Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 tại một số trường ở tp. hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Ngô Minh Duy





ĐỘNG CƠ CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH LỚP
12 TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG Ở TP. HỒ CHÍ MINH




Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THU MAI














Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Tâm lý - Giáo dục, Phòng Sau đại học
Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học
và hoàn tất luận văn này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Trần Thị Thu Mai đã tận tâm giảng dạy và
hướng dẫn tôi trong quá trình học và trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Những định hướng
và điều chỉnh của cô đã giúp tôi trưởng thành hơn, chuyên nghiệp hơn trong nghiên cứu khoa học và
hiểu rõ hơn về đạo đức tác phong nhà giáo.

Tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Đinh Phương Duy, Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Tài, các thầy cô giáo và các
em học sinh lớp 12 ở các trường THPT Nguyễn Khuyến, THPT Trung Phú, THPT Đăng Khoa,
THPT Gia Định, THPT Hoàng Hoa Thám, THPT Nguyễn Văn Cừ đã giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu đề tài này.

Tôi xin cảm ơn các anh chị đồng nghiệp, bạn bè, người thân và những học trò của tôi đã động

viên và hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.








LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên
cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu
nào khác.
Tác giả



Ngô Minh Duy













MỤC LỤC
2TLỜI CẢM ƠN2T 105
2TLỜI CAM ĐOAN2T 106
2TMỤC LỤC2T 107
2TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT2T 110
2TDANH MỤC CÁC BẢNG2T 111
2TDANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ2T 113
2TMỞ ĐẦU2T 114
2T1.Lý do chọn đề tài2T 114
2T2.Mục đích nghiên cứu:2T 115
2T3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu2T 115
2T4.Giả thuyết nghiên cứu2T 116
2T5.Nhiệm vụ nghiên cứu2T 116
2T6.Phạm vi nghiên cứu đề tài2T 116
2T7.Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu2T 117
2T8.Đóng góp mới của đề tài2T 118
2T9.Cấu trúc luận văn2T 119
2TChương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ CHỌN NGHỀ2T 120
2T1.1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề2T 120
2T1.1.1.Những nghiên cứu về động cơ chọn nghề2T 120
2T1.1.1.1.Những công trình nghiên cứu trên thế giới2T 120
2T1.1.1.2.Những công trình nghiên cứu trong nước2T 121
2T1.2.Lý luận của vấn đề nghiên cứu2T 123
2T1.2.1.Động cơ2T 123
2T1.2.1.1.Khái niệm động cơ2T 123
2T1.2.1.2.Phân loại động cơ2T 127
2T1.2.2.Nghề2T 128
2T1.2.2.1.Khái niệm2T 128
2T1.2.2.2.Phân loại nghề2T 128

2T1.2.3.Sự hình thành động cơ chọn nghề ở học sinh lớp 122T 129
2T1.2.3.1.Khái niệm động cơ chọn nghề2T 129
2T1.2.3.2.Sự hình thành động cơ chọn nghề2T 129
2T1.2.3.3.Phân loại động cơ chọn nghề2T 130
2T1.2.3.4.Những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ chọn nghề2T 131
2T1.2.4.Đặc điểm tâm lý của học sinh Trung học phổ thông2T 132
2T1.2.4.1.Sự phát triển về thể chất2T 132
2T1.2.4.2.Điều kiện xã hội của sự phát triển2T 133
2T1.2.4.3.Đặc điểm về hoạt động học tập2T 133
2T1.2.4.4.Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ2T 133
2T1.2.4.5.Sự phát triển của tự ý thức2T 134
2T1.2.4.6.Sự hình thành thế giới quan2T 135
2T1.2.4.7.Giao tiếp2T 135
2T1.2.4.8.Đời sống tình cảm2T 135
2T1.2.4.9.Hoạt động lao động và sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT2T 135
2TChương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG ĐỘNG CƠ CHỌN NGHẾ CỦA HỌC
SINH LỚP 12 TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG Ở TP. HỒ CHÍ MINH
2T 138
2T2.1.Tổ chức nghiên cứu thực trạng2T 138
2T2.1.1.Mẫu nghiên cứu2T 138
2T2.1.2.Mô tả công cụ đo lường2T 139
2T2.1.3.Cách thu thập số liệu và thời gian thực hiện2T 141
2T2.1.3.1. Cách thu thập số liệu2T 141
2T2.1.3.2.Thời gian thực hiện2T 141
2T2.1.4.Cách xử lý số liệu2T 142
2T2.2.Thực trạng động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 tại một số trường ở Tp. Hồ Chí Minh2T 142
2TChương 3: ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐỘNG CƠ CHỌN NGHỀ CHO HỌC SINH2T
165
2T3.1.Tổ chức nghiên cứu biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh2T 165
2T3.2.Những biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh2T 165

2T3.3.Mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh2T
167
2TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ2T 176
2T1.Kết luận2T 176
2T2.Kiến nghị2T 177
2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T 180
2TPHỤ LỤC2T 184
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THPT: Trung học phổ thông
PTTH: Phổ thông trung học
Tp: Thành phố
TB: Trung bình
CL: Công lập
NCL: Ngoài công lập
NT: Nội thành
NgT: Ngoại thành
C.: Câu








DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
Tên bảng
Trang

1
Bảng 2.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu số 1
41
2
Bảng 2.2: Đặc điểm mẫu nghiên cứu số 2
42
3
Bảng 2.3: Đặc điểm mẫu nghiên cứu số 3
42
4
Bảng 2.4: Đặc điểm mẫu nghiên cứu số 4
43
5
Bảng 2.5: Động cơ chọn nghề của học sinh
48
6
Bảng 2.6: Động cơ chọn nghề của học sinh theo quan điểm của giáo viên
51
7
Bảng 2.7: So sánh động cơ chọn nghề theo giới tính
52
8
Bảng 2.8: Sự khác biệt có ý nghĩa về động cơ chọn nghề theo giới tính
53
9
Bảng 2.9: So sánh động cơ chọn nghề theo loại hình trường
55
10
Bảng 2.10: Sự khác biệt có ý nghĩa về động cơ chọn nghề theo loại hình trường
56

