Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Thực trạng dự báo vốn khả dụng hằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.75 KB, 9 trang )


Năm 2006
Ảnh hưởng của vốn khả dụng đến lãi suất:
Trong năm 2006 mặc dù vốn khả dụng của hầu hết các ngân hàng dư thừa nhưng
lãi suất vẫn có xu hướng tăng.
Vụ Chính sách tiền tệ cho biết mức dư thừa vốn khả dụng của các tổ
chức tín dụng trong quý I/2006 cao hơn so với cùng kỳ năm 2005; trong đó tập
trung ở khối ngân hàng thương mại nhà nước. Và nhìn chung, khối các
ngân hàng cổ phần, liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vốn khả
dụng dư thừa ở mức thấp hoặc tương đối cân bằng.
Trong khi đó, lãi suất cả USD và VND vẫn tăng khá đều. Lãi suất đầu
vào và đầu ra bằng VND đều có xu hướng tăng khoảng 0,03%/tháng trog
5 tháng đầu năm; lãi suất USD cũng đã lên đến 5%/năm (kỳ hạn 12 tháng)
thay cho mức 4,5%/năm hồi đầu năm.
Nguyên nhân làm cho lãi suất tăng:
- Thứ nhất: là tác động của lãi suất trên thị trường quốc tế liên tục tăng. ♣
Chỉ tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2006, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã
3 lần tăng lãi suất, từ mức 4,25% lên 5%/năm. Lãi suất quốc tế tăng, đã làm lãi
suất huy động ngoại tệ trong nước tăng theo. Và để đảm bảo cân đối nguồn vốn
giữa VND và ngoại tệ, khi lãi suất ngoại tệ tăng thì lãi suất VND cũng
tăng tương ứng.
- Thứ hai: là mặc dù vốn khả dụng dư thừa, nhưng không đồng đều ở ♣
tất cả các ngân hàng. Một số ngân hàng cổ phần vẫn có thời điểm thiếu vốn tạm
thời và phải vay cầm cố từ Ngân hàng Nhà nước. Thêm vào đó, hoạt động trên
thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển nên đồng vốn không được luân
chuyển từ ngân hàng thừa vốn đến ngân hàng thiếu vốn. Vì vậy vốn dư thừa vẫn
bị đọng ở một số ngân hàng trong khi những ngân hàng thiếu vốn vẫn phải tăng
cường huy động từ nền kinh tế bằng mức lãi suất hấp dẫn Do đó, nhìn chung
toàn hệ thống có dư thừa vốn nhưng lãi suất vẫn có xu hướng tăng.
Theo nhận định của Phòng Chính sách tiền tệ và Quản lý vốn khả
dụng, lãi suất trong thời gian năm 2006 đã tăng trái quy luật.


Lý giải về nhận định trên, Phòng Chính sách tiền tệ và Quản lý vốn
khả dụng đưa ra một số phân tích sau:
Trước hết, vốn khả dụng dư thừa trong khi lãi suất vẫn tăng là một bất
bình thường. Chỉ số giá tiêu dùng tính theo năm của tháng 1\2006 là 8,8%, tháng
2\2006 là 8,4%, tháng 3\2006 là 7,7% và tháng 4\2006 là 7,4% đều giảm nhưng
lãi suất vẫn tăng.
Các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước như lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu vẫn ổn định kể từ đầu năm; thậm chí
lãi suất nghiệp vụ thị trường mở liên tục giảm từ mức 6,4 - 6,85%/năm đầu năm
xuống còn 1,9 - 4,4%/năm vào cuối tháng 5/2006.
Một trái ngược đáng chú ý khác là trong quý I/2006, giá chứng khoán
tăng mạnh, VNIndex liên tục phá kỷ lục nhưng lãi suất vẫn có xu hướng tăng. Về
lý thuyết, khi giá chứng khoán tăng làm cầu về chứng khoán tăng,
cầu tiền tệ giảm sẽ làm giảm lãi suất. Nhưng diễn biến trên thực tế lại cho thấy
thêm một sự trái ngược. Điều này là do tác động của lãi suất trên thị trườ
ng quốc tế, do sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng thương mại trong khi
thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển.
Vụ Chính sách tiền tệ cũng đưa ra khuyến cáo “các ngân hàng thương
mại, nhất là các ngân hàng lớn, cần nhìn nhận lại việc điều hành vốn và lãi suất.
Về lâu dài, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tiền tệ, làm
cho nguồn vốn được hoạt động thông suốt để tránh hiện tượng vốn thừa ở một số
ngân hàng nhưng lãi suất vẫn tăng”.
Năm 2007

