Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

phân tích tác động gia nhập wto của việt nam đối với xuất khẩu cà phê của tổng công ty cà phê việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.99 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngành cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, chỉ trong
vòng hai mươi, hai nhăm năm trở lại đây, chúng ta đã đưa sản lượng cà phê
của cả nước tăng lên hàng trăm lần. Thành tựu đó được ngành cà phê thế giới
ca ngợi và chúng ta đã tự hào vì nó. Trong những năm gần đây, do kích thích
mạnh mẽ của giá cả thị trường cà phê đã mang lại cho các nhà sản xuất và
kinh doanh lợi nhuận siêu ngạch. Tình hình phát triển của cà phê đã ra khỏi
tầm kiểm soát của ngành cũng như của Nhà Nước, và chính vì thế mà sự tăng
trưởng nhanh chúng với mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp
phần đâỷ ngành cà phê thế giới đến thời kỳ hoàng kim.
Ngành cà phê Việt Nam với quy mô sản xuất không ngừng được mở
rộng tạo ra nguồn cung cấp dồi dào về sản phẩm cà phê ra thị trường thế giới.
Gần đây giá cà phê thế giới luôn đứng ở mức cao và không có dấu hiệu giảm
giá( giá cà phê Robusta giao kỳ hạn tháng 12/2006 trên thị trường London
1428 USD/ tấn, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 12/2006 trên thị trường
Newyork đạt 2.536,29 – 2545,10 USD/ tấn). “Theo

Đó là cơ hội lớn đối với các nhà sản xuất và kinh doanh cà phê xuất khẩu
của Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu
chủ lực có giá trị lớn và đứng thứ hai thế giới sau Brasil.
Tuy nhiên, việc Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO về
cơ bản đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam bước vào một sân
chơi rất rộng với vô số luật lệ vừa đa dạng vừa phức tạp.Cái khó không những
ở chỗ phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm và hiểu hết những luật
lệ này là gì, ở những lĩnh vực nào mà còn ở chỗ dù Việt Nam đã cố gắng đến
mức tối đa trong việc bổ xung hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại
để có thể gia nhập WTO, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Pháp luật của
chúng ta còn thiếu nhiều định chế và một số định chế chưa tương thích với
pháp luật quốc tế. Có lẽ các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có Tổng công ty
Cà phê Việt Nam đang quan tâm nhiều tới việc gia nhập WTO của Việt Nam


thì họ phải tuân thủ những quy định nào và ảnh hưởng cuả nó tới tình hình
sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Vấn đề đặt ra với hầu hết các lĩnh vực,
ngành nghề, thành phần kinh tế của Việt Nam trong đó có ngành nông nghiệp
nói chung, ngành Cà phê và Tổng công ty cà phê Việt Nam nói riêng được
đánh giá là sẽ chịu nhiều sức ép không chỉ bởi những quy định nghiêm ngặt
của WTO đối với nông nghiệp như xóa bỏ trợ cấp xuất Khẩu hay cắt giảm
thuế quan mà còn bởi xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty nói riêng, ngành cà
phê Việt Nam nói chung phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài
trên bình diện mới rộng hơn, sâu hơn trong khi thực tế là xuất khẩu cà phê của
Tổng công ty mặc dù có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn quá nhiều yếu kém.
Nhìn nhận thực tế tình hình xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê
Việt Nam thời gian qua, những thành tựu mà Tổng công ty đã đạt được không
phải là không đáng kể. Song, một khi đã gia nhập WTO, một sân chơi lớn với
sức ép cạnh tranh cao, trong khi đó với một nền nông nghiệp nói chung ngành
cà phê nói riêng vẫn còn lạc hậu như Việt Nam hiện nay không phải là cơ sở
đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, Phân tích tác động gia
nhập WTO của Việt Nam đối với xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà
phê Việt Nam không chỉ là việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng xuất Khẩu cà
phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam nói riêng, ngành cà phê Việt Nam nói
chung mà còn xây dựng cơ sở cho việc đề ra những giải pháp hữu hiệu đối
với việc thúc đẩy xuất Khẩu cà phê tăng mạnh hơn nữa trong bối cảnh Việt
Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nhằm giữ vững vị
thế của mình trên thị trường thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu những quy định, quy chế của tổ chức
thương mại thế giới – WTO về nông nghiệp nói chung và xuất nhập khẩu
hàng cà phê nói riêng, cũng như phân tích thực trạng xuất khẩu cà phê của
Tổng công ty cà phê Việt Nam từ 2002 đến nay, luận văn sẽ đưa ra những
phân tích, đánh giá ảnh hưởng gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất khẩu
cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam, đồng thời đề xuất phương hướng

và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tác động của gia nhập WTO
đối với xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Phân tích mặt hàng cà phê xuất Khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam
tế nay đến 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê kinh nghiệm,
phân tích tổng hợp, ngoại suy kết hợp với phương pháp tiếp cận hệ thống và
phân tích thông tin.
6. Những đóng góp của luận văn:
Mặt là, nghiên cứu những quy định, quy chế của tổ chức thương mại thế
giới WTO và tác động của nó tới ngành nông nghiệp nói chung ngành cà phê
nói riêng và các cơ hội hấp dẫn từ việc gia nhập WTO đối với việc mở rộng
thị trường xuất Khẩu của Tổng công ty cà phê Việt Nam .
Hai là, đánh giá tổng quát thực trạng xuất khẩu cà phê của Tổng công ty cà
phê Việt Nam thời gian qua và rút ra những thành công cũng như những vấn
đề còn tồn tại cần giải quyết trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ đó đề ra những giải pháp
cơ bản khai thác cơ hội hấp dẫn từ việc gia nhập WTO của Việt Nam nhằm
thúc đẩy xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam.
7. Nội dung và kết cấu luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu xây dựng làm 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm kinh doanh cà phê trong điều kiện Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO.
Chương 2: Phân tích tác động của gia nhập WTO đến xuất Khẩu cà phê
của Tổng công ty cà phê Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản khai thác cơ hội hấp dẫn từ