11
Bảng 2.11: So sánh động cơ chọn nghề giữa học sinh nội thành và ngoại thành Tp.
Hồ Chí Minh
57
12
Bảng 2.12: Sự khác biệt có ý nghĩa về động cơ chọn nghề giữa học sinh nội thành
và ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh
58
13
Bảng 2.13: Nhận thức của học sinh về nghề mình chọn
60
14
Bảng 2.14: Thái độ của học sinh khi chọn nghề
62
15
Bảng 2.15: Những hoạt động của học sinh chuẩn bị cho việc chọn nghề
64
16
Bảng 2.16: Những hành động của học sinh nếu không đậu vào trường/ngành mà
mình đã chọn
67
17
Bảng 2.17: Những khó khăn của học sinh khi chọn nghề
68
18
Bảng 2.18: Những đối tượng ảnh hưởng đến động cơ chọn nghề của học sinh
69
19
Bảng 2.19: Hoạt động hướng nghiệp của nhà trường
72

20
Bảng 3.1: Những biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh
78
21
Bảng 3.2: Ý kiến của giáo viên về những biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề
cho học sinh
79
22
Bảng 3.3: Mức độ cần thiết của các biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học
sinh
81
23
Bảng 3.4: Ý kiến của giáo viên về mức độ cần thiết của các biện pháp giáo dục
động cơ chọn nghề cho học sinh
83
24
Bảng 3.5: Sự khác biệt về mức độ cần thiết của các biện pháp giáo dục động cơ
chọn nghề cho học sinh theo loại hình trường
84
25
Bảng 3.6: Tính khả thi của các biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh
86
26
Bảng 3.7: Ý kiến của giáo viên về tính khả thi của các biện pháp giáo dục động cơ
chọn nghề cho học sinh
88



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

TT
Tên biểu đồ
Trang
1
Biểu đồ 2.1: Trung bình động cơ chọn nghề của học sinh
49
2
Biểu đồ 2.2: Những hoạt động của học sinh chuẩn bị cho việc chọn nghề
65
3
Biểu đồ 2.3: So sánh hoạt động hướng nghiệp giữa trường công lập và
ngoài công lập
71













MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Chọn nghề là vấn đề vô cùng quan trọng, luôn được nhiều người trong xã hội quan tâm. Sau
khi chọn nghề, chúng ta thường gắn bó với nghề mình đã chọn, dành nhiều thời gian, công sức và

tiền bạc với lựa chọn của mình. Nếu chọn nghề phù hợp với cá nhân và nhu cầu của xã hội sẽ thúc
đẩy cá nhân tích cực, chủ động, say mê, sáng tạo, sống được với nghề, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của xã hội…Ngược lại, nếu chúng ta chọn nghề không phù hợp, bản thân người chọn nghề sẽ
mất thời gian, kinh phí đào tạo, khó có việc làm, hoặc phải làm việc trái nghề, xã hội thì không tận
dụng được nguồn nhân lực do mình đào tạo ra mà phải đào tạo lại. Vì vậy, người hành nghề phải có
năng lực, tính cách phù hợp với nghề, phải có hứng thú đối với nghề và nghề đó đáp ứng được nhu
cầu của xã hội thì mới tạo động lực cho sự phát triển của đất nước.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khẳng định: Thực
hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo
một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học
sinh có sự hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân
luồng sau trung học phổ thông, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt
nghiệp [1, 12].
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác hướng nghiệp nói chung và vấn đề chọn nghề
nói riêng nên ngày 28 tháng 10 năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra công văn số
9971/BGD&ĐT-HSSV về việc triển khai công tác tư vấn cho học sinh, sinh viên thì: “Công tác tư
vấn (có nơi gọi là tham vấn) hướng nghiệp và tư vấn về tâm lý xã hội, gọi chung là tư vấn học
đường, chủ yếu tập trung vào học sinh khối trung học cơ sở và trung học phổ thông”[2]. Trong 6 nội
dung của công tác tư vấn học đường thì hướng nghiệp, chọn nghề và thông tin tuyển sinh là nội
dung quan trọng được đặt lên hàng đầu.
Dễ tìm việc sau khi tốt nghiệp ra trường, có một việc làm ổn định, được mọi người tôn trọng,
thu nhập cao … là mong ước của rất nhiều người. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy hiện tượng
thất nghiệp, bỏ nghề, chuyển nghề, làm trái nghề thường xuyên diễn ra và đang có xu hướng gia
tăng trong xã hội. “
0TTheo các khảo sát của Sở Lao Động Thương Binh Xã Hội Tp. Hồ Chí Minh, chỉ
có khoảng 30% giới trẻ qua đào tạo tìm được việc làm phù hợp ngành nghề, nhưng có đến 50% có
việc làm không phù hợp ngành nghề đào tạo”[41].
0T Trong khi đó, hàng năm, nước ta có “khoảng hơn
1 triệu” [42] học sinh lớp 12 đứng trước ngưỡng cửa phải có quyết định chọn nghề. Vì thế, chúng ta
có thể nhận thấy rằng, tầm quan trọng của việc chọn nghề ở học sinh lớp 12 không chỉ mang ý nghĩa

cá nhân mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không làm tốt công
tác giáo dục hướng nghiệp và chọn nghề cho học sinh?
Trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu về tâm lý tại một số trường đại học, cao đẳng tại TP.
Hồ Chí Minh và quá trình tiếp cận thực tiễn ở các trường Trung học phổ thông (THPT) chúng tôi
nhận thấy, xã hội có phát triển cân bằng, bền vững, cơ cấu lao động có thay đổi theo định hướng,
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước hay không một phần cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ việc chọn nghề
của học sinh lớp 12. Tuy nhiên, vấn đề chọn nghề của học sinh lớp 12 đang có nhiều nội dung cần
phải xem xét, nghiên cứu dưới góc độ của giáo dục học, xã hội học và tâm lý học như: làm thế nào
để chọn nghề phù hợp, xu hướng chọn nghề, giáo dục hướng nghiệp, động cơ chọn nghề, những yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của học sinh lớp 12, xây dựng mô hình giáo dục hướng
nghiệp và chọn nghề cho học sinh…
Trong những vấn đề đã được đề cập ở trên, chúng tôi cho rằng động cơ chọn nghề (yếu tố thúc
đẩy học sinh ra quyết định chọn nghề) là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12. Động cơ chọn nghề của mỗi cá nhân là cái cớ, cái thúc đẩy, cái chi phối
mọi hoạt động của cá nhân để nhằm đạt được nghề nghiệp dự định đó. Ở một mức độ nhất định, khi
biết được động cơ chọn ngành học của mỗi cá nhân ta có thể dự đoán được chiều hướng hoạt động
nghề nghiệp của cá nhân đó. Thậm chí dự đoán được cả hiệu quả hoạt động mà cá nhân đó sẽ đem
lại cho xã hội như thế nào [37, 40]. “Tại sao học sinh lại chọn nghề đó mà không chọn nghề khác?”
“Những yếu tố nào thúc đẩy học sinh chọn nghề? “Chọn nghề như thế nào là phù hợp và ngược lại
chọn nghề như thế nào là không phù hợp với bản thân và xã hội? Người nghiên cứu luôn băn
khoăn, trăn trở về những vấn đề trên. Vì thế, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Động cơ
chọn nghề của học sinh lớp 12 tại một số trường ở TP.Hồ Chí Minh”
2.Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm khảo sát động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12, từ đó đề xuất các
biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng.
3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.Khách thể nghiên cứu:
- Học sinh lớp 12 tại một số trường ở TP. Hồ Chí Minh.
- Giáo viên, chuyên gia tâm lý và chuyên gia hướng nghiệp.
3.2.Đối tượng nghiên cứu: Động cơ chọn nghề