Tình hình vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trong 10
tháng đầu năm 2007 dư thừa nên lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu
hướng giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006. Nhưng đến Tuần đầu của nửa
cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng tăng đột biến ở một
vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-
12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước giảm với nguyên nhân

chủ yếu là các tổ chức kinh tế và KBNN rút tiền gửi thanh toán. Để ổn
định thị trường nội tệ liên ngân hàng và tránh tác động làm tăng mặt
bằng lãi suất thị trường, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có
giá với kỳ hạn 7 ngày trên nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các TCTD. Từ
ngày 3/12 đến cuối năm, NHNN thực hiện chào mua giấy tờ có giá theo phương
thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở mức 8% nhằm hạn chế
tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị trường, gây tâm lý p
hản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của NHNN. Vì vậy, đến
nay tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản được khắc phục, lãi
suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu hướng giảm khoả
ng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007.
- Lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc có xu hướng tăng so với
cuối năm 2006, mức tăng khoảng 1,3%/năm. Hiện nay, lãi suất trúng thầu
tín phiếu Kho bạc kỳ hạn 364 ngày là 4,%/năm.

Năm 2008
Tình trạng vốn khả dụng năm 2008
Cuối năm 2007 và đầu năm 2008, khu vực ngân hàng rơi vào trong tình
trạng thiếu vốn khả dụng VND nghiêm trọng. Theo báo giới tình trạng vốn khả
dụng trên thị trường liên ngân hàng "căng như dây đàn", lãi suất qua đêm trên thị
trường liên ngân hàng đã lên trên 30%/năm (cuối tháng 1 đầu tháng 2/2008) là
mức kỷ lục của lịch sử tiền tệ Việt Nam (trong khi 21/11/2007 đạt mức 17%).
Thiếu vốn khả dụng, nhiều ngân hàng dường như đã ngừng cho vay hay từ chối
cho vay (với đủ các lý do khác nhau). Mặt bằng lãi suất cao mới có thể nói là đã
được thiết lập đang là tín hiệu tiếp theo về sự khó khăn đối với các DN vay vốn
ngân hàng (chi phí đầu vào sẽ tăng) Khi lãi suất tăng cao, DN thu hẹp sản xuất
thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP) khó có thể đạt được vào cuối năm 2008,
ngoài ra mục tiêu kiềm chế lạm phát cũng có thể đạt được.
Trong đầu năm 2008 cung - cầu vốn tại một số ngân hàng thương mại nhà
nước trở nên khó khăn hơn trước từ sau Tết Nguyên Đán. Tại một trong số này,