việc Việt Nam gia nhập WTO để thúc đẩy xuất Khẩu cà phê của Tổng công
ty cà phê Việt Nam.
CHƯƠNG I:
ĐẶC ĐIỂM KINH DOANH CÀ PHÊ TRONG ĐIỀU KIỆN
VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI – WTO.
1.1. Xuất khẩu cà phê và các nhân tố cơ bản tác động đến hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê:
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của nó đối với doanh nghiệp kinh
doanh xuất Khẩu cà phê:
1.1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu:
Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi
hàng hóa giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích tối đa hóa lợi
nhuận. Trao dổi hàng hóa là mặt hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội
và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh
hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm
tạo điều kiện cho các nước tham gia và phân công lao động quốc tế, phát triển
kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, Xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà
là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì
vậy, phải coi trọng xuất khẩu cũng như xem thương mại quốc tế như một tiền
đề, một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối
ưu sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế. Xuất khẩu là một bộ
phận của hoạt động ngoại thương trong dù hàng hóa và dịch vụ được bán cho
nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động kinh doanh buôn bán trên
phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là có một
hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài
nhằm mục đích lợi nhuận thúc đẩy hàng hóa sản xuất phát triển, chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác,
hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại

lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ
thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh
tế, từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất từ máy móc
thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hóa hữu hình
đến hàng hóa vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc
gia tham gia. Hoạt động này diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian
và thời gian; nó có thể diễn ra trong một ngày hoặc kéo dài hàng năm; có thể
diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau.
Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là
hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực
kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm
và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem như là
chiến lược kinh doanh quan trọng của các doanh nghiệp.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện xuất
khẩu trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế ) của doanh nghiệp.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao đơn vị khối
lượng sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro cho tối thiểu hóa sự giao động của nhu cầu.
Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước
vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về
nhu cầu hàng hóa, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất giá
cả và xu hướng biến động của nó. Những điều này phải luôn trở thành nếp
thường xuyên trong tư duy của mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu, để có thể nắm
bắt được các cơ hội kinh doanh trong thương mại quốc tế.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu phát triển chắc chắn sẽ góp phần to lớn
trong sự đi lên của đất nước hội nhập vững chắc vào nền kinh tế thế giới.
1.1.1.2. Vai trò hoạt động xuất khẩu cà phê:

1.1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung:
Với xu thế ngày nay trong sự khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường và
nền kinh tế thế giới cũng không ổn định. Một đất nước có được thiên nhiên ưu
đãi đến đâu đi nữa nhưng nếu không hội nhập vào thương mại quốc tế thì nền
kinh tế tự cung tự cấp đó sẽ bị kiệt quệ, yếu kém, không tài nào có thể vực
dậy được, không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc tế và sẽ bị
tụt hậu. Đại hội VI TW Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã
nhận thức một cách sâu sắc là: “ Chỉ có mở rộng ngoại thương, hội nhập
thương mại quốc tế mới cho phép chúng ta đánh giá đúng khả năng, trình độ,
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam”. Vì vậy, xuất khẩu đóng một vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu cà phê cũng là sự đóng
góp không nhỏ góp phần vào hoạt động của Việt Nam.
- Xuất khẩu cà phê tạo nguồn vốn không nhỏ cho nhập khẩu thiết bị, công
nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu,
chậm phát triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa đòi hỏi phải có một số
lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến. Thực tế
cho thấy, để có nguồn vốn, một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động
chính như sau:
+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ.
+ Thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước.
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu.
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận
được, song việc huy động chúng không phải là dễ dàng. Sử dụng nguồn vốn
này, các nước đi vay thường phải chịu thiệt thòi, phải chịu sự o ép và sẽ phải
trả những khoản nợ sau này.
Thực tế, trong những năm qua xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã mang
lại hàng trăm triệu USD cho đất nước. Một phần của lượng tiền này được đầu
tư vào quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, phần còn lại được

đầu tư tiếp cho quá trình tái sản xuất cà phê.Vì vậy, xuất khẩu là nguồn vốn
quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy
mô, tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. Ở một số nước, một trong
những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm
năng về vốn do đó nguồn vốn từ bên ngoài được coi là nguồn chủ yếu, song
mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu
tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn
duy nhất để trả nợ thành hiện thực.
- Xuất khẩu cà phê thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế
giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng
nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất
về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động nhờ ở sự thừa ra của sản xuất
thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó
các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.Thực tế trong những năm vừa
qua thì số lượng sản xuất ra không những phục vụ nhu cầu trong nước mà còn
xuất khẩu và đứng thứ hai thế giới sau Brasil về xuất khẩu cà phê.
Thứ hai coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất
khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc
đẩy sản xuất thể hiện:
- Xuất khẩu cà phê tạo điều kiện cho các ngành cùng cơ hội phát triển :
chẳng hạn khi sản xuất cà phê xuất khẩu phát triển thì nó cần rất nhiều sự hỗ
trợ của các ngành khác như: công nghiệp chế tạo máy móc, công nghiệp điện,
giao thông vận tải và nó cũng cũng đòi hỏi chính sự phát triển của các ngành
này.
- Xuất khẩu cà phê tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm cà phê góp

phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô.
- Xuất khẩu cà phê tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho
sản xuất cà phê, tăng thêm về nguồn nguyên liệu cho sản xuất và chế biến mở
rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Ngoại thương cho phép một nước
có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần giới hạn
sản xuất của quốc gia đó.
- Xuất khẩu cà phê có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa tăng cường hiệu
quả sản xuất cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nó cho phép
chuyên môn hóa sản xuất cà phê cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày nay,
đối với việc sản xuất những sản phẩm công nghệ cao thì mỗi một loại sản
phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ
hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở
nước thứ năm. Như vậy, Hàng hóa sản xuất ra ở một nước và tiêu thụ ở nhiều
nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối
với việc chuyên môn hóa sản xuất, tạo điều kiện cho chuyên môn hóa sâu.
Đối với việc sản xuất cà phê xuất khẩu ở Việt Nam để đạt được hiệu quả kinh
tế cao thì cần có sự chuyên môn hóa không những về mặt sản xuất mà còn
phải chuyên môn hóa về thương mại cho mặt hàng cà phê.
Xuất khẩu cà phê góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Đặc
biệt là đối với Việt Nam một nước đang phát triển đồng tiền khôngcó khả
năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng
trong việc điều hòa về cung cầu ngoại tệ, ổn định sản xuất qua đó góp phần
vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Xuất khẩu cà phê có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm, xóa đói nghèo cải thiện đời sống nhân dân.
Sau 27 năm được nhà nước quan tâm, vườn cà phê của ta đã không ngừng
chiếm vị trí quan trọng trong ngành sản xuất nông nghiệp nước nhà. Việc
trồng cà phê phát triển với tốc độ nhanh nhất là từ sau 1990 trở đi, sản lượng
cà phê tăng nhanh, sản xuất và chế biến cà phê đã thu hút trên 600 ngàn lao
động, những tháng thời vụ có thể thu hút đến hàng triệu lao động ngoài ra còn

có hàng ngàn công lao động được đào tạo cho chế biến các loại sản phẩm cà
phê như: cà phê sữa, cà phê hòa tan, bánh kẹo có sử dụng cà phê. Sản xuất cà
phê được tập trung nhiều ở các hộ gia đình riêng lẻ, sản phẩm chế biến của
nông dân chiếm 80% vì thế việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động trong lĩch vực nông nghiệp, nông thôn tăng lên, nâng cao tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động của lao động nông nghiệp của cả nước từ 74,2 % năm 2000
lên 80% năm 2005, đồng thời tạo điều kiện về vốn qua các hinh thức tín dụng
cho các hộ dân nghèo có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất, tăng thu
nhập.
- Xuất khẩu cà phê là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển của các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có mối tác động qua lại
phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu cà phê là một hoạt đông chủ yếu cơ
bản là hình thức ban đầu cuả kinh tế đối ngoại từ đó nó thúc đẩy các mối quan
hệ khác phát triển theo như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc
tế ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề
cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Xuất khẩu nói riêng và ngoại thương nói chung dẫn tới sự thay đổi của
của những loại hàng hóa có thể tiêu dùng được trong nền kinh tế bằng hai
cách:
+ Cho phép khối lượng hàng khác với số hàng hóa được sản xuất ra
+ Cho phép một sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm cho phù
hợp với các đặc điểm cho sản xuất.
Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác
động của xuất khẩu đối với các quốc gia này không giống nhau.
- Xuất khẩu cà phê góp phần tăng GNP, GDP: Thật vậy, năm 2001 sản
lưọng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 931 nghìn tấn, với kinh ngạch 400,6
triệu USD, năm 2002 xuất khẩu 722 nghìn tấn đạt 323,4 triệu USD, năm 2003
xuất khẩu 749 nghìn tấn đạt 458 triệu USD, năm 2004 xuất khẩu 975 nghìn
tấn đạt 594 triệu USD kế hoạch năm 2005 xuất khẩu đạt 900 nghìn tấn

Trong 5 năm 2001 – 2005, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được được khả
năng tăng trường khá nhanh và tương đối bền vững, tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân năm năm ước gần 7,5 % năm đạt xấp xỉ so với mục tiêu đề ra trong
kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 trong đó ngành cà phê đóng góp không nhỏ về
kinh ngạch cho đất nước.
1.1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê:
Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng
chung của tất cả các quốc gia nói chung và của doanh nghiệp nói riêng, việc
xuất khẩu cà phê đã mang lại cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê
rất nhiều lợi ích như:
- Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê
trong nước có cơ hội tham gia vào các cuộc cạch tranh trên thị trường cà phê
thế giới về giá cả và chất lượng cà phê. Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất của mình phù hợp với thị trường
thế giới. Do đó, đòi hỏi tự nâng cao năng lực và trình độ sản xuất và kinh
doanh của mình để tạo ra những sản phẩm cà phê có chất lượng cao phù hợp
với nhu cầu của thị trường.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh cà phê mở rộng
thị trường mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và ngoài
nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi tăng doanh số với lợi nhuận đồng thời
phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy
tín kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác
quản trị kinh doanh, luôn tìm tòi và đưa ra mô hình sản xuất chế biến, tổ chức
tiêu thụ sao cho có hiệu quả nhất. Thêm vào đó, hoạt động xuất khẩu còn
khuyến khích sự phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp,
chẳng hạn như hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản
xuất, marketing và sự phân phối, sự mở rộng trong việc cấp giấy phép xuất
nhập khẩu các mặt hàng khác.
- Sản xuất và kinh doanh cà phê giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều

lao động tạo ra thu nhập ổn định, thu được nguồn ngoại tệ tạo cơ sở về vấn đề
nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, trang bị công nghệ dây chuyền máy móc hiện
đại để phục vụ cho ngành cà phê, vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của của nhân dân và thu được ngoại tệ để phục vụ cho quá trình tái đầu tư.
- Xuất khẩu kinh doanh cà phê tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp như
mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài có thể
thông qua đối tác tiêu thụ cà phê của mình mà doanh nghiệp có được những
thông tin, nguồn sản phẩm mới, công nghệ mới mà ngay thị trường trong
nước đang cần.
* Thông qua hoật động xuất khẩu doanh nghiệp có được cơ hội và điều kiện
để liên doanh liên kết hợp tác để sản xuất, tiêu thụ những loại sản phẩm mới
ngay tại nước mình hoặc các nước khác.
Ngoài ra việc xuất khẩu mặt hàng cà phê ra thị trường quốc tế còn giúp
ngành cà phê hiểu, xác định được mình nên chú trọng vào loại cà phê nào, cần
nâng cao chất lượng, chủng loại, mãu mã, bao bì và giá cả hạ cho phù hợp với
thị hiếu của thị trường quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
1.1.2. Các nhân tố cơ bản tác động tới kinh doanh xuất khẩu cà phê của Việt
Nam :
Thị trường tiêu thụ cà phê là nơi diễn ra hoạt động mua bán nông sản
phẩm, là khâu trung gian nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Cho nên hoạt động
kinh doanh xuất khẩu cà phê chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong giai đoạn
lưu thông, tiêu dùng. Tác động tới kinh doanh xuất khẩu cà phê có nhiều nhân
tố khác nhau, đứng trên góc độ doanh nghiệp chúng ta có thể phân loại các
nhân tố theo hai nhóm cơ bản sau:
1.1.2.1. Nhóm nhân tố bên trong:
* Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính:
Trong kinh doanh, nếu không có vốn thì doanh nghiệp sẽ không bán được
gì cả khi đã có cơ hội kinh doanh. Có vốn giúp doanh nghiệp thực hiện các
hoạt động kinh doanh một cách dễ dàng hơn, có điều kiện tận dụng các cơ hội
để thu được lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Đặc biệt, Mặt hàng cà phê là