4.Giả thuyết nghiên cứu
4.1.Có nhiều động cơ thúc đẩy học sinh lớp 12 ra quyết định chọn nghề nhưng sở thích và
nguyện vọng của cá nhân là động cơ chính thúc đẩy học sinh lớp 12 ra quyết định chọn nghề.
4.2.Quyết định chọn nghề của học sinh lớp 12 chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng chính
bản thân các em là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất.
5.Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Xác định biểu hiện động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 ở một số trường THPT tại TP. Hồ
Chí Minh.
5.2.Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12.
5.3.Đề xuất các biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh nói chung và học sinh lớp
12 nói riêng.
6.Phạm vi nghiên cứu đề tài
6.1.Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào 3 nội dung chính: lý do thúc đẩy học sinh lớp 12 chọn nghề,
những yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề và các biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học
sinh nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng.
6.2.Mẫu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên mẫu 400 học sinh lớp 12 tại 6 trường THPT công lập,
dân lập/tư thục ở các quận/huyện nội và ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh.
6.3.Địa điểm nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại 06 trường:
- Trường THPT Đăng Khoa, quận 1
- Trường THPT Nguyễn Khuyến, quận Tân Bình
- Trường THPT Gia Định, quận Bình Thạnh
- Trường THPT Hoàng Hoa Thám, quận Bình Thạnh
- Trường THPT Nguyễn Văn Cừ, huyện Hóc Môn
- Trường THPT Trung Phú, huyện Củ Chi
7.Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1Cách tiếp cận
7.1.1.Hướng tiếp cận thực tiễn

Chọn nghề là một hoạt động diễn ra trong thực tiễn của học sinh lớp 12. Trong đề tài nghiên
cứu này, động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 được tiến hành nghiên cứu trên một mẫu cụ thể đủ
độ khái quát tại các trường THPT ở giai đoạn các em làm hồ sơ đăng ký cho kỳ thi tuyển sinh đại
học cao đẳng. Kết quả khảo sát phải đảm bảo thu được những số liệu từ thực tiễn hoạt động chọn
nghề của học sinh nhằm phản ánh, đánh giá, nhận xét và đưa ra những kết luận mang tính khách
quan, đúng với thực tiễn.
7.1.2.Hướng tiếp cận hoạt động
Chọn nghề là một hoạt động, vì thế động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 phải nghiên cứu
thông qua hoạt động ra quyết định chọn nghề khi học sinh lớp 12 đăng ký hồ sơ tham dự kỳ thi
tuyển sinh đại học, cao đẳng mới phản ánh trung thực và chính xác kết quả nghiên cứu.
7.2.Phương pháp nghiên cứu
7.2.1Phương pháp nghiên cứu lý luận
Đề tài nghiên cứu có tham khảo một số giáo trình, tài liệu, các công trình nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước, các bài viết trên các tạp chí, website có liên quan. Đó là những cơ sở để
người nghiên cứu phân tích, tổng hợp và khái quát những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu
nhằm làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu và nội dung nghiên cứu.
7.2.2.Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo cách tiếp cận thực tiễn và hoạt động. Vì thế, người
nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo nhằm thu thập
thông tin thực tế từ học sinh và giáo viên về vấn đề động cơ chọn nghề. Bảng hỏi được xây dựng
theo thứ tự các bước sau:
Bước 1: Xây dựng phiếu thăm dò mở
Bước 2: Xây dựng phiếu thăm dò ý kiến thử nghiệm
Bước 3: Xây dựng phiếu thăm dò ý kiến chính thức

7.2.3.Phương pháp phỏng vấn
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn học sinh, thầy cô giáo, chuyên gia tâm lý và chuyên
gia hướng nghiệp để làm rõ thêm vấn đề nghiên cứu và tăng tính thuyết phục của kết quả nghiên
cứu.
7.2.4.Phương pháp thống kê toán học

Người nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê SPSS, phiên bản 11.5 để xử lý số liệu thu được
bằng các phép toán thống kê. Trong đề tài nghiên cứu này, người nghiên cứu đã sử dụng thang đo
khoảng, “là một dạng đặc biệt của thang đo thứ bậc, vì nó cho biết được khoảng cách giữa các thứ
bậc,… Việc đo lường thái độ hay ý kiến thì thang đo khoảng cung cấp nhiều thông tin hơn. Những
phép toán thống kê có thể sử dụng cho loại thang đó này là: số trung bình, độ lệch chuẩn … [9, tr.9-
10].
Trong đề tài nghiên cứu, người nghiên cứu có so sánh sự khác biệt về động cơ chọn nghề giữa
học sinh trường công lập và ngoài công lập, giữa học sinh ở khu vực nội thành và khu vực ngoại
thành, động cơ chọn nghề giữa học sinh nam và học sinh nữ, công tác hướng nghiệp giữa trường
công lập và trường ngoài công lập… Vì thế, người nghiên cứu phải so sánh trị trung bình của 2
nhóm tổng thể riêng biệt. “Muốn so sánh trị trung bình của 2 tổng thể riêng biệt ta thực hiện phép
kiểm định giả thuyết về sự bằng nhau của hai trung bình tổng thể dựa trên hai mẫu độc lập rút ra từ
hai tổng thể này. SPSS sử dụng lệnh Independent-Samples T-Test thuộc menu Analyze>Compare
Means để thực hiện kiểm định này [9, 110]. Theo Lý Minh Tiên, muốn “so sánh hai trung bình cỡ
mẫu phải lớn (n
R
1
R, nR
2
R > 30)” [13, 60].
Ngoài ra, trong đề tài này, chúng tôi còn tính tần số, thứ hạng, tỉ lệ phần trăm và sử dụng biểu
đồ để làm rõ và tăng thêm tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu.
8.Đóng góp mới của đề tài
Trong lĩnh vực tâm lý, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về động cơ chọn nghề của học sinh THPT
nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng, những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ chọn nghề… và đã có
những kết luận về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta đang bước vào thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, nền
văn minh tri thức đang làm thay đổi và biến đổi lực lượng sản xuất, nghề nghiệp xã hội. Những tác
động đó sẽ có ảnh hưởng đến động cơ chọn nghề của lớp trẻ Việt Nam nói chung và học sinh trung
học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, tìm được động cơ chọn nghề chủ đạo của học sinh
trung học phổ thông hiện nay sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp cho học sinh

