp dẫn và lơi cuốn độc giả.
Các ý kiến xung quanh về tác
phẩm của Tạ Duy Anh

trong vòng gần 20 năm qua đã có không dưới 100 bài.
Đến với văn Tạ Duy Anh, bạn đọc cũng sẽ bắt gặp ít nhiều sự ảnh hưởng của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo. Nói về điểm này Tạ Duy Anh từng tâm sự: “Tơi rất mê “Trăm năm cơ
đơn” của Marquez, nhưng cái tên chủ nghĩa hiện thực huyền ảo có lẽ q mới mẻ với thế hệ
những người cầm bút như tơi. Chuyện học tập hay ảnh hưởng nó, tơi khơng hề nghĩ tới. Căn cốt
của tơi vẫn bị ảnh hưởng của hiện thực nhưng tơi muốn đấy nó ở mức sâu hơn, đa diện đa
chiều hơn. Nhiều người thắc mắc về việc tơi khai thác đời sống hiện thực phi lý, nhưng một
bằng chứng cho thấy trong cuộc sống, khi có q nhiều cái dị thường và người ta đương nhiên
phải chấp nhận nó”, “khi viết, tơi ln tâm niệm mình đang tạo ra một tác phẩm thật sâu sắc,
mọi cái phi lý cuối cùng chỉ để phản ánh hiện thực hữu ý mà thơi”.
Hòa vào guồng máy của lao
động nghệ thuật, Tạ Duy Anh ln tìm tòi cách viết mới nhưng bản thân vẫn chưa “Bước qua
lời nguyền” của chính mình. Truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” của Tạ Duy Anh đã từng
làm “cháy” báo Văn Nghệ trên tất cả các sạp báo cả nước. Vẫn là motip Romeo & Juliet với
mối thù của hai dòng họ trên vai và tình u trong tim, nhưng truyện của Tạ Duy Anh là sự tái
hiện bức tranh tồn cảnh nơng thơn Việt Nam những năm 1950 – 1970 đầy máu và nước mắt,
nhưng càng hấp dẫn và thuyết phục bạn đọc hơn bởi bóng dáng chuyện đời tác giả thấp thống
đằng sau những trang chuyện tình thật say đắm và bay bổng mà truyệt Việt Nam ít khi đạt đến.

Bên cạnh đó các ý kiến về Tạ Duy Anh đa số đều có những lập luận xác đáng dựa trên
cơ sở phân tích thấu đáo những đóng góp của nhà văn trên cả hai phương diện tư tưởng và
nghệ thuật. Đặc biệt, nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra được trong những sáng tác của T
ạ Duy
Anh những cách tân nghệ thuật rất cần thiết cho một khuynh hướng văn học mới. Trong bản
tổng kết “cuộc thi truyện ngắn đề tài nơng thơn” đăng trên báo Văn nghệ số 4 – 5 năm 1990 có
đoạn viết: “Truyện ngắn Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh báo hiệu một tấm lòng lớn, một
tầm nhìn xa và một tài năng trẻ viết về số phận con người…”. Và trên báo Văn Nghệ số 50
(12/1989), Giáo sư Hồng Ngọc Hiến nhận định: “… đọc truyện ngắn của Tạ Duy Anh, một
câu hỏi đặt ra; Giã từ thế kỷ XX bão táp và máu lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI “lý
trí và nhân bản” những lời nguyền nào là đáng nguyền rủa, những lời nguyền nào nhân loại

trước sau cũng phải bước qua? Phải đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia? Phải chăng truyện
của Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học bước qua lời nguyền”…
Trên Tạp chí văn học số 4/1995, Giáo sư Hồng Ngọc Hiến còn cho rằng: “Nhiều truyện trong
tập truyện Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh mang cảm hứng trút bỏ những thành kiến
nặng nề của q khứ, xóa bỏ những nếp sống gắn liền với bạo lực, sự cùng khốn và tối tăm…
Những định kiến hận thù có thể trở thành lời nguyền – có khi ngồi ý muốn của con người, con
người yêu thương bị trói bởi những lời nguyền của chính mình, để thực hiện và thỏa mãn khát
vọng yêu thương – nhu cầu nhân tính cao nhất của con người – chẳng có con đường nào khác
là “Bước qua lời nguyền” – đó là chủ đề tư tưởng của truyện ngắn mà nhan đề được sử dụng
để gọi tên cả tập truyện. Trong hiện tại chủ đề này được cảm nhận với nhiều sự mắc mớ nhưng
nó có tương lai, nó là chủ đề tư tưởng của tương lai”.

T
ạ Duy Anh là một cây bút viết truyện ngắn nhưng sau thành công đầu tiên và sau tiểu
thuyết Khúc dạo đầu không gây được tiếng vang, nhà văn lại nổi lên với bộ ba tiểu thuyết: Lão
khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối và mới gần đây là tiểu thuyết Giã biệt bóng tối Giáo
sư Hoàng Ngọc Hiến tiếp tục khẳng định: “Tạ Duy Anh Bước qua lời nguyền để đi đến Lão
khổ. Thêm một giả thiết văn học về bản chất và thân phận người nông dân Việt Nam. Đây là
một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng” [5, tr 140].

Báo Thể thao văn hoá số 47 năm 2004 đã đưa ra nhận định: “Có thể coi ông là nhà văn
đạo đức, văn chương của ông có lúc hiện lên bằng một gương mặt thế sự, đớn đau, riết róng
chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương nhưng không phải như những khái niệm truyền
bản chết khô, mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận”… “mối quan tâm lớn nhất của
Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người dưới sự giằng giật xiêu dạt của lịch
sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt thực của quá khứ, con
người vấp phải và bị phong toả bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dụng, tàn ác, kể cả trong mỗi cá
nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sáng bản thể của hiện tại và cái nhìn trung
thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ” [22].
Báo Pháp

luật số 140 năm 2004 đưa ra nhận định “hầu hết những tác phẩm của ông (trừ
truyện viết cho thiết nhi và tản văn) đều rất gai về nội dung thể hiện [21] dưới cái nhìn hiện
thực ở góc khuất”. Đi tìm nhân vật là “Bức tranh hiện thực ngọt ngào của quyền lực, cái chết,
sự đồi bại… còn Thiên thần sám hối là một cuốn tiểu thuyết rất hay gần đây viết về nỗi đau
làm người và chưa được làm người qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm
người hay không” [5, tr 405]. Nhà văn đã cho bạn đọc cái nhìn thẳng vào sự thật chát chúa
“ông là một tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ bị rơi vào tình
trạng khủng hoảng nhân cách. Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng
cũng đầy thương xót con người”.

Báo Giáo dục và thời đại số 80 năm 2004 cũng đặt câu hỏi: “Số phận con người phải
chăng luôn là sự trăn trở, dằn vặt trong ông?” và tác giả bài báo cũng đưa ra câu trả lời: “Nhân
vật nào của ông cũng thấp thoáng bóng dáng của một người sinh ngày 9 tháng 9 tại làng Đồng.
Các truyện Đêm hóa thạch, Nửa đêm về sáng, Phía sau chân trời và cả một số sáng tác sau
này đều có một mơtíp nhang nhác giống nhau” [8, tr 175 – 176].
Bài Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác [38] gọi tác giả là “là nhà văn của thời điểm” đã
đưa ra một số cái nhìn cơ bản về quan niệm của tác giả và con người: “Nhân vật của Tạ Duy
Anh khơng có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Người xấu thì cựu xấu như lão
Phụng… người đẹp thì như hoa như ngọc như Qúy Anh, chị Túc, bà Ba, như sản phụ chờ sinh.
Nhưng bản chất con người thì ln ở ranh giới thiện – ác. Nhân vật nào cũng ln ln bị đặt
trong trạng thái đấu tranh với xã hội với mơi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản
thân mình. Đã thế nhà văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều hình dung từ và động từ mạnh,
chõi nhau…” nhà văn lắm lúc quằn quại rên rỉ vì khơng ngăn nổi một hành động ác, cũng có
khi “lạnh lùng cố ý trước sự trả thù” [47].