mặt hàng nông sản nếu doanh nghiệp có vốn lớn sẽ có điều kiện mua hàng tại
thời điểm có lợi nhất với giá rẻ nhất và sẽ xuất bán khi nhu cầu của khách
hàng tăng lên. Sự trường vốn tạo ra khả năng nắm bắt thông tin nhanh chóng
hơn, chính xác hơn do có điều kiện sử dụng các thông tin hiện đại. Ngoài ra,
Nó còn cho phép các doanh nghiệp thực hiện các công cụ marketing quốc tế
trên thị trường về giá cả, cách thức phân phối, họat động quảng cáo và xúc
tiến bán hàng, do vậy mà tạo ra điều kiện xuất khẩu được nhiều hơn.
* Nhân tố con người:
Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê là yếu tố cơ bản quyết định sự
thành công trong kinh doanh. Xét về tiềm lực doanh nghiệp thì con người là
vốn quý nhất đánh giá sức mạnh của doanh nghiệp đó như thế nào. Trong
hoạt động xuất nhập khẩu từ khâu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nguồn
hàng, khách hàng, đến công tác giao dịch kí kết hợp đồng, thực hiện hợp
đồng. Nếu thực hiện bởi những cán bộ nhanh nhẹn, trình độ chuyên môn cao
và lại có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao, hoạt động xuất
khẩu cũng sẽ được tiến hành một cách liên tục và xuôn sẻ. Nếu các yếu tố trên
không được đáp ứng thì mọi cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tốt thế
nào đi chăng nữa cũng bị đổ bể và sẽ gây ra những đổ vỡ lớn cho doanh
nghiệp đó.
* Nhân tố về bộ máy quản lý, tổ chức điều hành:
Trong hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý con người là rất quan
trọng, một hệ thống quản lý hợp lý sẽ giúp các nhà lãnh đạo sử dụng tốt hơn
nguồn lực của doanh nghiệp. Nếu một bộ máy quản lý cồng kềnh, bất hợp lý
sẽ dẫn tới hiệu quả hoạt động kém, chi phí cho quản lý lớn làm giảm lợi
nhuận.
Căn cứ trên tình hình thực tế hiện nay, các doanh nghiệp đang ngày càng
có xu hướng giảm bớt các bộ phận không cần thiết, gộp những phòng có chức
năng tương tự vào với nhau, giảm thiểu những khâu chi phí không cần thiết
trong giao dịch.

Như vậy, việc tổ chức bộ máy hành chính là một yếu tố không kém phần
quan trọng góp phần thúc đẩy hay hạn chế việc kinh doanh nói chung của
doanh nghiệp cũng như hoạt động xuất khẩu nói riêng.
* Tiềm năng và lợi thế bên trong của doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩch vực sản xuất kinh doanh
cà phê đã lâu, bao giờ cũng có nhiều lợi thế nhất định so với những doanh
nghiệp mới hoặc bắt đầu tham gia vào thị trường cà phê, đó là:
- Về mặt kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm kinh doanh mặt hàng cà
phê, thông qua những bài học mà học có thể trải qua.
- Số lượng khách hàng mà họ có quan hệ từ trước tới nay, các doanh
nghiệp này chỉ việc duy trì các khách hàng cũ và mở rộng những khách hàng
mới.
- Hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường, mức độ chi phối thị trường.
- Có thể có những ưu tiên từ phía nhà nước.
1.1.2.2. Nhóm nhân tố bên ngoài:
Bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng đều phải chịu ảnh hưởng sâu
sắc của môi trường kinh doanh từ hai hướng tích cực và tiêu cực. Đối với họat
động kinh doanh xuất khẩu thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh là mạnh
mẽ hơn, bởi vì có các yếu tố quốc tế tác động vào nhất là khi Việt Nam ra
nhập WTO, chúng ta phải cam kết giảm các loại thuế, mở cửa thị trường và
xóa bỏ hỗ trợ cho xuất khẩu.
* Việc Việt Nam gia nhập WTO về cơ bản đồng nghĩa với việc các doanh
nghiệp Việt Nam bước vào một sân rất rộng với vô số luật lệ vừa đa dạng,
vừa phức tạp. Cái khó không những ở chỗ phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam chưa nắm và hiểu hết những luật lệ này là gì, ở những lĩnh vực nào mà
còn ở chỗ dù Việt Nam đã có cố gắng đến mức tối đa trong việc bổ xung,
hòan thiện hệ thống pháp luật về thương mại để có thể gia nhập WTO, nhưng
cũng phải thừa nhận rằng pháp luật của chúng ta còn thiếu nhiều định chế và
một số định chế chưa tương thích với pháp luật quốc tế.
- Thuế quan: Trong lĩnh vực hoạt động xuất khẩu trước đây Việt Nam