phổ thông.
Đề tài nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về động cơ chọn nghề của học sinh
lớp 12. Ngày nay, học sinh lớp 12 chọn nghề theo sở thích và nguyện vọng của bản thân. Có một số
khác biệt về động cơ chọn nghề theo giới tính, loại hình trường và vị trí cư trú. Học sinh quan tâm,
xem xét nhiều vấn đề trước khi chọn nghề nhưng thật sự chưa hiểu biết nhiều về nghề mà mình đã
chọn. Nhiều học sinh vẫn xem đại học là con đường tiến thân duy nhất và chọn nghề là phải gắn bó
với nghề suốt đời. Bản thân học sinh là người ảnh hưởng lớn nhất đến quyết định chọn nghề của
mình. Công tác hướng nghiệp ở các trường công lập chỉ tồn tại dưới dạng hình thức và đối phó, môn
hướng nghiệp chưa quan tâm đúng mức, thầy không muốn dạy và trò thì không muốn học. Ở các
trường ngoài công lập, công tác hướng nghiệp hầu như bị bỏ.
9.Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có 3 phần chính:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
7. Phương pháp nghiên cứu
8. Đóng góp mới của đề tài
9. Cấu trúc của luận văn
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về động cơ chọn nghề
Chương 2: Thực trạng động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 tại một số trường ở Tp. Hồ Chí Minh
Chương 3: Đề xuất các biện pháp giáo dục động cơ chọn nghề cho học sinh
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tài liệu tham khảo
Phụ lục




Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ CHỌN NGHỀ
1.1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.Những nghiên cứu về động cơ chọn nghề
1.1.1.1.Những công trình nghiên cứu trên thế giới
a) Kết quả nghiên cứu về động cơ chọn nghề của các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ)
L.I.A. Rubina đã nghiên cứu kế hoạch đường đời (sự lựa chọn nghề nghiệp) của thanh niên
Liên Xô trên 2 khía cạnh: động cơ chọn nghề và tình huống. Động cơ chọn nghề xem xét đặc điểm
con đường tự quyết định của nhân cách trước khi vào đại học, điều kiện hình thành định hướng và
giáo dục đại học; xét cơ sở khách quan - các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp (gia
đình, môi trường, nhà trường, kinh nghiệm sống, phương tiện thông tin đại chúng…) mức độ ổn
định và có ý thức hứng thú đối với nghề đã chọn…Rubina đã phát hiện ra những động cơ không gắn
liền với đào tạo nghề nghiệp, đến khía cạnh nội dung của hoạt động nghề nghiệp, mà chỉ chọn thi
vào cho có học ở đại học, thường xuất hiện ở những sinh viên mà kế hoạch đường đời (sự tự quyết
lựa chọn nghề) diễn ra chóng vánh, kế hoạch được sắp đặt trước khi thi đại học khoảng 1 năm hay
trước khi nộp đơn thi. Thường ở những người này không có định hướng xã hội rõ ràng cho tương
lai, không có hứng thú nghề nghiệp ổn định [37, tr.13-14].
“Những nghiên cứu của E.Pavlưuchencov về động cơ chọn nghề cũng chỉ ra rằng, những học
sinh tích cực tham gia hoạt động liên quan đến học tập, lao động thì có cấu trúc động cơ chọn nghề
tối ưu hơn những học sinh khác” [37, 14].
“N. Levitop cho rằng, hứng thú, năng lực, mức độ chuẩn bị đối với nghề đã chọn, tình cảm, ý
chí và nguyện vọng tự rèn luyện là những động cơ cá nhân bên trong. Lời khuyên, tấm gương của
người khác cũng như những lý do có tính chất sinh hoạt và vật chất là những động cơ bên ngoài của
việc chọn nghề” [37, 14].
E.X.Trugunova với đề tài Mối quan hệ giữa động cơ nghề nghiệp và tính tích cực sáng tạo của
người kỹ sư. Qua phân tích bằng phương pháp thống kê toán học cho thấy, động cơ hoạt động nghề
nghiệp của người kỹ sư ở hiện tại có kết hợp chặt chẽ một cách đặc thù với động cơ lựa chọn nghề
nghiệp và vị trí công việc được đánh giá có ý nghĩa đối với bản thân từ trước đó vài năm… Trong
số kỹ sư có thái độ thờ ơ, tiêu cực với công việc có 42,7% trước đó đã chọn nghề do sự ngẫu nhiên;