Nói về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh, nhà văn Ngun Ngọc trong bài viết
Văn xi Việt Nam hiện nay, lơgíc quanh co của các thể loại, những vấn đề đặt ra và triển
vọng đã nêu nhận định: “Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh gói gọn trong nửa trang cả
một cuộc đời, một kiếp sống, mấy kiếp người vừa là tác giả vừa là nạn nhân của những bi kịch
đằng đẵng một thời” (evan.com.vn) Tạ Duy Anh ln theo đuổi nhân vật “vừa là tác giả, vừa

là nạn nhân của những bi kịch xã hội” là một trong những chiều hướng tư tưởng mà Tạ Duy
Anh theo đuổi. Điều này thể hiện rõ ở tiểu thuyết Lão Khổ khi “nhân vật lão Khổ trở đi trở lại
trong tác phẩm, một người nơng dân chất phát, vơ tội, yếu đuối, bị ám ảnh bởi lời nguyền thâm
thù hồn tồn riêng tư giữa hai dòng họ, đã tự biến mình và đồng loại thành vừa là thủ phạm
vừa là nạn nhân của cuộc giết chóc tàn phá trả thù” [8, tr 180 – 181].

Trong bài viết Tạ Duy Anh - người đi tìm nhân vật tác giả Thụy Kh đã nhận thức về
nhân vật Tạ Duy Anh với cái nhìn lịch sử: “Những nhân vật của Tạ Duy Anh qua bao tác phẩm
từ hơn muời năm nay vẫn gắn bó mật thiết với nhau trong một tương quan chặt chẽ, họ hàng,
làng nước. Họ xuất thân cùng ở làng Đồng, họ cùng tiềm ẩn thù hận dòng họ, hận thù giai
cấp…” [29].

Trên đây, chúng tôi đã điểm qua một số ý kiến có thể được coi là khá tiêu biểu về
v
ăn chương Tạ Duy Anh. Mặc dù mỗi bài có những phát hiện và cách lí giải riêng nhưng tựu
trung lại, đa số các ý kiến đó đều gặp nhau ở chỗ thừa nhận: Tạ Duy Anh là một tài năng
văn chương lớn, đáng để chúng ta quan tâm. Tuy chưa phải là những công trình nghiên cứu
toàn diện về T
ạ Duy Anh nhưng những ý kiến trên có tính chất đònh hướng, gợi mở, giúp
cho chúng tôi có điều kiện để hiểu hơn về văn chương cũng như con người T
ạ Duy Anh.
Trong phạm vi nghiên cứu nhà trường, tác phẩm Tạ Duy Anh đã được tìm hiểu trong một
số luận văn thạc sĩ sau:
+ Nơng thơn trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Mai Loan)
+ Cảm thức về cái Phi Lý trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Cao Tố Un)
+ Nghệ thuật kết cấu trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh (Bùi Thanh Tùng)
+ Tạ Duy Anh - từ quan niệm Nghệ thuật đến những đổi mới trong sáng tác truyện ngắn
(Phạm Thị Hương)
+ Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Ninh)
+ Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Phạm Quỳnh Dương)

+ Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ Duy Anh, Châu
Diên, Hồ Anh Thái (Nguyễn Thị Kim Lan)
+ Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Lê Vũ Lan Hương)
+ Tạ Duy Anh và việc làm mới nghệ thuật (Nguyễn Thị Hồng Giang)
Với góc độ khám phá riêng biệt, luận văn này muốn tổng hợp từ những nhận định trên để
có cái nhìn tồn diện, sâu sắc về Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh đồng thời muốn ghi nhận
đóng góp của nhà văn đối với văn xi thời kì đổi mới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tạ Duy Anh sáng tác nhiều thể loại: Truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, tiểu thuyết,
t
ản văn, kịch, tiểu luận phê bình Thể loại làm nên tên tuổi của Tạ Duy Anh là truyện
ngắn. Ở thể loại này ông có tất cả hơn 50 truyện. Trong đó, có nhiều tập truyện: “Bước qua
lời nguyền” (1989), “Quả trứng vàng” (1989), “Hiệp sĩ áo cỏ” (1993),“Ln hồi” (1994),
“Con dế ma” (1999), “Ánh sáng nàng” (2000), “Vó ngựa trở về” (2000), “Ngày hội cuối
cùng” (2000), “Những truyện khơng phải trong mơ” (2003), “Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy
Anh” (2003), “Ba đào ký” (2004), “Bố cục hồn hảo” (2004)… Với khuôn khổ đề tài này,
chúng tôi tiến hành khảo sát tồn bộ truyện ngắn Tạ Duy Anh, trong tương quan so sánh với
truyện ngắn của một số nhà văn khác, để rút ra đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Tạ Duy
Anh.
Đây là sáng tác được coi là thành công trong văn nghiệp Tạ Duy Anh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh” chúng tôi đã vận dụng những
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận và khảo
sát trực tiếp văn bản. Trên cơ sở tổng hợp lại những gì đã tiếp cận và khảo sát ấy phục vụ
một cách hiệu quả nhất cho luận điểm chính của luận văn.
Phương pháp so sánh – đối chiếu: Nhằm làm nổi bật sự khác biệt của truyện ngắn T

Duy Anh
với các nhà văn khác ở nhiều phương diện: phương pháp sáng tác, nghệ thuật biểu

hiện…
Phương pháp hệ thống: Đề tài được đặt trong hệ thống tác phẩm của Tạ Duy Anh để xem
xét, đánh giá và phát hiện cách nhìn nhận, thể hiện con người trong q trình sáng tác của nhà
văn.
Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá
trình nghiên cứu.
5. Ý nghóa khoa học và thực tiễn
-
Với đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ tiếp cận được những khía cạnh cơ bản nhất
đã làm nên đặc trưng phong cách nghệ thuật Tạ Duy Anh ở thể loại truyện ngắn. Để từ đó
có thể xác đònh những đóng góp của nhà văn trong lòch sử truyện ngắn nói riêng, trong đời
sống văn học Vi
ệt Nam nói chung cũng như chỉ ra được sự thống nhất trong quan điểm nghệ
thuật và thực tiễn sáng tác của ông. Giúp hiểu rõ hơn về Tạ Duy Anh để giảng dạy tốt hơn
những tác phẩm đang được đưa vào chương trình phổ thơng.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có 148 trang, ngồi phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu
tham khảo (10 trang) –
Phần nội dung chính của luận văn (gồm có 125 trang), chia làm 3
chương:
- Chương 1: Truyện ngắn và khái quát về truyện ngắn Tạ Duy Anh
- Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh
- Chương 3: Thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh

Chương 1
TRUYỆN NGẮN VÀ KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN
TẠ DUY ANH
1.1. Truyện ngắn
1.1.1.
Khái niệm truyện ngắn