chưa gia nhập WTO, việc đánh thuế xuất khẩu làm tăng tương đối mức giá cả
hàng xuất khẩu so với giá cả thế giới nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh
doanh trong nước. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã gia nhập WTO chúng ta phải
tuân thủ các cam kết mà WTO quy định với các thành viên, bên cạnh đó mỗi
thành viên cũng được hưởng lợi khi vào WTO cụ thể:
+ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 với mục đích bãi bỏ
hàng rào phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa nhằm hạn chế số lượng
như giấy phép, hạn ngạch, đặc biệt đối với hàng nông sản. Những quy định
trong hiệp định này là có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng là điều mà các nhà sản xuất hàng
nông sản phải lưu ý khi đương đầu với hàng nông sản nước ngoài nhất là các
nước thành viên WTO có tiềm năng về hàng nông sản xuất khẩu sang Việt
Nam.
- Hiệp định về hàng rào kỹ thuật: Hiệp định này cho phép các nước thành
viên có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe, môi sinh,
môi trường. Dù hiệp định đã đưa ra những nguyên tắc và tiêu chuẩn kỹ thuật
nhằm tránh lạm dụng những biện pháp này để tạo ra những rào cản thương
mại ( phi thuế) bất hợp lý, nhưng trên thực tế không ít nước đã đặt ra những
rào cản kỹ thuật chưa thực sự công bằng và minh bạch nhằm hạn chế nhập
khẩu đối với một số hàng hóa nhất định trong bối cảnh mà họ cho là cần thiết.
Các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam cần hết sức lưu ý
về những biện pháp loại này khi xuất khẩu hàng của mình sang một thị trường
cụ thể nào đó. Nếu không dễ rơi vào tình trạng tiền mất tật mang.
- Hiệp định về chống trợ cấp: hiệp định này đề ra các biện pháp bảo hộ
hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất trong nước khi có sự cạnh tranh không
lành mạnh (unfaircompition) của hàng hóa nhập khẩu mà những hành hóa này
được sản xuất có sự trợ cấp của chính phủ xuất khẩu. Ngoài các quy định về
chống trợ cấp trong hiệp định này, các nước có đạo luật riêng về chống trợ
cấp nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như Việt Nam có pháp lệnh chống trợ
cấp. Những dấu hiệu để xác định chống trợ cấp là: Có sự đóng góp về tài

chính của chính phủ hoặc của một tổ chức công, hỗ trợ thu nhập hoặc hỗ trợ
giá; quy định khối lượng trợ cấp dưới bất kỳ điều kiện nào. Điều đó cũng có
nghĩa là các nước thành viên WTO không được cấp hoặc duy trì những khoản
trợ cấp mà gây tác động xấu đến quyền lợi của các nước thành viên khác.
- Hiệp định về nông nghiệp: Hiệp định này nhằm tạo ra điều kiện ngày
càng thuận lợi đối với việc mua bán hàng hóa nông sản để ổn định và đảm
bảo sự an toàn của nền nông nghiệp của các nước xuất siêu cũng như các
nước nhập siêu hàng nông sản. Theo hiệp định để mở cửa thị trường hàng
nông sản thì phải dần loại bỏ các hình thức hạn chế nhập khẩu, nghĩa là ban
đầu các hình thức hạn chế định lượng nhập khẩu phải được chuyển sang hình
thức thuế quan, sau đó thuế quan phải được cắt giảm, và cuối cùng là các
hàng rào thương mại phi thuế quan (hạn chế khối lượng nhập khẩu các loại
phí áp đặt đối với nông sản nhập khẩu ) phải bị loại bỏ. Ngoài ra, hiệp định
cần quy định rằng trợ cấp xuất khẩu phải được cắt giảm kể cả về mặt giá trị và
quy mô.
Như vậy, Sau khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông
sản Việt Nam có cơ hội để mở rộng thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu .
Tuy nhiên, phải tránh việc dựa vào nhà nước để hưởng trợ cấp xuất khẩu mà
hậu quả khó lường trước được.
- Hiệp định về trị giá thuế hải quan:
• Xác định trị giá tính thuế theo tỷ giá giao dịch cho hàng hóa nhập khẩu.
Điều kiện để áp dụng phương pháp này là quyền định đoạt hàng của người
mua sau khi nhập khẩu, sau khi bán lại hàng, người mua không phải trả thêm
bất kỳ khoản nào từ số tiền bán lại.
• Xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng loại nhập khẩu.
• Xác định trị giá thuế theo trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
tương tự.
• Xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ, tức khấu trừ các chi phí
tiền hoa hồng, phí vận chuyển, bảo hiểm, thuế, thuế nội địa.
• Xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán, nghĩa là nếu không xác

định được trị giá tính thuế theo các cách trên thì áp dụng phương pháp này.
Trị giá này bao gồm: Chi phí để sản xuất hàng hóa ; lợi nhuận của việc sản
xuất hàng hóa; các chi phí có liên quan tới việc nhập khẩu như vận chuyển,
xếp dỡ hàng, phí bảo hiểm.
• Xác định trị giá tính thuế theo suy đoán hợp lý, đây là phương pháp
cuối cùng nếu không xác định được các phương pháp đã nêu.
- Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu:
Hiệp định này dựa trên một nguyên tắc cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là nhập khẩu; giảm thiểu các thủ tục, giấy
tờ không cần thiết gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động thương mại. Ưu điểm
nổi bật của hiệp định này là nó yêu cầu các nước thành viên buộc phải công
bố cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong nước và cả các
cơ quan chức năng liên quan đầy đủ thông tin về thủ tục cấp giấy nhập khẩu
để xác định cụ thể trách nhiệm của từng loại đối tượng. Doanh nghiệp cần lưu
ý là hệ thống cấp giấy phép gồm tự động và không tự động tùy thuộc vào việc
một chính phủ nước thành viên có chủ trương hạn chế hoặc không hạn chế
việc nhập khẩu một mặt hàng hoặc ngành hàng nhất định.
Như vậy việc gia nhập WTO đã chấm dứt cảnh một mình một chất. Một
trong những khó khăn mà các doanh nghiệp cuả Việt Nam phải đương đầu
khi khi trở thành thành viên của WTO là sự không tương thích của hàng loạt
các quy định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Những quy định này đã
làm cho doanh nghiệp phải quan tâm và có hướng phù hợp nhằm thích ứng
với nó như:
• Một mặt doanh nghiệp phải nỗ lực để tiếp cận với các tiêu chuẩn
quốc tế, mặt khác tốt hơn là đề ra bộ tiêu chuẩn của chính mình và hoàn thiện
nó bằng việc chắt lọc tinh túy các tiêu chuẩn quốc tế, áp dụng phù hợp với
năng lực của mình, rồi có bước đi phù hợp để nâng cao hiệu quả cạnh tranh
của doanh nghiệp mình.
• Những nhân tố thuộc về chế biến cà phê;
Đối với lĩnh vực sản xuất hàng nhập khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng

dụng công nghệ có tác dụng làm tăng hiệu quả của công tác này. Các thành
tựu khoa học kỹ thuật sẽ quý cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm
mới có chất lượng cao và mẫu mã đa dạng hơn. Điều này thấy rõ nhất là sự
phát triển của bưu chính, viễn thông, tin học và các đơn vị ngoại thương có
thể đàm phán, ký kết hợp đồng với các đối tác quan điện thoại, điện tín
giảm chi phí đi lại. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn tác động vào các
lĩnh vực như vận tải hàng hóa, bảo hiểm hàng hóa, kỹ thuật nghiệp vụ ngân
hàng Đó cũng là nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh
xuất khẩu.
Để tăng tính cạch tranh của sản phẩm cà phê trên thị trường thế giới thì
công nghệ là yếu tố không thể thiếu được. Công nghệ trồng trọt, thu hái, chế
biến hiện đại sẽ là tăng giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm. Đặc biệt là
ngành công nghiệp chế biến cà phê phát triển sẽ làm gia tăng các sản phẩm
xuất khẩu tinh thay thế hoàn toàn chiến lược xuất khẩu cà phê nhân. Tăng
xuất khẩu tinh vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động.
•Nhân tố thuộc về nguồn sản lượng cà phê:
Phát triển thị trường cà phê xuất khẩu phải gằn liền với khả năng đảm bảo
nguồn cà phê xuất khẩu ổn định đó là điều kiện cần và đủ để tồn tại và phát
triển nguồn cung cấp cà phê ở nước ta. Nếu nguồn sản lượng cung cấp không
ổn định sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn
trong việc thu gom hàng xuất khẩu, đặc biệt là mặt hàng cà phê phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường.
• Nhân tố văn hóa – xã hội:
Bao gồm, lối sống, trình độ giáo dục, các hình thức truyền thống, các
phong tục tập quán của một quốc gia và các quy tắc, tiêu chuẩn về đạo đức
luân lý Đây là những nhân tố có sự biến động rất lớn tác động mạnh mẽ tới
việc phát triển thị trường cho hàng cà phê. Hàng cà phê không chỉ đơn thuần
đáp ứng nhu cầu về thưởng thức, giải trí, nhu cầu nâng cao địa vị xã hội, đó là
giá trị văn hóa của sản phẩm cà phê. Mỗi quốc gia có một nền văn hóa khác

nhau, cho nên nhu cầu về hàng cà phê cũng khác nhau. Sự khác biệt đó ảnh
hưởng tới việc mở rộng thị trường tiêu thụ mặt hàng cà phê. Bên cạnh đó, dân
số và xu hướng vận động của dân số sẽ ảnh hưởng tới dung lượng thị trường.
Ngoài ra, việc mở rộng thị trường tiêu thụ còn bị ảnh hưởng bởi các
nhân tố thuộc về lợi thế so sánh. So với một số ngành khác, ngành cà phê là
ngành đòi hỏi đầu tư vốn ít và có mức lợi chắc chắn hơn, hơn nữa ngành cà
phê là ngành sử dụng nhiều lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động hạn chế những tiêu cực do thất nghiệp gây ra. Hàng cà
phê của Việt Nam có lợi thế hơn so với các ngành khác là do đầu tư vốn ít
nhưng thu hồi vốn nhanh và lôi cuốn được nhiều lao động. So với một số
nước trong khu vực, nước ta có lợi thế vượt trội ( Việt Nam trong vành đai
nhiệt đới Bắc bán cầu trải dài theo phương kinh tuyến từ 8
0
30’ đến 23
0
30’ vĩ
độ Bắc. Điều kiện khí hậu và địa lý rất thích hợp với việc phát triển cà phê đã
đem lại cho cà phê Việt Nam một hương vị rất riêng. Miền địa lý khí hậu phí
Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta (hay còn
gọi là cà phê vối). Miền khí hậu phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn
thích hợp với cà phê Arabica (hay còn gọi là cà phê chè). Đó là vùng chủ yếu
quy hoạch phát triển cà phê Arabica của Việt Nam. Nhân công của Việt Nam
cần cù, chịu khó, giá cả nhân công rẻ là yếu tố cấu thành hạ giá thành sản
phẩm cà phê, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cà phê trên thị
trường quốc tế)
Vì vậy, cần nhanh chóng tận dụng triệt để các lợi thế cũng như cơ hội
để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng cà phê của Việt Nam vào
các thị trường truyền thống và xâm nhập vào các thị trường tiềm năng khác.
1.1.3. Tác động của gia nhập WTO đối với xuất khẩu cà phê:
1.1.3.1. Giới thiệu khái quát về WTO :