trong số kỹ sư có thái độ tích cực cao 50% đã có hứng thú ổn định đối với khoa học kỹ thuật từ thời
điểm phải tự quyết định nghề nghiệp tương lai [37, 12].
b) Kết quả nghiên cứu về động cơ chọn nghề của các nhà tâm lý học phương Tây
Bates và Michael Julian (1998) của trường Đại học Memphis (Mỹ) đã tiến hành nghiên cứu đề
tài Những yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề giảng dạy âm nhạc của học sinh lớp 11 và 12 người
Mỹ gốc Phi. Đề tài đã xác định được những yếu tố chính và mức độ ảnh hưởng đến việc chọn nghề
của học sinh là: mô hình về vai trò của người giáo viên âm nhạc, giáo viên âm nhạc, gia đình. Ngoài
ra, học sinh còn quan tâm đến một số yếu tố khác như: các buổi học âm nhạc ở trường, kiểm tra
năng khiếu âm nhạc, tư vấn và trải nghiệm nghề nghiệp, môi trường, kinh tế cũng như tương tác của
giáo viên và học sinh trong các trò chơi âm nhạc ở lớp [43].
Brumbaugh, Sherron M. (2004) đã nghiên cứu đề tài Sự lựa chọn nghề giáo viên dàn nhạc có
dây của học sinh trung học. Đề tài nghiên cứu đã khảo sát trên 1863 học sinh lớp 11 và 12 tại phía
Bắc bang Texas (Mỹ). Đề tài đã đi đến kết luận rằng, số lượng học sinh nữ chọn nghề giáo viên dàn
nhạc có dây nhiều hơn so với học sinh nam. Học sinh chọn nghề giáo viên dàn nhạc có dây là do: sở
thích cá nhân, giúp ích cho xã hội, tạo một hình mẫu tích cực về người giáo viên dàn nhạc có dây
cho các em nhỏ và đó là nghề truyền thống của gia đình. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh
không chọn nghề giáo viên dàn nhạc dây là do lương quá thấp [44].
2TBathsheba K. Osoro2T, 2TNorman E. Amundson2T và 2TWilliam A. Borgen2T đã nghiên cứu đề tài Quyết
định chọn nghề của học sinh trung học tại Kenya. Đề tài nghiên cứu nhằm xác định những nguyên
nhân thúc đẩy học sinh chọn nghề. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh ở khu vực nông thôn chịu
sự ảnh hưởng từ cha mẹ và thầy cô giáo khi chọn nghề, còn học sinh ở thành thị chịu sự ảnh hưởng
của cha mẹ nhiều hơn là thầy cô giáo. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố giới tính,
khái niệm bản thân và mô hình về nghề là những yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề
của học sinh trung học ở Kenya [46].
Qua những nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy các nhà tâm lý học trên thế giới nghiên cứu
về động cơ chọn nghề theo hướng chuyên sâu, động cơ chọn nghề của từng nghề cụ thể trong xã hội
và mối quan hệ giữa động cơ chọn nghề với những vấn đề tâm lý khác.
1.1.1.2.Những công trình nghiên cứu trong nước
Tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết với đề tài nghiên cứu Nghiên cứu về nguyện vọng lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh lớp 10 được thực hiện từ năm 1965-1969 ở các trường ở nông thôn, nội và

ngoại thành. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nguyện vọng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh là để
phục vụ đất nước nhưng mơ ước đó không dựa trên năng lực của bản thân, phần lớn các em chọn
vào các ngành công nghiệp, kế đến là y dược, các lĩnh vực như tài chính, kế toán các em lựa chọn
rất ít [21].
Luận án Phó tiến sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Bích (1979) với đề tài Động cơ chọn nghề của
thanh thiếu niên đã nhận định rằng, ở thanh niên, học sinh động cơ chọn nghề bên trong nổi bật hơn
động cơ bên ngoài. Đối với nam thì việc thực hiện khả năng của bản thân là động cơ đầu tiên trong
chọn nghề, tiếp đến là tính chất quan trọng của nghề, hứng thú với nghề. Đối với nữ thì trước tiên là
yêu cầu của nhà nước, vị trí xã hội của nghề và thực hiện được khả năng của mình [19].

Đề tài Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh PTTH của tác giả Phạm Thị Nguyệt Lãng
(1991) nghiên cứu khảo sát 1803 học sinh lớp 10, 11, 12 ở 12 trường PTTH thuộc các tỉnh, thành:
Hà Nội, Hà Sơn Bình, Tp. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Cửu Long. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra:
83,25% nữ và 78,41% nam chọn nghề theo hứng thú cá nhân. Các yếu tố động cơ thúc đẩy học sinh
chọn nghề còn lại như: lương bổng nhiều, để được khen, có vinh quang chiếm tỉ lệ rất thấp. Phân
tích kết quả nghiên cứu tác giả nhận định rằng học sinh đã xem xét khả năng của bản thân với yêu
cầu của nghề và tỉ lệ nam cao hơn nữ [29].
Tác giả Phan Tố Oanh (1994) với đề tài Nguyện vọng và nguyên nhân chọn nghề của học sinh
phổ thông trung học được thực hiện trên 200 học sinh ở Huế và 300 học sinh ở Hà Nội cho thấy,
nguyên nhân học sinh chọn nghề là phù hợp với năng lực học tập, nghề nghiệp phù hợp với hứng
thú, các nguyên nhân như: dễ có khả năng trúng tuyển hay phù hợp với “mốt” hiện nay được học
sinh đánh giá rất thấp [32].
Đề tài nghiên cứu Tìm hiểu động cơ lựa chọn nghề khi thi vào đại học của sinh viên của tác
giả Nguyễn Ánh Hồng (2001) được thực hiện trên 800 sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh đã kết luận
việc lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên được xuất phát từ những động cơ khác nhau, những động
cơ này có tính hệ thống và thứ bậc. Bằng phương pháp phân tích nhân tố, tác giả Nguyễn Ánh Hồng
đã phân chia thành 4 nhóm (hệ thống) động cơ chọn nghề: Nhóm động cơ điểm tuyển và học phí
thấp (điểm tuyển thấp, không phải đóng học phí); nhóm động cơ kinh tế và việc làm (dễ kiếm việc
làm và thu nhập cao); nhóm động cơ hợp khả năng và sở thích (hợp với sở thích, hợp với khả năng
của cá nhân); nhóm động cơ theo lời khuyên (theo ý kiến bạn bè, theo lời khuyên của cha mẹ, ngành