tổng lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã giảm tới 7.000 tỷ đồng tính từ đầu
năm.Nhiều khách hàng doanh nghiệp hạn chế tối đa vay vốn ngân hàng mà
chỉ sử dụng vốn tự có. Xu hướng này vẫn đang tiếp diễn và thực sự là
tín hiệu đáng ngại!Lượng vốn mà ngân hàng này đã giải ngân từ đầu năm
2008 đã lêntới 5.000 tỷ đồng. Với cơ chế cho vay vốn có ưu đãi của Chính phủ, c
ác ngân hàng đanggiải ngân khá nhanh. Chỉ sau hai tháng, 93.000 tỷ đồng
đã được đưa ra thị trường.
Nhưng trong khoảng tháng 2 hai và tháng 3 lượng vốn khả dụng của các
ngân hàng thương mại bắt đầu có dấu hiệu dư thừa, từ 30.000 tỷ đồng lên 40.000
tỷ đồng và gần đây là khoảng 50.000 tỷ đồng.
Ngoài 50.000 tỷ đồng nói trên, lượng vốn khả dụng của các ngân hàng
còn được tiếp thêm từ 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc giải phóng trước hạn.
Đến thời điểm này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm theo các mốc kỳ hạn
và loại tiền gửi khác nhau, nhưng căn theo mức tăng 10,71% huy động vốn so
với cuối năm 2007 tính đến hết tháng 9 vừa qua, lượng tiền được giải phóng theo
chính sách trên có thể tính từ 10.000 - 12.000 tỷ đồng; trong đó mỗi ngân hàng
lớn như Vietcombank, BIDV, Vietinbank có thể được trả lại từ 1.000 - 1.500 tỷ
đồng; những ngân hàng cổ phần lớn như Sacombank, ACB có thể được nhận về
khoảng 560 – 600 tỷ đồng.
Tính chung, lượng vốn khả dụng dư thừa thời gian tới của các ngân hàng
thương mại có thể lên tới trên con số 100.000 tỷ đồng. Đây cũng là sự sung sức
chưa từng có kể từ đầu năm 2008.
Điểm đáng chú ý là cũng chỉ trong khoảng 2 tháng đầu năm (tháng 2 và 3,
lượng tiền mà Ngân hàng Nhà nước “rút” của các ngân hàng thương mại
thông qua tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và phát hành tín phiếu bắt buộc ước tính lên
đến khoảng 40.000 tỷ đồng.
Nhìn lại, có thể thấy chính sách “rút” và “bơm” tiền của Ngân hàng Nhà
nước nói trên đã “đảo chiều”. Vấn đề còn lại là các ngân hàng thương mại sẽ ứn
xử thế nào với lượng vốn khoảng 100.000 tỷ đồng đó, cửa cho vay có rộng mở
hơn với các doanh nghiệp hay không

Ảnh hưởng của việc thiếu vồn khả dụng làm tăng lãi suất đối
làm cho tổ chức và cá nhân vay vốn gặp khó khăn:
Thị trường liên ngân hàng tiếp tục dư cung vốn khả dụng; lãi suất thị
trường liên ngân hàng qua đêm từ 8 ,8,5%/năm, giảm 0,5%/năm so với
ngày 19/11; lãi suất đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước kỳ hạn 364 ngày giảm
từ 10,5%/năm xuống 9,88%/năm.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) đồng tình và ủng hộ các giải
pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và cho rằng việc điều chỉnh các cô
ng cụ chính sách tiền tệ là cần thiết và định hướng rõ ràng về giảm lãi suất, tăng
khả năng cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ sản xuất khắc phục khó khăn
trong sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, phản ứng tức thì của các ngân hàng là khác nhau trước quyết
định này. Cùng với việc công bố giảm ngay mức lãi suất bằng VND từ
ngày 20/11, các ngân hàng lớn như Ngoại thương Việt Nam, Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Đầu tư và Phát triển Việt Nam… đã đưa ra các mức lãi
suất cho vay ưu tiên cho các đối tượng khác nhau, trong đó mức cho vay
thấp nhất đã xuống còn 12%/năm.
Mặc dù những ngày sau đó số lượng các khoản đi vay đã giảm đáng kể so
với ngày đầu tiên giảm lãi suất huy động vốn song, đáng tiếc là trong khi nhiều
NH thương mại cổ phần (TMCP) đưa ra các mức lãi suất cho vay khá hợp lý, thì
các NH TMNN lại cho vay với lãi suất cao, nên nhiều doanh nghiệp (DN) đang
gặp không ít khó khăn.
Vẫn biết chính sách này đã bãi bỏ từ năm 1998, nhưng ở thời điểm này,
nếu một chính sách tương tự được đưa ra nhằm kiểm soát lãi suất cho vay, trước
mắt sẽ gỡ rối cho nhiều DN vay vốn.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà việc vay vốn sẽ dễ dàng hơn, trong điều
kiện lượng vốn huy động hạn chế, các NH sẽ rất thận trọng trong việc lựa chọn
khách hàng để cho vay. Một hướng đi đúng trong việc góp phần kiềm chế lạm
phát hiện nay chính là việc ưu tiên cho tín dụng sản xuất và đầu tư, đồng thời thu
hẹp tín dụng tiêu dùng.