* WTO là tổ chức thương mại thế giới được thành lập năm 1995 tiền thân
là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 gọi tắt là GATT
( General Agreement on Tariffs and Trade) bắt đầu chính thức có hiệu lực từ
năm 1948. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi hệ thống thuộc địa kiểu cũ
không còn thì Anh cùng một số nước lập ra một số loại hình tổ chức kinh tế
có tính quốc tế như: IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới),
ITO (Tổ chức thương mại quốc tế), GATT Nhằm gây ảnh hưởng và truyền
bá “giá trị phương tây”, chủ yếu là “ Giá trị Mĩ ”, trong điều kiện có hai thái
cực thế giới – Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. GATT được hình thành
dưới hình thức nhiều bên với 23 nước “nghị định thư”, sau gọi là “ Hiệp định
chung”, cho đến năm 1994 đã có 111 nước tham gia. Đến năm 1995 ra đời
WTO với tư cách là tổ chức kinh tế thế giới – có những điều lệ, quy định chặt
chẽ hơn, nói đúng hơn là bớt lỏng hơn GATT hoặc ITO trước kia. Hiện nay
đã có 150 nước tham gia ( Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO
-1/1/2007) có trụ sở ở Geneve - Thụy Sĩ, có chủ tịch và ban thư kí chuyên
trách, hiện có biên chế hơn 500 người. Những nước giàu thường có vài chục
người đại diện ở WTO, những nước nghèo thường ít hơn, thậm chí kiêm
nghiệm (làm cán bộ Đại sứ hoặc không có). Những thành viên có thực lực và
kinh nghiệm thương trường, theo đó có tiếng nói áp đảo trong WTO là Mỹ,
EU, Nhật Bản, Canada và nổi trội hơn cả vẫn là Mỹ.
Với sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu khi chủ nghĩa
xã hội không còn là một hệ thống chặt chẽ thì WTO trở thành công cụ cho
một thị trườg thế giới thống nhất của CNTB hiện đại. Mỹ đã biến WTO thành
một “câu lạc bộ kinh tế”, “một diễn đàn kinh tế”, một thương trường vô cùng
rộng lớn, chiếm 90% lượng hàng hóa lưu thông trên thế giới mặc nhiên hoạt
động theo quỹ đạo của các nước tư bản phát triển, giàu có nhất thế giới, đứng
đầu là Mỹ. Điều đó vừa nói lên rằng các nước đang phát triển và kém phát
triển không thể không tham gia vào WTO, đồng thời cũng nói lên rằng khi
tham gia vào WTO sẽ là một thách thức mà WTO quy định đối với mỗi thành
viên.

• WTO được tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo 5 nguyên tắc:
- Nguyên tắc thứ nhất: Thương mại không có sự phân biệt đối xử.
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nội dung:
+ Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác sự đối
xử không kém ưu đãi hơn so với sự đối xử mà thành viên đó dành cho sản
phẩm của một nước thứ ba (gọi là quy chế đãi ngộ tối huệ quốc – MFN)
+ Mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của công dân nước mình
sự đối sử ưu đãi hơn so với sản phẩm của người nước ngoài (gọi là quy chế
đãi ngộ quốc gia – NT)
- Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do hơn
thông qua đàm phán.
Nguyên tắc này của WTO nhằm đảm bảo thương mại giữa các quốc gia
ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp các hàng rào
thương mại để thúc đẩy buôn bán.
- Nguyên tắc thứ ba: Minh bạch hóa, ổn định và có thể dự báo được.
Nguyên tắc này nhằm ràng buộc các nước thành viên có nghĩa vụ đảm
bảo tính ổn định và có thể dự báo được trong thương mại quốc tế.
- Nguyên tắc thứ tư: Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình
đẳng.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh
tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho
một số doanh nghiệp nhất định.
- Nguyên tắc thứ năm: Dành cho các nước thành viên là nước đang phát
triển một số ưu đãi. Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép
các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số
quyền cũng như một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh
chính sách.
1.1.3.2. Các quy định của WTO về xuất khẩu hàng nông sản đối với các tổ
chức thành viên:
Trong thương mại thế giới, thương mại hàng nông sản phẩm là vấn đề rất

nhạy cảm, rất phức tạp, nó liên quan đến nhiều vấn đề như chiến lược an toàn
lương thực, nhân tố chính trị, môi trường địa lý và khí hậu, cơ cấu sản xuất,
việc làm, lợi ích xuất khẩu, nhân khẩu của một nước. Dựa trên những nguyên
nhân này, các nước trên thế giới đều đang thực hiện rất nhiều chính sách và
biện pháp, gây rối nghiêm trọng trật tự thương mại nông sản phẩm, trong
vòng đàm phán Uruguay, các bên kí kết đã đạt được “Hiệp định nông sản
phẩm” nên đã giải quyết vấn đề tự do hóa thương mại nông sản phẩm.
“ Hiệp định nông sản phẩm” gồm ba nội dung sau:
1.1.3.2.1.Mở rộng thị trường cho phép nhập:
Mở rộng thị trường cho phép nhập là xác định rõ, cắt giảm hoặc loại bỏ
về các biện pháp thuế quan và phi thuế quan gây trở ngại đi vào thị trường mà
các bên ký kết thực thi trong thương mại nông sản phẩm.
Cụ thể bao gồm:
- Thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan. Các biện pháp phi thuế
quan thực thi trong thương mại nông sản phẩm như hạn chế số lượng nhập
khẩu, các loại thuế chênh lệch giá nhập khẩu, giá nhập khẩu thống nhất cho
phép hạn chế hạn ngạch các bên thành viên cần phải trước hết chuyển đổi
thành những biện pháp, thuế quan có mức độ bảo hộ như nhau, sau đó giảm
dần tỷ suất thuế nhẩp khẩu. Cách làm cụ thể là, lấy giá trị trung bình các năm
từ năm 1986 – 1988 làm cơ sở căn cứ mức chênh lệch giá trong và ngoài,
chuyển hóa các loại biện pháp phi thuế quan thành thuế quan cùng hạn ngạch,
lại cộng thêm tỷ suất thuế quan bình thường hiện hành của sản phẩm chịu ảnh
hưởng của biện pháp phi thuế quan, tạo lên thuế quan hỗn hợp.
Nhưng thuế quan hóa của biện pháp phi thuế quan có 3 ngoại lệ:
+ Một là, biện pháp sử dụng để duy trì và cân bằng thanh toán quốc tế.
+ Hai là, biện pháp bảo vệ nói chung, căn cứ GATT năm 1994 hoặc các
hiệp định khác của WTO, đặc biệt là những biện pháp phi thuế quan có liên
quan đến nông nghiệp, không chịu sự ràng buộc thuế quan hóa.
+ Ba là, nếu một thành viên nào đó tự nguyện cam kết cung cấp tiêu
chuẩn cho phép vào thị trường thống nhất, thì có thể lựa chọn biện pháp tiếp