Bước vào những thập niên đầu của thế kỉ XX, cùng với tiểu thuyết và thơ ca, truyện ngắn
cũng nhanh chóng tiếp nhận được những ưu thế mới của thời đại, cũng như chịu sự chi phối của
quy luật phát triển chung của một nền văn hố, văn nghệ đang khơng ngừng đổi mới. Mặc dù
thuật ngữ “truyện ngắn” xuất hiện chính thức vào khoảng cuối thế kỉ XIX cùng với báo chí,
bản thân nó cũng đã từng có một lịch sử phát triển riêng, nhưng cho đến nay trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, người ta vẫn chưa xây dựng được một hệ thống lí luận hồn chỉnh về truyện
ngắn. Được quan niệm là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng) hay là “một dạng
tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn), truyện ngắn đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Với kinh nghiệm từ nhiều năm cầm bút, Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết
ngắn gọn, trong đó cái khơng bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình
thường hiện ra như một cái khơng bình thường” [44, tr 105]. Từ những trải nghiệm trong thực
tế sáng tác của mình, Aimatơp lại nói: “Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao
động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cơ đúc, các phương tiện phải được tính tốn một cách
kinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vơ cùng tinh tế. Xoay xoả trên một mảnh đất
chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác”. [44, tr 146]. Từng
trăn trở rất nhiều trong mỗi trang viết, nhà văn Nguyễn Cơng Hoan lại cho rằng “Truyện ngắn
khơng phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”. [71, tr 186].
Một trong những xác đònh súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là đònh nghóa của Lại
Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các
phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng,
tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền mạch không
nghỉ”. [53, tr 1846 – 1847].
Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn đã cung cấp cho
chúng ta những nền tảng cơ bản để hiểu rõ hơn về khái niệm và có thể nêu ra một số đặc điểm
cơ bản của thể loại này.

1.1.2. Đặc điểm truyện ngắn
1.1.2.1. Đặc ñieåm đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là
nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50
trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng

bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những
cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu
thuyết (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ
đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất nhỏ của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung
lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do tính chất ngắn
gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt.
Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào
mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và
hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép” hoặc
“nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế,
thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống chỉ còn
vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành một
truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt chẽ. Sekhov,
một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó
tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện
ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không
ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. [64]
Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn
“phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của
thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [2, tr 42]. Các tác giả
truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một
trong những cách thức chiếm lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn.
Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công
phá cao. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ
của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi,
suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [8]. Đỗ Chu cũng có cùng ý kiến như vậy, ông
cho rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì
“sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Lỗ Tấn thì lại cho rằng: truyện ngắn
có thể và cần phải trở thành “tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của thời đại nhờ phương

thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh thần con người vốn có của nó. Bằng
sự trải nghiệm trong cuộc đời cầm bút của mình, Thomas Mann khẳng định: Truyện ngắn tuy
bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể bao quát
được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng nghệ thuật
chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác” [59].
Về tính chất thưởng thức, truyện ngắn khác tiểu thuyết ở chỗ, độc giả có thể đọc nó trong
một hơi không nghỉ: “Truyện ngắn là một tác phẩm tuỳ dài tuỳ ngắn, người ta có thể đọc trong
mười phút hoặc một giờ”. [44]
Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc điểm của truyện ngắn. Là một thể loại dân
chủ, truyện ngắn gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện
ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Ở
truyện ngắn, người viết không được dông dài, độ căng của tác phẩm phải “như mũi tên mà dây
cung đã bật, phải bay vụt về tới đích không thể có một phần nghìn dây trù trừ” [71, tr 162]. Để
đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy bén trước những đổi thay của
cuộc sống” [44], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại. Truyện ngắn là
thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề mới đang được đặt ra trong cuộc
sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát một giai đoạn đã qua, nhưng truyện
ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang suy
nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều xưa
cũ.
1.1.2.2. Truyện ngắn là thể loại văn xuôi tự sự. Trên phương diện này, truyện ngắn gần
với tiểu thuyết và các thể loại truyện kể dân gian như: truyện cổ tích, thần thoại, truyện cười…
và khác với tùy bút, thơ ca. Từ đặc trưng lớn có tính bao trùm này, có thể rút ra những nét riêng
của truyện ngắn như sau:
Cốt truyện là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng.
Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian, không
gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân vật, và tái hiện
một bức tranh xã hội rộng lớn rậm rạp với những mâu thuẫn, xung đột và diễn biến thì truyện
ngắn, tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện. Trong
những bài giảng của mình về Mỹ học Hégel nói: “Tình huống là một trạng thái có tính chất

riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu
lộ nội dung, là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự hiểu biết nghệ thuật…” [71,
tr 202]. Liên hệ với truyện ngắn, chúng ta thấy tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu tố
cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi mở.
Các nhà văn, nhà nghiên cứu ở Việt Nam đôi khi đồng nhất khái niệm tình huống với tình thế.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm
viết… đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một
nửa… tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cớ hết
sức chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa vào
nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho cây
bí leo lên mà ra hoa trái…” [8].
Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt
của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện
ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm
trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một
điểm”[71].
Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát
cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu” [69].
Ý kiến trên được triển khai kỹ và sinh động hơn: “Tiểu thuyết thường vươn tới cái toàn
thể, truyện ngắn lại hay hướng về cái đơn nhất. Nếu ví tiểu thuyết như một căn phòng ấm áp thì
truyện ngắn có lẽ chỉ nên là một ngọn lửa nhiệt lượng tập trung thật mạnh ở nhiệt độ cao. Nếu
tiểu thuyết là một con người với đầy đủ phục sức, đường nét… thì truyện ngắn chỉ nên là một
đôi mắt nhưng đây là cửa sổ tâm hồn - hoặc thậm chí là một cái ngước mắt, một ánh mắt vừa
có sức cuốn hút mà độ sâu thẳm lại không thể lường được” [71, tr 378].
Nhiều nhà văn đã ra sức tìm một khoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn của mình. Nó
có giá trị như một một điểm xoáy, một phút giao cắt, trong đó nhân vật có thể phơi mở, bộc lộ
trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan
Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp là những truyện ngắn có chứa đựng những
khoảnh khắc như vậy.
Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét, rất li

kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam là một nhà văn có nhiều tác
phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế.
Vậy có yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt
truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết.
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không
khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà
văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay
cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện
ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [49, tr 33].
Cũng nhấn mạnh chi tiết, nhà văn Vũ Thị Thường cho rằng: “viết truyện dài như làm một
căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm
tranh khắc gỗ” [44, tr 128].
Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy,
nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [71, tr
84]. Văn học của chúng ta, có nhiều tác giả, nhiều tác phẩm đã lựa chọn được những chi tiết
như thế: chi tiết Hoàng và vợ đọc Tam Quốc vào mỗi đêm trước khi ngủ, trang trọng như một
thứ lễ nghi, chi tiết Hoàng vỗ đùi khen Tào Tháo “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên
sư anh Tào Tháo…” trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Chi tiết kết thúc truyện ngắn
Oẳn tà roằn của Nguyễn Công Hoan cũng thật độc đáo, ấn tượng: “Bắc nhìn kĩ cái tóc cái mặt,
cái mũi con… Rồi giở bọc ra ngắm thằng bé… Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui
ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như cái
cột nhà cháy. Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó giống Oẳn tà roằn, không biết chống
gậy”…
Bên cạnh việc sử dụng các chi tiết đắt giá, cách kết thúc tác phẩm cũng có một vai trò
rất lớn trong việc tạo nên sự hấp dẫn của cốt truyện. Nhà văn Nga, D. Phuốcmanôp đã nói: “sức
mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn cuối”. Và như vậy, ta có thể hiểu rằng: với
truyện ngắn, tư tưởng tác phẩm thường thể hiện đột ngột và có thể chỉ thể hiện trong mấy dòng
cuối cùng của văn bản. O Henri là một nhà văn được nhiều độc giả trên thế giới yêu thích một
phần cũng là vì nghệ thuật kết thúc tác phẩm của ông rất độc đáo, ấn tượng.
Theo dòng lịch sử, đã có sự thay đổi đáng kể trong cách kết thúc tác phẩm của truyện