Năm 2009
Trong những tháng đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều
hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng một cách thận
trọng; tổng phương tiện thanh toán, tín dụng đối với nền kinh tế tăng phù hợp với
chủ trương kích cầu của Chính phủ; các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ
vững, giá cả và thị trường tiền tệ tương đối ổn định, khả năng thanh toán của các
tổ chức tín dụng được đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, tín dụng có xu hướng tăng
cao hơn khả năng huy động vốn, vốn khả dụng của một số tổ chức tín dụng
Nhờ có những chính sách điều tiết của NHNN mà đến giữa năm vốn khả
dụng của các NHTM trong cả nước đều đảm bảo dự trữ bắt buộc và an toàn
thanh toán.Trong khi đó, nguồn vốn hỗ trợ lãi suất đi vào sản xuất thông qua hệ
thống các NHTM tiếp tục tăng mạnh. Chỉ sau một tuần, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi
suất tiếp tục tăng thêm gần 7. 900 tỉ đồng.
Như vậy đến thời điểm này có gần 385, 6 nghìn tỉ đồng vốn hỗ trợ đi vào
sản xuất, trong đó dư nợ của nhóm các DN nhà nước chiếm hơn 60, 4 nghìn tỉ
đồng và các DN ngoài nhà nước chiếm đa số với trên 257, 2 nghìn tỉ đồng.
Báo cáo mới công bố của NHNN cuối năm 2009, cho thấy tốc độ tăng dư
nợ cho vay tiếp tục chậm lại song vượt xa lượng vốn huy động, dấu hiệu cho
thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn chưa hết căng thẳng.
Năm 2010
“Vốn khả dụng của các NHTM trước Tết dư thừa khoảng 13.000 tỷ đồng và
hiện nay khoảng 30.000 tỷ đồng”, ông Nguyễn Văn Giàu cho biết
Đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán năm 2010, do nhu cầu chi lương mới,
chi thưởng, chi trợ cấp, chi đền bù giải phóng mặt bằng, nhu cầu vốn đầu tư,
thanh toán cho đối tác, tăng lên đột biến của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,
thì thị trường mở thực sự có hiệu quả rất cao trong việc đáp ứng vốn khả dụng
cho các ngân hàng này.
Tại thời điểm này, có ngày Ngân hàng Nhà nước cung ứng tới 3. 500 tỷ
đồng vốn khả dụng cho các NHTM thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang làm việc với Bộ Tài chính để tăng

cường phát hành, đưa ra đấu thầu các loại tín phiếu kho bạc kỳ hạn ngắn: 1
tháng, 2 tháng, 3 tháng và 6 tháng, để mở rộng và đa dạng hoá các loại tín
phiếu giao dịch trên thị trường mở. Đồng thời sẽ loại bỏ lãi suất chỉ đạo trong
điều hành thị trường.
Công nghệ tiên tiến, với việc hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng sẽ được áp dụng trong giao dịch, đảm bảo tính kịp thời và nhanh
chóng hơn các nghiệp vụ tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước và NHTM. Các
NHTM cũng nâng cao khả năng điều chuyển vốn trong hệ thống, quản lý và theo
dõi vốn tập trung. Mục tiêu cao nhất là tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền
kinh tế. Vốn được sử dụng có hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất. Trên cơ sở đó hình
thành lãi suất bình quân, có tính ổn định trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng
và kiềm chế lạm phát.
Công tác quản lý vốn khả dụng đảm bảo khả năng thanh toán là vấn đề rất
được quan tâm trong hoạt động ngân hàng, nhất là trong các dịp Tết hàng năm
Như thường thấy những năm gần đây, nhu cầu vốn giải ngân của doanh nghiệp
cuối năm tăng cao, tác động tới lượng vốn khả dụng và đẩy lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng tăng cao trong những ngày cuối năm. Ngay từ những
tháng cuối năm, nhiều TCTD đã đẩy mạnh thực hiện các hình thức huy động như
phát hành kỳ phiếu với lãi suất hấp dẫn, huy động tiết kiệm dự thưởng
Năm 2012
Tính đến Quý III/2012, hệ thống các tổ chức tín dụng dư thừa vốn khả
dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước.
Đó là thông tin trong báo cáo về việc thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế
do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã ký và vừa được gửi tới
các ĐBQH.
Đến quý 3/2012, các tổ chức tín dụng đã dư thừa vốn khả dụng
“Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về cơ bản đã kiểm soát được tình hình của các
ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém. Khả năng chi trả của các ngân hàng nói
trên đã được cải thiện đáng kể, nguy cơ rủi ro gây mất an toàn hệ thống đã được
đẩy lùi”, báo cáo cho biết.