tục duy trì phi thuế quan.
- Cắt giảm thuế quan nhập khẩu nông sản phẩm. Các thành viên cần cam
kết dựa theo tỷ lệ phần trăm nhất định tiến hành cắt giảm thuế quan ràng
buộc. Thành viên các nước phát triển từ năm 1995 – 2001 cắt giảm bình quân
30% thuế quan nhập khẩu và đảm bảo tỷ lệ cắt giảm mỗi mục thuế không thấp
hơn 15%. Thành viên nước đang phát triển từ năm 1995 – 2005 cắt giảm bình
quân thuế quan nhập khẩu 24 %, và đảm bảo mỗi năm tỷ lệ cắt giảm mỗi hạng
mục thuế không thấp hơn 10%. Mỗi năm cắt giảm với số lượng bằng nhau.
Nếu sản phẩm không chịu sự hạn chế biện pháp phi thuế quan, việc cắt giảm
thuế quan của sản phẩm lấy mức thuế quan ràng buộc làm cơ sở để tính toán.
Nếu thuế quan không bị ràng buộc thì cắt giảm thuế quan lấy mức thuế quan
ngày 1 tháng 9 năm năm 1986 làm cơ sở, các nước chậm phát triển mặc dù
cũng đặt sự ràng buộc mức cao nhất của thuế quan của họ, nhưng không có
nghĩa vụ cắt giảm thuế quan tương quan.
- Hạn ngạch thuế quan sau khi thuế quan hóa biện pháp phi thuế quan. Có
loại thuế quan vẫn ở mức rất cao, nó cũng sẽ gây trở ngại cho sự phát triển
thương mại nông sản phẩm. “Hiệp định nông sản phẩm” quy định, đối với
thuế quan hóa thực hiện quota thuế quan để quản lý. Thành viên thực hiện
quota thuế quan cần phải cam kết số lượng cho nhập quota thuế quan hàng
năm. Nhập khẩu vượt quá lượng cho phép nhập, thu thuế quan theo tỷ suất
thuế của thuế quan hóa.
Lượng cho phép nhập hạn ngạch thuế quan cần ít nhất duy trì mức cho
phép nhập của thị trường thực tế hiện hành tức không thấp hơn lượng nhập
khẩu bình quan 3 năm gần đây nhất nếu lượng nhập khẩu này không đạt được
3% lượng tiêu dùng bình quân năm gần đây ở trong nước thì cần xác định
lượng hạn ngạch là 3% và cam kết tăng số lượng nhất định, đến cuối thời kỳ
thực hiện đạt 5%. Lượng cho phép nhập hạn ngạch thuế quan nói ở đây chỉ là
cơ hội cho phép nhập của thị trường không phải là nghĩa vụ mua thấp nhất.
Cũng có nghĩa là nếu thành viên cam kết cho phép nhập hạn ngạch là 10 triệu
T, kôg có nghĩa là lượng nhập khẩu thực tế của thành viên này cần phải đạt

đến 10 triệu T. Nếu thị trường trong nước không có nhu cầu, thành viên này
thậm chí hoàn toàn có thể không.
- Biện pháp thủ vệ đặc thù, sau khi thuế quan hóa biện pháp phi thuế quan
của nông sản phẩm, nếu nhập khẩu tăng rất mạnh và gây ảnh hưởng khá
nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước, thành viên WTO có thể sử
dụng điều khoản tự vệ của “GATT năm 1994”, biện pháp tự vệ đặc thù được
quy tính trong “Hiệp định về biện pháp tự vệ” và “Hiệp định nông sản phẩm”
để bảo hộ lợi ích bản thân mình. Nhưng chỉ chọn một trong những biện pháp
đã được quy định trong hiệp định trên không thể đồng thời sử dụng cả hai.
Hai nữa, các thành viên khi vận dụng biện pháp tự vệ đặc thù cần báo trước
hoặc trong mười ngày khi sử dụng hành động, thông báo cho Ủy ban nông
nghiệp WTO, và cần tạo cơ hội bàn bạc với thành viên có quan hệ lợi và hại.
1.1.3.2.2. Cắt bỏ trợ giá sản xuất nông sản phẩm:
“ Hiệp định nông sản phẩm” phân chia sự trợ giá sản xuất đối với nông
sản phẩm làm hai loại lớn là trợ giá đèn xanh và trợ giá đèn vàng và quy định
tương đối tỉ mỉ pạhm vi mỗi loại.
- Trợ giá đèn xanh là chỉ không có cung cấp sự giúp đỡ giá cả đối với
người sản xuất, không có trợ giá hoặc chỉ trợ giá một ít đối với thương mại
nông sản phẩm, chủ yếu gồm:
+ Một là, Quỹ cộng đồng hoặc chi ngân sách cung cấp dịch vụ sản xuất
nông nghiệp chung chung. Bao gồm nghiên cứu hạng mục môi trường và
nghiên cấm sản phẩm đặc biệt, kiểm soát sâu bọ phá hoại, việc bồi dưỡng
nhân viên khoa học kĩ thuật nông nghiệp và thao tác sản xuất, phổ biến kĩ
thuật và dịch vụ tư vấn, dịch vụ giám định, dịch vụ thúc đẩy bán trên thị
trường, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp.
+ Hai là, chi phí cất giữ để bảo đảm sự cung cấp thực phẩm.
+ Ba là, trợ giá viện trợ thực phẩm và trợ giá hộ gia đình riêng.
+ Bốn là, trợ giá bảo đảm sự thu nhập nông nghiệp nói chung. Loại trợ
giá này cần phải phù hợp các tiêu chuẩn sau đây.
Số thiệt hại về thu nhập của người sản xuất được trợ giá cần phải cao hơn

30% thu nhập bình quân toàn thể người sản xuất nông nghiệp, hoặc sự thiệt
hại này cao hơn 30% thu nhập bình quân hàng năm bình thường của họ, trợ
giá có liên quan cần nhằm giúp đỡ giảm bớt thu nhập này, không nhằm vào
sản xuất và sản lượng tổng số trợ giá cần phải ít hơn 100% thiệt hại thu nhập.

×