ngắn Việt Nam, từ kết thúc đóng, chuyển sang kết thúc mở. Hơn thế nữa, để nới rộng biên độ
cho độ mở của đoạn kết và kéo người đọc vào quá trình đồng sáng tạo, một số cây viết truyện
ngắn hiện đại lão luyện còn tạo ra một khoảng trống tự do ở cuối truyện. Lối kết thúc mở có giá
trị tạo nên dư ba, tạo nên sức ám ảnh cho người đọc, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức
sống lâu bền với thời gian.
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét
đặc thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện
ngắn là cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết
một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật
tinh xảo – kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén
tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [8, tr 251]. Nhiệm vụ của kết cấu là
phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ
các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.
Gọn, cơ động, kết cấu trong truyện ngắn thường đa dạng: kết cấu theo trình tự thời gian,
kết cấu bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm lí…
Nam Cao là một trong số các nhà văn hiện đại tìm ra được những cách kết cấu tác phẩm rất đặc
trưng, ấn tượng: kết cấu tâm lí. Hiện nay, trong thực tế sáng tác truyện ngắn, nhiều nhà văn tự
tìm ra cho mình những kiểu kết cấu phá cách độc đáo, không trùng lặp và cũng rất khó gọi tên
như Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái,
Taï Duy Anh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp…
Nhân vật là một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc,
bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình: AQ (AQ chính truyện – Lỗ
Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), tướng Thuấn (Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp),
Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu…). Nếu tiểu thuyết theo
dõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào
một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy nhân
vật” [44, tr 125], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ lướt đậm nhạt
mà diện xuất hiện chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [44, tr
26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước
ngoặt, một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [71, tr 73]. Bởi “phân tích một nỗi lòng, một

cảnh ngộ, một sự việc, phân tích một hiện tượng, một lời nói, một bức ảnh thì rất có thể viết từ
đầu đến cuối bằng một thái độ, bằng tâm tình của mình và viết ngắn được. Và cũng chỉ có thể
viết ngắn thôi. Điểm này cũng là điểm mà truyện ngắn khác với truyện dài. Khi viết truyện dài
tác giả chỉ có thể gửi tâm tình của mình vào từng nhân vật, trong từng sự kiện” [44, tr 121].
Nếu tiểu thuyết ngày càng có xu hướng là đa thanh, mỗi nhân vật được nhà văn phú cho
một giọng tương ứng, thì với truyện ngắn, tính chất này không phải là một yêu cầu tiên quyết.
Tuy vậy, vẫn có những truyện ngắn dung nạp nhiều giọng điệu. Lúc bấy giờ, người ta nói nhà
văn ấy viết truyện ngắn bằng tư duy tiểu thuyết, hay nói khác đi, đó là hiện tượng giao thoa về
thể loại, rất dễ thấy trong kỷ ngun hiện đại và hậu hiện đại.
1.2. Khái quát về truyện ngắn Tạ Duy Anh
1.2.1. Vài nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Tạ Duy Anh
Vài nét về tác giả: Nhà văn Tạ Duy Anh với các bút danh khác Lão Tạ, Chu Q, Bình
Tâm Tên khai sinh Tạ Viết Dũng, sinh 9 tháng 9 năm 1959, q ở thơn Cổ Hiền, xã Hồng
Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Cử nhân Văn học, Tạ Duy Anh nhập ngũ ngày 7 tháng 2
năm 1985, cấp bậc Trung sĩ nhân viên qn lực của tiểu đồn. Tháng 10 năm 1987, Tạ Duy
Anh xuất ngũ về làm việc tại cơng ty thủy điện Sơng Đà. Tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn
Du khóa IV, từng cơng tác ở trường. Trở thành
thành viên Hội nhà văn Việt Nam (1993). Hiện
là biên tập viên Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Rất nhiều lần trong tác phẩm, trong các bài phỏng vấn, Tạ Duy Anh đều nêu câu hỏi:
Tôi là ai? Và ông luôn tìm cách trả lời câu hỏi đó từ góc độ khác nhau, khi là những lời tự
bạch, khi là lời nhân vật mà ông muốn gửi gắm suy tư của mình: “Tôi sinh ra vào những cơn
mưa. Vào một đêm sâu thẳm nào đó, trong nỗi cô đơn khủng khiếp, cha tôi lang thang đi
tìm Miền khô ráo. Ông đã nằm mơ thấy trước tất cả những gì sẽ diễn ra. Trong cơn vùi dập
của trời đất, ông thấy tôi mang hình quả cầu lửa. Mẹ tôi khi ấy giống nhưng cọng cỏ úa
vàng vì ẩm ướt đã giơ tay cầu nguyện. Chiếc giường tre nấc lên bởi cuộc báo thù số phận,
bởi nỗi đau đớn triền miên không thể giải thoát. Bà tiên cảm tới một cuộc sinh nở sẽ rất
quằn quại và điều đó bắt đầu làm nên số phận tôi” [10, tr 193].
Như lời tự bạch: “Tôi sinh ra ở vùng q hẻo lánh, thấm đẫm khơng khí thù hận, cơ thể
còi cọc mặt mũi đen đủi, xấu xí, sống với một người cha rắn như thép” [9, tr 171]. “Tôi biến