quan trọng trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước). Kết quả nghiên cứu thu được cho thấy:
Nhóm động cơ hợp với khả năng và sở thích đóng vai trò quan trọng nhất đối với học sinh khi chọn
nghề, kế đến là nhóm động cơ kinh tế và việc làm, sau nữa là nhóm động cơ theo lời khuyên và cuối
cùng là nhóm động cơ điểm tuyển và học phí thấp [16, tr.58-60, 70].
Đề tài Tìm hiểu động cơ thi vào sư phạm của giáo sinh năm I, năm II tại một số trường sư
phạm trong Tp. Hồ Chí Minh của tác giả Võ Thị Hồng Trước (1994) với mẫu là 295 giáo sinh tại
các trường: Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Trung học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh và Cao đẳng
Sư phạm trung ương III. Kết quả nghiên cứu cho thấy động cơ thi vào các trường sư phạm chiếm ưu
thế là động cơ bên trong [38].
Luận văn tốt nghiệp đại học của tác giả Ngô Thị Kim Ngọc (1996) với đề tài “Tìm hiểu hiện
trạng và nguyên nhân chọn nghề của học sinh lớp 11 và 12 nội thành phố Hồ Chí Minh” được thực
hiện năm 1996. Mẫu nghiên cứu của đề tài là 323 học sinh khối lớp 11, 12 tại 2 trường PTTH Hùng
Vương và PTTH Nguyễn Thái Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh chọn nghề ở lĩnh vực
kinh tế và ngoại thương là nhiều nhất vì theo các em những nghề ở các lĩnh vực này sẽ có triển vọng
trong tương lai. Nguyên nhân thúc đẩy các em chọn nghề là phù hợp với hứng thú và khả năng của
bản thân, không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Những người đang hành nghề là đối tượng ảnh
hưởng lớn nhất đến quyết định chọn nghề của học sinh [15, 60].
Luận văn tốt nghiệp đại học của tác giả Phạm Thị Thiều Anh (1996) với đề tài “Tìm hiểu động
cơ chọn nghề của học sinh lớp 12 tại một số trường Trung học phổ thông nội thành thành phố Hồ
Chí Minh” được thực hiện năm 1996 tại 3 trường: PTTH Diên Hồng, PTTH Lê Quý Đôn và PTTH
Lê Thị Hồng Gấm với cỡ mẫu là 263. Kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh chọn nghề phù hợp với
sở thích, nguyện vọng, phù hợp với khả năng và hiểu biết về nghề là yếu tố ảnh hưởng đến quyết
định chọn nghề [30].
Qua các đề tài nghiên cứu trên cho thấy, ở mỗi công trình nghiên cứu tác giả có những cách
phân chia động cơ chọn nghề khác nhau và động cơ chọn nghề của học sinh cũng thay đổi theo từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Điều này minh chứng cho luận điểm tâm lý người có bản chất xã hội và
mang tính lịch sử. Các công trình nghiên cứu trên đã thực hiện khá lâu so với thời điểm hiện tại nên
kết quả nghiên cứu có thể không còn phù hợp nữa. Vì thế, việc nghiên cứu động cơ chọn nghề của
học sinh lớp 12 và những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của các em ở thời điểm hiện
tại là cần thiết.

1.2.Lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1.Động cơ
1.2.1.1.Khái niệm động cơ
Động cơ là một trong những vấn đề trọng tâm trong Tâm lý học được quan tâm nghiên cứu từ
rất sớm. Quá trình nghiên cứu, giải thích “tại sao con người lại hành động như thế, hành động như
thế nhằm mục đích gì”…thực chất đó là nghiên cứu về động cơ. Ronald E.Smith cho rằng, khái
niệm động cơ được dùng như một khái niệm trung tâm nhằm giải thích cho hành vi và các nguyên
nhân của nó. Trên thế giới có nhiều trường phái nghiên cứu về động cơ và mỗi trường phái có
những quan điểm khác nhau về động cơ.
a) Quan điểm của các nhà tâm lý học phương Tây về động cơ:
Theo Stephen Worchil và Wayne Shebilsue, “các nhà Tâm lý học đã sử dụng thuật ngữ động
cơ (motive) để mô tả tình huống cung cấp năng lượng và hướng dẫn hành vi của các tổ chức. Động
cơ thúc đẩy (motivation) giải thích tại sao một cơ thể lại hành động theo một cách nhất định tại một
thời điểm nhất định” [35, 362].
Theo các thuyết bản năng (Instinct theories), động cơ là một khuynh hướng bẩm sinh để hành
động theo một cách cụ thể. William James (1890) và William McDougall (1908) là những đại diện
tiêu biểu cho trường phái này cho rằng, “thiên nhiên ban phát cho chúng ta cả năng lượng và dạng
thức hành vi… các sự kiện bên ngoài có thể làm phóng thích bản năng cụ thể nhưng hành động của
chúng ta vẫn được hướng dẫn bởi các nội lực” [35, 363].
Các thuyết thôi thúc (Drive theories), tiêu biểu là Sigmund Freud, Clark Hull xem động cơ là
sự thôi thúc. Freud cho rằng, mục đích của hành vi là giảm đi căng thẳng do sự tồn tại của một nhu
cầu tạo ra. Năm 1940, Clark Hull (1943, 1951) đã kết hợp hai quan điểm thôi thúc và hành vi thành
thuyết thôi thúc toàn diện với nguyên tắc điều bình (homeostasis). Theo học thuyết này, cơ thể
chúng ta cố gắng duy trì một trạng thái ổn định bên trong. Khi những thay đổi xuất hiện, cơ chế điều
bình kích thích cơ thể hành động nhằm đưa trạng thái bên trong trở lại như lúc đầu. Nhu cầu xuất
hiện khi sự cân bằng của cơ chế điều bình trong cơ thể bị đảo lộn. Sự tồn tại của một nhu cầu sẽ
kích thích cơ thể thỏa mãn nhu cầu đó và chính nhu cầu đó hình thành một thôi thúc. Hành vi luôn
được thúc đẩy từ bên trong [35, tr.363-364].
Các thuyết khích lệ (Incentive theories) thì cho rằng, không phải tất cả các hành vi đều được
thúc đẩy bởi các nhu cầu bên trong. Quan điểm của các thuyết khích lệ là các sự kiện bên ngoài