Báo cáo cho hay, đến ngày 30/6/2012 có 36,5 ngàn tỷ đồng dư nợ tín dụng được
cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ. Giải pháp này đã giúp giảm bớt áp lực trả nợ,
lãi phạt và tăng khả năng tiếp cận vay vốn ngân hàng đối với khách hàng vay.
Cũng theo Báo cáo, sự gia tăng nợ xấu đã được kiềm chế, có xu hướng tăng
chậm lại từ quý II/2012: Tháng 1: +7,29%; Tháng 2: +8,42%; Tháng 3: +9,35%;
Tháng 4: +8,28%; Tháng 5: +6,59%; Tháng 6: +1,2%.
Đến cuối tháng 8/2012, số dự phòng rủi ro đã được các tổ chức tín dụng trích lập
nhưng chưa sử dụng là 72.907 tỷ đồng, tăng hơn 14 ngàn tỷ đồng so với cuối
năm 2011. Trong 8 tháng đầu năm 2012, số nợ xấu được các tổ chức tín dụng xử
lý bằng nguồn dự phòng rủi ro là gần 8 ngàn tỷ đồng.
Năm 2013
Các ngân hàng thương mại đã mua tổng cộng 88,3% lượng trái phiếu chính
phủ (TPCP) được Kho bạc Nhà nước bán ra từ đầu năm nay, theo thông tin
cập nhật từ Kho bạc nhà nước, Bộ Tài chính
Trong đó, 31 ngân hàng thương mại Việt Nam đã mua 105.414 tỉ đồng, chiếm
72,3% và 12 ngân hàng nước ngoài đã mua 23.307 tỉ đồng, chiếm 16% tổng khối
lượng trái phiếu chính phủ được Kho bạc bán ra.
Ngoài ra, 26 công ty chứng khoán và quỹ đầu tư đã mua 15.090 tỉ đồng (chiếm
10,3%), Bảo hiểm xã hội Việt Nam mua 2.000 tỉ đồng (chiếm 1,4%).
Theo Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), kế hoạch đấu thầu trái phiếu
chính phủ trong quí 4-2013 dự kiến huy động được 25.200 tỉ đồng thông qua trái
phiếu kho bạc. Bộ Tài chính cho rằng đây là nhiệm vụ tương đối nặng nề trong
bối cảnh tình hình thị trường không còn thuận lợi như những tháng đầu năm.
Song, hiện tiến độ huy động tương đối khả quan. Trong tháng 11-2013, Kho bạc
đã huy động đạt 16.448 tỉ đồng. Tính từ đầu năm đến 15-11-2013, tổng số huy
động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ đạt 170.560 tỉ đồng, đạt 88% kế
hoạch được giao (193.000 tỉ đồng).
Bộ Tài chính đánh giá, trong tháng 11, kết quả huy động vốn qua trái phiếu
chính phủ tương đối khả quan vì tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng
chậm do đó nguồn vốn khả dụng vẫn khá dồi dào.

×