thân xác của tôi thành cái vỏ ốc để bao bọc tòa lâu đài mà tôi xây bằng trí tưởng tượng. Và chỉ
khi lọt thỏm trong thế giới của tôi, tôi mới không cảm thấy sợ đủ thứ, không bò ai chòng
ghẹo, nh
ạo báng những mơ mộng, vô hiệu hoá mọi ngăn cấm của cha tôi. Tôi hoàn toàn tự
do trong vương quốc do tôi tạo ra” [9, tr 3].
“Bi kòch lớn nhất của đời tôi là sự chối bỏ, từ trong ý thức sâu thẳm vùng đất
mình
sinh ra và lớn lên. Tôi chạy trốn nó như chạy trốn cái chết, thường khiến tôi cô đơn ngay từ
buổi chưa đi học, khi buổi chiều ảm đạm nào đó, một ai đó được cả làng đưa ra đồng, vùi
xuống ba thước đất và thế là dường như họ chưa hề có mặt trên cõi đời này”.
“Tôi không
được chuẩn bò mảy may để trở thành nhà văn. Trừ cụ nội bốn đời của tôi ít chữ nghóa nhưng
lánh tục, còn lại tôi không thừa hưởng truyền thống văn chương như mọi người thường hỏi
tôi về điều đó. Thậm chí, tôi thừa hưởng cái không ai muốn: ấy là sự thất học”
[9, tr 171].
“… Trước đó cả làng tôi người ta không tin vào bất cứ ai ở làng có thể làm nên trò
trống gì bằng học hành. Chúng tôi lớn lên với nỗi ám ảnh về một lời nguyền theo đó “Khi
nào đá có thể nổi trên mặt nước” thì làng mới có người đỗ đạt. Tôi chẳng hiểu sao số phận
lại chọn tôi, một kẻ còi cọc, nhút nhát, đầy bệnh tật từ khi ra đời để đương đầu với lời
nguyền khủng khiếp và vô lí đó” [9, tr 159].
Bức chân dung tự hoạ, những trang tự thuật trên đã cho thấy nhiều khía cạnh trong
con người Tạ Duy Anh mà nét nổi bật là một “cái tôi” cô đơn, cô độc. “Cái tôi” ấy thường
xuyên đối thoại với chính mình và đối đầu với cảm giác bất ổn của thực tại. Con người
“chạy trốn” trong Tạ Duy Anh là biểu hiện của nỗi bất an, cô đơn trước thực tại. Tưởng
tượng ra một thế giới khác để được bình yên ở đó, viết văn bằng những trải nghiệm của
mình, Tạ Duy Anh đến với văn chương nghệ thuật một cách tự nhiên. Ông viết: “Nhà văn
nào cũng tận dụng triệt để tiểu sử của mình khi sáng tác những cuốn sách máu thòt. Thậm
chí tôi còn tin rằng mỗi nhà văn thực ra chỉ viết cuốn sách về chính anh ta” [9, tr 182]. Phải
chăng mỗi tác phẩm tâm huyết của Tạ Duy Anh không chỉ là sự thăng hoa của mặc cảm,
những chấn thương từ tâm hồn yếu đuối, bệnh tật mà còn là khúc xạ trạng thái hoài nghi và

lo âu về thân phận và trạng thái tha hoá của con người hiện đại?
Hồn cảnh ra đời của truyện ngắn Tạ Duy Anh: Tạ Duy Anh có năng khiếu văn chương
rất sớm. Ngay từ khi học lớp 8 ông đã viết truyện ngắn đầu tay của mình với đề tập làm văn
cô giáo cho: “Em hãy kể lại một kỉ niệm đáng nhớ”. Bài văn đạt điểm cao và con đường
đến với văn chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh được manh nha từ bòa truyện đầu tiên ấy.
Ông tâm sự, với bài văn ấy, “tôi cảm thấy mình bòa được truyện”.
Là cậu tú tài của làng Đồng, Tạ Duy Anh lên Sông Đà học lớp chuyên nghiệp giám
sát bê tông. Thời gian này ông có viết nhưng như người làm vườn mới tập gieo hạt, đến
mùa thu hoạch ông chẳng gặt hái được gì. Cho đến năm 1980, khi đi thực tập, trong căn lều
heo hút ngọn đèn dầu, một đêm ông thấy trong mình “cứ cựa quậy một cái gì đó”, ngày
càng mãnh liệt, càng rõ nét thôi thúc ông phải cầm bút. Và truyện ngắn Để hiểu một con
người ra đời. Cái tên Tạ Duy Anh chợt nảy ra, rồi được đề ngay dưới truyện ngắn. Truyện
được đăng ở báo Lao động – một tờ báo danh giá của thời bấy giờ. Tạ Duy Anh trở thành
bút danh, thành tên gọi quen thuộc đối với công chúng văn học.
Hai năm 1982, 1983 ông viết một loạt truyện ngắn về công trường thủy điện Sông Đà
nhưng chính người sáng tác lại không muốn ai tìm đọc vì cảm thấy không tự tin. Bài học
sáng tác đầu tiên mà ông cảm nhận được là không thể viết những điều không phải là máu
thòt của mình.
Năm năm sau (1988), trở về làng Đồng sau ngày ra quân, trong buổi chiều âm u, cái
cảm xúc của tám năm về trước lại rạo rực trong tâm trí nhà văn. Như người đang khao khát
kiếm tìm bỗng được gia ân, Tạ Duy Anh cảm thấy có một vốn sống, vốn kí ức vô cùng
phong phú, q báu về làng quê mà xưa nay mình không nhận ra, cứ lang thang đi tìm những
đâu. Ông viết Lũ vòt trời (mới đầu đặt tên là Mưa đá), viết liên tiếp, liền một mạch vào
những vỏ bao thuốc lá, chữ bé li ti, dày ri rít. Hành trình đến với văn chương nghệ thuật của
Tạ Duy Anh tuy được manh nha từ sớm nhưng chỉ đến khi viết Lũ vòt trời, ông mới có cảm
giác mình hoàn toàn tự tin. Ông bắt đầu nghó nghiêm túc về quê hương mình, hoá ra toàn bộ
thế giới này có hết dưới dạng thu nhỏ ở làng mình. Quá trình “bừng ngộ” đó giúp ông viết
Bước qua lời nguyền (1989) mê mải sáng tác đến tối, mười bảy trang bản thảo chữ nhỏ li ti.
Viết xong, như con tằm nhả tơ, tác giả “cảm thấy không còn gì để sống nữa, một cảm giác
rỗng hết ở trong con người”.

Năm 1989, sự xuất hiện truyện ngắn Bước qua lời nguyền đánh dấu bước ngoặt thực
sự trên hành trình sáng tạo của Tạ Duy Anh. Ở một loạt truyện tiếp theo được tập hợp trong
các tập truyện Luân hồi (1994), Truyện ngắn Tạ Duy Anh (2003), Bố cục hoàn hảo
(2004)…, nhà văn tiếp tục dòng mạch cảm hứng mà Bước qua lời nguyền đã khơi mở. Chính
truyện ngắn này đã mang lại vinh quang rực rỡ cho Tạ Duy Anh. Tác phẩm của ông trở
thành “hiện tượng”, “sự kiện văn học” ở mảng truyện ngắn. Nhà thơ Hoàng Minh Châu coi
Bước qua lời nguyền là một truyện ngắn đã “báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa và
một tài năng trẻ viết về số phận con người”. Còn Hoàng Ngọc Hiến dành hẳn một bài viết
về tác phẩm này trên báo Văn nghệ số 50, tháng 12 – 1989. Nhà phê bình khẳng đònh: “Đọc
truyện của Tạ Duy Anh, một câu hỏi đặt ra: Giã từ thế kỉ XX bão táp và máu lửa này và
chuẩn bò bước vào thế kỉ XXI “lí trí nhân bản”, những lời nguyền nào đáng nguyền rủa,
những lời nguyền nào nhân loại trước sau phải bước qua? Phải chăng câu hỏi bức thiết này
cũng được đạt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia? Phong cách truyện ngắn Tạ Duy Anh là tín
hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học Bước qua lời nguyền”.
Như vậy, có thể thấy Bước qua lời nguyền không chỉ có giá trò nhân văn mà còn là
một tư tưởng có tầm thời đại: nhu cầu tự vấn để phát triển của mỗi con người, của mỗi dân
tộc. Tác phẩm không chỉ là khởi đầu tốt đẹp đối với cá nhân nhà văn mà còn đóng góp to
lớn vào công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Với khát vọng Bước qua lời nguyền,
truyện ngắn của Tạ Duy Anh tiêu biểu cho tinh thần dân chủ của thời đại của văn học. Bước
qua lời nguyền là lời tuyên chiến với những đònh kiến chật hẹp trói buộc con người, là lời
kêu gọi tự do sáng tạo đối với văn nghệ só. Song văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới đã có
bước chuyển mình so với văn học giai đoạn trước đó, đã góp phần vào đời sống văn học
một luồng sinh khí mới, có thể kể đến Nguyễn Mạnh Tuấn với Đứng trước biển, Cù lao
Tràm, Lê Lựu với Thời xa vắng, Dương Thu Hương với Bên kia bờ ảo vọng, Ma Văn Kháng
với
Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Khải
với Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu Sự xuất
hiện của các tác giả và các tác phẩm trên đã ghi dấu những chuyển biến hết sức tích cực
trong đời sống văn học nước nhà. Qua các tác phẩm, ta thấy cái nhìn của nhà văn về thế
giới và con người trở nên phong phú đa dạng phức tạp hơn rất nhiều.