kiểm soát và khích lệ hành vi. Một sự khích lệ là một tác nhân bên ngoài có khả năng thúc đẩy hành
vi ngay cả khi sự thôi thúc không hiện diện rõ ràng [35, 365].
“Raymond J. Corsini-nhà Tâm lý học của Anh cũng đồng tình với quan điểm này, “động cơ là
yếu tố thúc đẩy, nuôi dưỡng và định hướng các hoạt động tâm lý và sinh lý. Động cơ bao gồm các
lực thúc đẩy nội tâm (bên trong) như các xung năng, các hứng khởi và mong muốn cần thiết trong
quá trình này” [45, 612].
Cuối những năm 1950, các thuyết nhận thức về động cơ thúc đẩy ra đời và nhận được sự quan
tâm của nhiều người. Các thuyết này tập trung vào: suy nghĩ, phán xét và xử lý thông tin. Thuyết bất
hòa nhận thức của Frestinger (1957) cho rằng, con người phấn đấu để đạt được sự nhất quán giữa
các nhận thức của họ (niềm tin, thái độ, kiến thức về hành vi của họ). Sự khó chịu sẽ xuất hiện khi
có sự không nhất quán giữa các nhận thức và chính sự khó chịu này thúc đẩy cơ thể phục hồi lại sự
nhất quán. Cũng thuộc trường phái này nhưng Miller, Galanter và Pribram (1960) thì đưa ra một
cách lý giải khác: hành vi bị ảnh hưởng bởi các kế hoạch và các mục tiêu. Mục tiêu là đích cuối
cùng mà con người muốn đạt được. Khi có một mục tiêu, cá nhân sẽ lập một kế hoạch về cách tiến
hành để đạt được mục tiêu đó. Mục tiêu bị ảnh hưởng bởi các nhu cầu nhưng chính mục tiêu và các
kế hoạch đó mới chính là yếu tố thôi thúc hành động. Trong những năm gần đây, các nghiên của
trường phái nhận thức về động cơ thúc đẩy tập trung vào việc tìm kiếm và xử lý thông tin và thông
tin đó ảnh hưởng như thế nào đến hành vi của con người [35, 365].
Abraham Maslow cũng đề cập đến động cơ. Maslow cho rằng, gốc rễ của động cơ là nhu cầu.
Trong quá trình phát triển cá nhân các nhu cầu đó tạo nên một kiểu dạng tháp, có thức bậc…Tháp
nhu cầu của Maslow bao gồm cả những nhu cầu có nguồn gốc sinh học và xã hội tương ứng với một
hệ thống động cơ. Thế nhưng, đặc điểm của các mức độ nêu trên hết sức vô định hình.
Qua các quan điểm trên chúng ta có thể nhận thấy, các nhà tâm lý học phương Tây đã phát
hiện ra mối quan hệ giữa nhu cầu và động cơ. Tuy nhiên, các nhà tâm lý học phương Tây đã quá đề
cao vai trò của yếu tố sinh học, yếu tố bản năng và có cái nhìn phiến diện đối với động cơ, điều này
vô hình chung đánh đồng động cơ của con người và động cơ của con vật. Các nhà tâm lý học
phương Tây chỉ thấy động cơ là những nội lực bên trong hoặc ngược lại đó là những yếu tố bên
ngoài chứ chưa thấy được bức tranh tổng quát về động cơ của con người là cả những nội lực bên
trong và những yếu tố bên ngoài đồng thời động cơ còn chịu sự chi phối của ý thức trong sự phát
triển của nhân cách.

b) Quan điểm của các nhà tâm lý học của Liên xô (cũ) về động cơ
A.N. Leonchiev cho rằng động cơ là: a) Động cơ và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý gắn bó
chặt chẽ với nhau; b) Động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được chủ thể tri
giác, biểu tượng, tư duy… Đó là sự phản ánh chủ quan về đối tượng thỏa mãn nhu cầu; c) Động cơ
có chức năng thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu [25, 210].
B.Ph.Lomov cho rằng, nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ và chúng ta không thể tách
biệt nhu cầu và động cơ. Vì thế, khi nghiên cứu động cơ phải nghiên cứu động cơ trong mối liên hệ
với nhu cầu. Theo B.Ph.Lomov, động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu và ngược lại, nhu cầu
là cơ sở của động cơ. “Sự thay đổi những động cơ này chỉ xảy ra khi có thay đổi cơ bản về hoàn
cảnh sống và hoạt động sống cá nhân trong xã hội (và hơn cả thế nữa: sự thay đổi của chính xã hội)”

[12, 470].
Theo Từ điển Tâm lý học của Nga, động cơ là: a) Các kích thích thúc đẩy hoạt động. Các kích
thích này liên quan đến việc thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Đó là tập hợp các điều kiện bên trong và
bên ngoài khêu gợi tính tích cực của chủ thể và định hướng cho tính tích cực đó; b) Đối tượng (vật
chất hay tinh thần) thúc đẩy và quy định sự lựa chọn hướng của hoạt động được thực hiện để đạt
được đối tượng đó; c) Nguyên nhân được nhận thức là cơ sở của sự lựa chọn hành động và các hành
vi của nhân cách [12, 209].
Khác với Tâm lý học phương Tây, các nhà tâm lý học của Liên Xô (cũ) không xem xét động
cơ như một thành tố độc lập. Động cơ không những là một bộ phận cấu thành của hoạt động mà còn
là một thành phần của một hệ thống phức tạp có mối liên hệ với nhu cầu. “… Động cơ là sự phản
ánh của nhu cầu. Những đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác tồn tại trong hiện thực
khách quan, một khi chúng bộc lộ ra, được chủ thể nhận biết (ý thức được) sẽ thúc đẩy, hướng dẫn
con người hoạt động. Nói khác đi, khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thỏa mãn thì trở thành
động cơ hoạt động” [20, 100].
c) Quan điểm của các nhà tâm lý học Việt Nam về động cơ
Nguyễn Quang Uẩn cho rằng, động cơ là “cái thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn
nhu cầu, là cái làm nảy sinh tính tích cực và quy định xu hướng của hướng tích cực đó. Động cơ là
động lực kích thích trực tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành vi” [20, 206].
Theo Vũ Dũng (Từ điển Tâm lý học, 2008) động cơ là: “cái thúc đẩy hành động, gắn liền với