Đồng thời, các nhà văn
đã bước đầu có ý thức tìm tòi thể nghiệm những cách nhìn mới, cách đánh giá mới, những đổi
mới trong thủ pháp nghệ thuật.
Xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đúng vào lúc Đảng và nhà nước chủ trương “Cởi trói
cho văn học nghệ thuật”, Tạ Duy Anh có điều kiện để thể nghiệm một lối đi riêng cùng với
những cách tân hiện đại trong mỗi trang viết của mình. Những tác phẩm của ơng đã lập tức gây
được tiếng vang lớn và ơng nhanh chóng trở thành một hiện tượng độc đáo trong đời sống văn
học đang từng bước khởi sắc của nước nhà. Người ta chờ đón tác phẩm của ơng trong sự háo
hức, và ơng từng bước khẳng định tài năng cũng như phong cách văn xi đặc biệt của mình
trong sự tiếp nhận đa dạng: khen, chê, khẳng định, phủ định. Tác phẩm của ơng đem đến cho
độc giả những cách lí giải mới về cuộc sống, khiến họ có thể chạm sâu vào đời sống thực tế,
hiểu hơn về bản chất của nó cũng như những trạng thái nhân sinh trong buổi đầu của thời kì đổi
mới. Với
các tác phẩm đã công bố: Bước qua lời nguyền (tập truyện), Luân hồi (tập truyện),
Gã và nàng (tập truyện), Bố cục hoàn hảo (tập truyện), Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh
(t
ập truyện), Những truyện khơng phải trong mơ (tập truyện), Ba đào ký, Ngẫu hứng sáng
trưa chiều tối (tập tản văn), Lão Khổ, Nhân vật đi tìm, Thiên thần sám hối, Sinh ra để chết,
Giã biệt bóng tối (tiểu thuyết)… cùng gần 10 tập sách (gồm truyện ngắn, truyện vừa, tản văn)
dành cho thiếu nhi…
Tạ Duy Anh quả đã đóng góp nhiều cho văn học Việt Nam. Song, thể loại
làm nên tên tuổi và mang lại cho ơng một phong cách nghệ thuật độc đáo chính là truyện ngắn.
1.2.2. Quan niệm văn chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh
Trong các bài phê bình đã được cơng bố hoặc trong các bài phỏng vấn, Tạ Duy Anh có
nhiều dịp bày tỏ những quan niệm của mình về văn chương.
Xuất hiện khi những đột phá về
nhận thức xã hội, quan niệm văn chương, sự đổi mới lối viết, cách thể nghiệm hình thức
trần thuật không còn quá lạ lẫm sau một loạt những tiếng vang của thế hệ “làn sóng
thứ
nhất” Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Phạm

Thò Hoài… dường như là một điều thuận lợi nhưng đồng thời cũng là một sự thử thách lớn,
nó đòi hỏi Tạ Duy Anh phải có những bước đi mới, không lặp lại những người đi trước và
không lặp lại chính mình. Tạ Duy Anh đã làm được điều đó bằng việc liên tiếp cho ra đời
những tác phẩm gây chấn động dư luận kể từ khi xuất hiện cho tới những năm gần đây. Và
thực sự khi nói đến văn chương sau đổi mới, người ta không thể không nhắc đến Tạ Duy
Anh như là một hiện tượng văn học trẻ nhưng đã có những thể nghiệm tìm tòi đảo lộn các
kinh nghiệm cũ, thay đổi lối nhìn đơn giản, xuôi chiều quen thuộc, làm thức d
ậy nhu cầu
nhận thức và tự nhận thức những vấn đề của hiện tại và quá khứ.
Tạ Duy Anh là nhà văn có một thái độ nghiêm túc và đam mê với con đường chông
gai nhiều rủi ro và thất bại đã chọn. Trực tiếp trong các bài phỏng vấn hoặc gián tiếp trong
tác phẩm, ông đã bày tỏ quan niệm về nghệ thuật và lao động của nhà văn. Điều đó thấy
một thái độ thực sự nghiêm túc, cầu thò và một khát vọng cách tân mãnh liệt đối với văn
chương. Theo Lão Tạ, nhà văn cứ nên học cách im lặng. Nghệ thuật không phải một cuộc
diễu hành. Vì văn chương không phải đi trên đường lớn, nói như Nguyễn Hưng Quốc “Xa lộ
là tử lộ. Đức tính lớn nhất đối với một người cầm bút, chính là sự táo bạo. Không có sự táo
bạo nào là không cần thiết. Không táo bạo, không thể sáng tạo. Trong lónh vực văn học,
người dám xông thẳng vào bụi rậm và gai góc để lần mò một lối đi riêng bao giờ cũng có
triển vọng đi xa hơn những kẻ khôn ngoan phóng mình theo lối
mòn có sẵn. Ở đây người ta
chỉ ghi nhận thành tích của những người trèo lên những đỉnh núi cao, dẫu trèo một cách
chậm chạp, ì ạch, khổ sở, thậm chí, có khi thất bại” [64].
Chính vì tâm niệm: nhà văn chỉ nên một mình, anh chỉ có giá trò khi anh đi, anh tạo ra
con đường của riêng anh, tất cả cùng đi trên một con đường thì vô nghóa, nên hành trình
sáng tạo của Tạ Duy Anh là hành trình luôn nỗ lực làm mới, để khẳng đònh “độc bản”.
Đối với nhà văn mỗi ngày sống chính là một ngày đi th
ực tế, và trải cuộc đời mình ra
để chiêm nghiệm. Viết đối với ông là quá trình khai thác những vỉa quặng cuộc sống đã kết
tinh trong bản
thân người cầm bút, tức khai thác cái “lượng” sống phong phú đã chuyển hoá,

đã cô đặc thành “chất” sống, là sự rút ruột, nhả tơ cho tâm hồn. Lao động nhà văn, theo ông
là một công việc đòi hỏi sự nghiêm túc, nơi không bao giờ có chỗ cho sự cẩu thả. Bất cứ sự
buông thả nào đều phải trả giá ngay. Tạ Duy Anh viết “như đã lónh một sứ mệnh từ trên trời,
từ khi mới sinh ra”, đứng trước trang giấy như một thứ pháp trường trắng nghiệt ngã, mỗi
trang đầy ắp suy nghó và bản lónh nghề nghiệp. Viết là cách mà Tạ Duy Anh chống lại nỗi
đau tinh thần xuất phát từ hiện thực không ngừng vò xé. Viết là cách tốt nhất để đối mặt và
giải phẫu cuộc đời. Ông viết về nhiều thực trạng đen tối của cuộc sống, cũng có khi cách
viết lạnh lùng cố ý trước một sự trả thù của ông lại bò chê là quá tàn nhẫn, mở đường cho
cái ác văn chương vì miêu tả quá chi tiết và khách quan. Thế nhưng Tạ Duy Anh không
phải là một nhà “hoài nghi chủ nghóa”. Trái lại ông luôn đặt niềm tin vào cuộc sống, tin vào
điều kì diệu mà văn chương mang lại cho cuộc đời này, dẫu có lúc “mỏi m
ệt đến tuyệt vọng
vì xem tivi thấy người ta giết một lúc hàng ngàn người, thấy bất lực đến chảy nước mắt vì chỉ
một thằng quan tham làm nhân dân mất đứt
hàng tỉ tiền đóng thuế, thấy những gì mình viết
ra vô nghóa đến thảm hại, nhưng rồi vẫn lại cầm bút và viết thôi, và vẫn phải tin là vì những
đóng góp nhỏ hơn cả hạt bụi của mình mà ngày mai sẽ sáng hơn hôm nay một chút” [83].
Là người luôn có ý thức nhận thức lại, nghi ngờ tất cả những gì đã được xác tín để
xây d
ựng những cách nhìn mới, giá trò mới, quan niệm về lòch sử của Tạ Duy Anh rất gần
gũi với Kundera khi ông cho rằng nhà văn không phải thằng hầu của lòch sử. Đối với Tạ
Duy Anh, “bản
thân lòch sử là vô ý, vô cảm và chẳng có giá trò gì với chính nó. Nó chỉ có
giá trò với tương lai ở khía cạnh kinh nghiệm và những bài học. Những bài học lòch sử, đặc
biệt là những bài học rút ra từ những thảm họa, cần phải được nhắc đi nhắc lại. Mọi sự bóp
méo, che giấu hoặc thổi phồng các sự kiện lòch sử đều là tội ác” [83]. Bảng lảng trong tác
phẩm của ông tinh thần hoài nghi về lòch sử, bởi lẽ một xã hội nhân văn, biết đề cao phẩm
giá luôn phải tạo điều kiện để các công dân tiếp cận với mọi sự th
ật lòch sử, thuộc làu nó
ngay từ trên ghế nhà trường và không ngừng truy tìm cận căn nguyên của từng sự kiện chắc

chắn sẽ ảnh hưởng đến họ. Chậm làm điều đó hoặc làm ngược lại vì bất cứ nguyên nhân gì
đều là vô trách nhiệm và vô minh. Mang trên mình sứ mệnh nhà văn, ông luôn tâm niệm
không thể
khốn trắng cho lòch sử. Dẫu rằng những cái nhìn mới về lòch sử, về con người đôi
khi đã tạo cho số phận văn chương Tạ Duy Anh đầy thăng trầm và cha đẻ của nó chòu
những hệ lụy nhất đònh. Thế nhưng ông vẫn sẵn sàng trả giá để bước đi trên con đường hẹp
và đầy chông gai. Bởi lẽ, phong trào đổi mới văn học thực sự nào cũng, nếu không xuất
phát từ, thì cũng gắn liền với nhu cầu tái tạo lòch sử, từ đó, không những hiện tại được đổi
mới mà cả quá khứ cũng mang một diện mạo mới, lòch sử được viết lại. Trong khi những
người thủ cựu nỗ lực – thường là một cách tuyệt vọng – duy trì nguyên trạng quá khứ,
những người đổi mới có cố gắng viết lại quá khứ để vun bồi gốc rễ cho các dự phóng hướng
tới tương lai và để mọi vận động lại được tiếp tục.
Tạ Duy Anh luôn nỗ lực vượt thoát chính mình, miệt mài tìm kiếm kỹ thuật viết
nhưng ít khi thoả mãn với nó. Trong quan niệm của ông, sáng tác đồng nghóa với tìm tòi và
kỹ thuật viết. Kỹ thuật, xét cho cùng, là nỗ lực tạo ra hình thức và hiệu quả cao nhất cho tác
phẩm. Nó thường bò hiểu lầm hoặc cố ý hiểu lầm là tiểu xảo nghề nghiệp, những “ngón
nghề”, những trò xiếc, để phỉ báng hoặc bỏ qua nó. “Mỗi khi đặt bút viết là xuất hiện vấn đề
kỹ thuật, tính toán về kết cấu, giọng kể, hình thức thể hiện, ngay cả khi một nhà văn nào đó
tuyên bố anh ta chỉ sáng tác theo bản năng. Vấn đề còn lại là anh ta có khả năng thoát khỏi
sự vụng về hay không. Theo ông, mỗi cuốn sách phải khai phá những điều mới mẻ, luôn luôn
tiềm tàng (và phải có) khả năng tạo ra một cái gì chưa từng có, trước hết là chính nó, hoặc
điều quan trọng là ấn tượng cuối cùng mà tác phẩm gieo vào
lòng người đọc sẽ như thế nào
(chứ không phải nó được viết theo công thức nào…” [83].
Như vậy, những quan niệm về văn chương trên trang viết Tạ Duy Anh, dù được kí thác
qua phát ngơn của nhân vật, hay là chính những phát ngơn trực tiếp của tác giả, dù bề ngồi có
vẻ thiếu nhất qn thì sâu bên trong mạch nguồn của nó vẫn có sự thống nhất. Với khát vọng
khơi mở một mơ hình mới, một bút pháp mới là tâm huyết trăn trở với nghề. Ở từng thời điểm
ơng đã từng khẳng định bằng những tìm tòi nghệ thuật riêng nhưng ơng khơng thỏa mãn với
những gì đã có. Sự thỏa mãn là cái chết của nghệ thuật. Và suy nghĩ cho cùng thì mọi nỗ lực

tìm kiếm thể nghiệm đều nhằm tăng thêm khả năng biểu đạt cho văn chương, sao cho văn
chương có thể hiểu tâm hồn con người ngày một sâu hơn. Với ý nghĩ này, văn học là nơi lưu
giữ nhân tính, là sự xác lập những giá trị nhân văn nhân danh vẻ đẹp con người.
1.2.3. Đổi mới trong nghệ thuật thể hiện
Thực tiễn đổi mới trong hai thập kỉ qua đã thổi vào văn học luồng gió mới. Cùng với
thành cơng của Đại hội Đảng lần VI, cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với giới
văn nghệ là những yếu tố vơ cùng quan trọng thúc đẩy q trình đổi mới văn học. Hồ vào với
sự đổi mới nói chung của văn học, sáng tác của Tạ Duy Anh có những cách tân, đổi mới trên
nhiều phương diện: Đổi mới về quan niệm hiện thực của nhà văn, đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người, đổi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật…
1.2.3.1 Đổi mới về quan niệm hiện thực của nhà văn
Trước năm 1975, hiện thực được các sáng tác văn học lựa chọn là hiện thực chính trị
rộng lớn. Sau 1975, văn học hưởng ứng chủ trương: “Đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương - Đại
hội Đảng VI). Quan niệm về hiện thực của các nhà văn có sự đổi mới. Hiện thực được thể hiện
khơng đơn giản xi chiều như trước mà đa dạng, phong phú được soi chiếu từ kinh nghiệm
bằng cả kinh nghiệm cộng đồng lẫn kinh nghiệm cá nhân với quan điểm nhân bản khác nhau.
Hiện thực đa chiều đó là hiện thực chưa hồn kết, khơng thể khơng biết hết đòi hỏi nhà
văn ln phải khám phá, tìm tòi. Văn học tìm đến hiện thực cuộc sống đời tư phức tạp, từ số
phận của cá nhân đến số phận chung của cộng đồng đã đem lại cho văn học những hiện thực
mới mẻ, chân thực đậm chất nhân văn và thực sự gần gũi với con người. Nhân vật là phương
tiện cơ bản của nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để
thể hiện nhận thức của mình về cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về vấn đề nào đó của
hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong
một thời kỳ lịch sử nhất định.
Viết về nông thôn, Tạ Duy Anh đề cập đến số phận con người, số phận của những người
nông dân luôn phải sống trong sự đè nặng của biết bao thù hận, bao định kiến tối tăm, bảo thủ.
Chỉ ở một cái làng bé nhỏ thôi mà lúc nào cuộc sống cũng căng lên, ngột ngạt bởi các mối quan
hệ chằng chịt phức tạp và rất nhiều cuộc đời không được lựa chọn quyền sống cho chính mình.
Không khinh bạc, không gai góc, mỗi trang viết của Tạ Duy Anh cứ da diết một cảm giác của