việc thỏa mãn những nhu cầu của chủ thể, là toàn bộ điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng
khơi dậy tính tích cực của chủ thể và xác định tính xu hướng của nó; Đối tượng (vật chất hay tinh
thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn xu hướng của hành động mà vì nó hành động được thực
hiện; Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi” [39, 182].
Các nhà tâm lý học của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng tư tưởng của các nhà tâm lý học Liên Xô
(cũ). Vì thế, quan điểm về động cơ của các nhà tâm lý học Việt Nam khá giống với quan điểm của
các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ).
Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau về động cơ. Tuy nhiên, các
quan điểm đều thống nhất xem động cơ là những yếu tố kích thích, quy định sự lựa chọn và định
hướng của hành vi, nguyên nhân thúc đẩy con người hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
1.2.1.2.Phân loại động cơ
Thông thường, trong Tâm lý học phân động cơ thành 2 loại: “ngắn hạn” và “dài hạn” (Cheplov
đưa ra kiểu phân biệt này). Động cơ ngắn hạn chỉ liên quan đến tương lai gần của nhân cách, còn
động cơ lâu dài thì gắn với tương lai tương đối dài các mức khác nhau trong quá trình phát triển
nhân cách… Những người trẻ tuổi thường chịu tác động của những động cơ ngắn hạn [12, 470].
V.G.Axêev chia động cơ thành 2 loại: “động cơ tích cực và động cơ tiềm tàng” [12, 469].
Stephen Worchil và Wayne Shebilsue cho rằng, động cơ có thể phân thành 2 loại: động cơ
nguyên thủy (primary motive) và động cơ xã hội (social motive). Động cơ nguyên thủy có liên quan
đến các nhu cầu sinh học của con người. Các động cơ này không phải học, giống nhau ở tất cả các
động vật và có ý nghĩa rất quan trọng cho việc tồn tại của một cơ thể hay một loài. Đói, khát, nhu
cầu về không khí, nghỉ ngơi, ham muốn về tình dục được xếp vào loại này. Động cơ xã hội xuất
phát từ học tập và giao tiếp xã hội. Nhu cầu xác nhập, gây gổ hiếu chiến và thành quả được xếp vào
nhóm động cơ xã hội [35, 362].
Theo G. Murphay và một số các nhà Tâm lý học phương Tây, động cơ được phân thành 2 loại:
động cơ cấp một và động cơ cấp hai hay còn gọi là động cơ nguyên phát và động cơ thứ phát. Động
cơ nguyên phát là những động cơ bên trong, gắn liền với nhu cầu của cơ thể và động cơ thứ phát.
Động cơ cấp hai hay còn gọi là động cơ thứ phát được hình thành như những công cụ nhằm đáp ứng
các động cơ nguyên phát.
Schwartz và Bilsky cho rằng, động cơ của con người có thể được phân thành 10 loại: “tự điều
chỉnh, kích thích, đề cao khoái cảm, thành đạt, quyền lực, tính an toàn, tính thỏa hiệp, tính truyền

thống, mong muốn thuận lợi, tính toàn diện” [25, 220] … Tuy nhiên, trong thực tế, động cơ của con
người rất phong phú và đa dạng và có mối liên hệ mật thiết với nhu cầu. Các loại động cơ trong hệ
thống động cơ không phải là bất biến mà luôn thay đổi.
Theo trường phái Tâm lý học hoạt động, động cơ được chia thành 2 loại cơ bản: động cơ chủ
đạo và động cơ thứ yếu. Hai loại động cơ này có mối quan hệ mật thiết với nhau và trong những
hoàn cảnh cụ thể chúng tạo thành một hệ thống thứ bậc động cơ.
Theo Nguyễn Quang Uẩn (2003), có rất nhiều cách phân loại động cơ: “Động cơ ham thích và
động cơ nghĩa vụ; động cơ quá trình và động cơ kết quả; động cơ gần và động cơ xa; động cơ cá
nhân, động cơ xã hội và động cơ công việc; động cơ bên trong và động cơ bên ngoài; động cơ tạo ý
và động cơ kích thích” [20, 100].
Theo quan điểm của người nghiên cứu, động cơ của con người rất phong phú và đa dạng nên
có rất nhiều cách phân loại động cơ. Ở mỗi lĩnh vực và tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau thì có
những loại khác nhau. Trong đề tài nghiên cứu này, người nghiên cứu phân loại động cơ theo quan
điểm của tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong giáo trình Tâm lý học đại cương xuất bản năm 2003 của
nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Động cơ được phân thành: “động cơ cá nhân, động cơ xã hội, động
cơ công việc” [20, 100].
1.2.2.Nghề
1.2.2.1.Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt 2000, nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của
xã hội” [8, 676].
Nghề hay còn gọi là nghề nghiệp. “Nghề nghiệp bao hàm 3 ý: Một là có công việc, tức là có
việc để làm, có việc để xử lý; hai là có thu nhập để có được tiền lương hoặc có được thu nhập kinh
tế của những hình thức khác nhau; ba là có giới hạn thời gian. Thông thường quy định vì một phần
tư, một phần ba, một phần hai của hoạt động toàn ngày” [33, 7].
Nghề có 4 đặc trưng cơ bản: đối tượng lao động, mục đích lao động, công cụ lao động và điều
kiện lao động. Vậy, nghề nghiệp là công việc mà cá nhân đảm nhiệm trong những lĩnh vực nhất
định theo sự phân công lao động của xã hội nhằm tồn tại và phát triển.
1.2.2.2.Phân loại nghề
Tùy thuộc vào tiêu chí và mục đích phân loại nên có những cách phân loại nghề khác nhau.
Theo tác giả Phạm Tất Dong (2002) trong cuốn Tư vấn hướng nghiệp thì, có 8 loại nghề: nghề

kỹ thuật (kỹ sư, kiến trúc sư…), nghề thợ (thợ mộc, thợ hồ…), nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa
học (nghiên cứu viên, chuyên viên, …), nghề thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật (nhà văn, nhà thơ,
nghệ sĩ, diễn viên…), nghề tiếp xúc với con người (giáo viên, bác sĩ, tiếp tân…), nghề hành chính
(nhân viên văn phòng các cơ quan, doanh nghiệp…), nghề tiếp xúc với thiên nhiên (kỹ sư nông
nghiệp, nhà địa chất, …).
Căn cứ vào mối quan hệ giữa con người và đối tượng lao động, E.A. Climov cho rằng có 5
nhóm nghề: Nhóm nghề trong đó người và kỹ thuật có đối tượng lao động chủ yếu là hệ thống các
thiết bị, các nguyên vật liệu, năng lượng; nhóm nghề trong đó người và các dấu hiệu có đối tượng
lao động là các dấu hiệu, con số, mã số…; nhóm nghề trong đó con người và nghệ thuật có đối
tượng chủ yếu là các hình ảnh nghệ thuật; nhóm nghề trong đó người và người có đối tượng lao

×