những hồi ức đau đớn, nhức nhối. Tạ Duy Anh không viết về nông thôn rộng lớn chung chung,
ông là nhà văn viết về làng của mình – một làng quê nhỏ bé, tuy nhiên cái làng quê nhỏ bé ấy
lại không hề bình yên. Ở đó, cuộc sống luôn luôn bị khuấy đảo, sôi lên vì những quan hệ,
những mâu thuẫn, những tập tục cổ xưa làm điêu đứng biết bao số phận con người: Tạ Duy
Anh đặc biệt có thiên hướng đi sâu vào mặt tối những mảng khuất lấp của hiện thực nhưng bao
giờ từ đó, người đọc cũng nhận ra được những tia sáng nhân văn lấp lánh trong từng câu chữ.
Hơn nữa, các trang viết của ông đều hướng về một miền quê mà theo ông “lầy lội, tăm
tối và đầy thù hận”, cho nên không khí hội hè đình đám, tình cảm làng xóm thân tình đầm ấm,
hình ảnh những người nông dân đôn hậu mộc mạc… hầu như vắng bóng và không thuộc về
cảm hứng của ông. Đọc Tạ Duy Anh, người ta chỉ thấy sau cái vẻ thanh bình, bé nhỏ của làng
quê là sự ẩn giấu biết bao nhiêu bão tố. Với sự thâm trầm, sâu sắc, trải nghiệm của người đã
từng sống, chứng kiến (Tạ Duy Anh luôn nói rằng bản thân ông xuất thân từ làng, là đứa con
của làng) Tạ Duy Anh đã đem đến cho người đọc những góc nhìn sinh động, chân thực.
Đó là những người mang trong mình đầy những định kiến nặng nề, những nhận thức ấu
trĩ, bảo thủ, thù hận. Có lẽ chính cuộc sống khốn khó, vất vả, phải vật lộn với miếng ăn trên cái
mảnh đất “gan chó” ấy đã tạo ra họ những nếp nghĩ, nếp sống như vậy. Họ sống bằng hồi ức,
bằng những giai thoại và bằng cả những mối thù truyền lại từ bao kiếp trước. Bước qua lời
nguyền, Đắc đạo, Hóa kiếp… đều nói về những mối thù như vậy. Cuộc sống của họ vòng
quanh luẩn quẩn, họ tự làm khổ mình và làm khổ những thế hệ sau.
Cha của nhân vật Tôi (tức cậu Tư) trong Bước qua lời nguyền ngay từ khi con trai mình
còn nhỏ đã giáo dục con “khá cẩn thận” “Tôi phải nhớ rằng thành phần gia đình tôi bần nông”
[1, tr 137], “Và để ghi mối thù vào xương tủy, mỗi ngày bố tôi lại kể cho tôi nghe một chuyện
thời xưa về sự tàn ác của lão Hứa. Mỗi ngày một chuyện, lời kể của ông tuyệt vời như kể
chuyện cổ tích, khiến tâm hồn tôi thấm đẫm những hồi ức kinh hoàng không bao giờ còn hong
khô được nữa” [1, tr 139], Với riêng tôi và anh chị em tôi, đứa nào cũng thấm đẫm vào trí nhớ
một câu bất hủ “Lão Hứa và con cháu lão là kẻ thù truyền kiếp” [158]. Để rồi khi cậu con trai
cưng ấy làm trái ngược với tất cả những răn dạy và mong muốn của cha thì cậu không còn con
đường nào khác là phải rời nhà ra đi. Bản thân người nông dân cũng đau đớn khổ sở khi luôn
phải nuôi dưỡng trong mình, cho con cháu mình mối thù như thế (cha của cậu Tư đã từng bạc
hết cả đầu) nhưng họ cũng không thể và không cho phép mình được nguôi quên. Quá khứ là

một cái gì đó nặng nề. Như cha của cậu Tư, luôn khắc ghi trong tâm khảm mình hình ảnh của
cha và người em ruột chết một cách thảm thương vì tay lão Hứa. Bởi vậy, bắt tay với kẻ thù sẽ
còn như một việc làm tán tận lương tâm, bất trung bất hiếu.
Nhân vật người cha trong Vòng trầm luân trần gian cũng nuôi một mối thù sâu sắc. Nỗi
hận trong quá khứ không lúc nào được người cha quên nhắc lại cho con mình. Và ông minh
chứng bằng những hồi ức rành rẽ, đầy tính thuyết phục: “Thằng nào bôi đen lý lịch nhà anh?
Thằng nào lệnh mang cứt đổ vào cửa nhà anh? Chính cái thằng đập cả bàn thờ nhà anh vì nghi
có truyền đơn Việt Minh. Mày bảo tao phải quên đi những thằng như thế à?” [92].
Thế giới nội tâm của họ cũng đầy phức tạp, luôn tồn tại những nỗi dằn vặt, vò xé, đau
đớn. Họ sống, ứng xử theo những quan niệm và hồi ức của chính mình. Khi họ đã mang một
nỗi hận nào đó thì cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ mang nó suốt cuộc đời. Hơn thế, còn truyền
kiếp lại cho những đời con cháu họ, đừng mong chờ hai chữ vị tha. Tuy nhiên, Tạ Duy Anh lại
viết về những vấn đền này với sự cảm thông, chia sẻ. Có những đòi hỏi quá sức chịu đựng của
con người. Bản thân những người nông dân đôi khi không hề muốn khoét sâu hơn vết hằn quá
khứ nhưng tất cả những gì họ đã trải qua luôn nhắc nhở và không cho phép họ bội tín với những
lời thề, những ràng buộc vô tình.
Không chỉ luẩn quẩn, tăm tối với những hận thù, người nông dân trong cái làng Đồng bé
nhỏ ấy còn tự làm khổ mình và làm khổ người khác với những nhận thức ấu trĩ và những định
kiến sai lầm. Trong một số tác phẩm của Tạ Duy Anh hay láy đi láy lại môtíp những người con
gái xinh đẹp vượt trội trong làng luôn luôn phải chịu một cuộc sống cô độc, ghẻ lạnh bởi họ bị
coi là hiện thân của tình yêu, ác quỷ về hãm hại dân làng, thậm chí có khi họ còn bị chôn sống
(Thiên thần ác quỷ, Truyền thuyết viết lại, Ánh sáng nàng ). Cái đẹp là sự lạc loài, nó làm
người ta nhớ đến những bi kịch của làng từ trong truyền thuyết.

×