Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

TÀI LIỆU VĂN 12 ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT QUỐC GIA VÀ ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.08 KB, 47 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP NGỮ VĂN 12
PHẦN I: Mở bài, kết bài tham khảo
1. Tuyên ngôn độc lập
Mở bài:
“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở
đâu, sự chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu, xin mời đến
thăm cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực của một con người
anh hùng của thời đại…”. Đó là nhận xét rất xác đáng của tác giả Rơ-nê Đê Pê Tre
người Cu-ba về chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khơng chỉ là một lãnh tụ tài ba, người
anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam thốt khỏi xiềng xích của nơ lệ
mà Người cịn là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm đặc sắc
trên nhiều thế loại khác nhau. Đặc biệt, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời vào năm
1945 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn
chính luận của Người. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lập luận chặt
chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe. Bản “Tuyên
ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, “là kết quả của bao nhiêu hi
vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân
Tiên).
Kết bài:
“Tun ngơn Độc lập” của Hồ Chí Minh đã đánh dấu mốc son trong lịch sử dân
tộc, mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn ngang tầm với “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn
Trãi, là niềm tự hào của những người Việt Nam yêu nước. Với phong cách nghệ thuật
độc đáo và riêng biệt, Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình và làm rạng rỡ nền
văn học Việt Nam. Tấm lòng yêu nước, thương dân, tâm huyết và khát vọng cháy
bỏng của Hồ Chí Minh về độc lập tự do của dân tộc thực sự đã trở thành một ngọn
lửa thần tạo nên tài năng văn chương của Người, đúng như nhận định của Raxun
Gamzatốp: “Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ trong cành khô, tài năng bắt nguồn
từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người.”


2. Tây Tiến


Mở bài:
“Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?
Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…
Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhoà sắc ban.”
(Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)
Đã từ lâu, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc
biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở
thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm
“Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của cuộc sống hôm nay, lật
trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xơn xao cõi lịng theo những vần
thơ đượm màu kiêu bạc, hào hoa. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài, nhớ những miền đất
mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình
quân dân kháng chiến. Tất cả những những điều ấy được thể hiện bằng cái nhìn đầy
lãng mạn của người lính.
Kết bài:
“Thơ là đi từ chân trời của một người đến chân trời của nhiều người”, những gì
xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim. Có lẽ vì thế mà đã hơn nửa thế kỷ trôi qua với
bao thăng trầm lịch sử, con người thực dụng hơn và thờ ơ hơn với văn chương nhưng
“Tây Tiến” vẫn sẽ được đón nhận, được đọc nhiều, thuộc nhiều, yêu nhiều và sống
mãi cùng thời gian. Đó là thành công của một nhà thơ khi thi phẩm của mình thực sự
sống trong lịng bạn đọc. Những tình cảm, nỗi nhớ trong “Tây Tiến” mang sức rung
cảm chân thật đến run rẩy từng làn da, thớ thịt. Quả thật “Thơ hay ln có sức rung
động mãnh liệt” quả khơng sai!
3. Việt Bắc
Mở bài:


Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng cho rằng: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi ở .. Khi ta đi đất
bỗng hóa tâm hồn”. Và cũng từ đó bỗng có một mảnh đất tình người đã hóa thân

thành hồn, thành nỗi nhớ trong lịng người cán bộ về xi. Đó là mảnh đất Việt Bắc
chan chứa ân tình – quê hương của kháng chiến, quê hương của những con người
khốc áo chàm nghèo khó mà “đậm đà lịng son” khiến những ai đã từng đặt chân
đến nơi đây cũng phải bồi hồi và xao xuyến. Mảnh đất Việt Bắc đi vào thi ca và thành
cảm hứng bùng cháy nhất . Đặc biệt không thể không nhắc bài thơ Việt Bắc của nhà
thơ cách mạng Tố Hữu.
Kết bài:
Bằng việc sử dụng kết cấu đối đáp trong ca dao những hình tượng hóa nhân vật
giữa người dân Việt Bắc - “kẻ ở” và người chiến sĩ cách mạng - “người đi”, tác giả
Tố Hữu đã tái hiện thành công cuộc chia tay lịch sử mang ý nghĩa cầu nối gắn liền
với chiến thắng Điện Biên Phủ. Dù là người đi hay kẻ ở lại, tất cả đều trân trọng
những kỷ niệm cách mạng trong những ngày tháng kháng chiến ấm áp, sâu nặng bất
chấp mọi đắng cay, “lửa đạn bom rơi” khốc liệt để cùng tin tưởng vào một tương lai
tươi sáng của dân tộc. Nghĩa tình nhân dân khăng khít trong kháng chiến chính là sự
tiếp nối mạch nguồn yêu nước xuyên suốt những trang lịch sử hào hùng của dân tộc,
góp phần làm nổi bật chiều sâu tư tưởng của tác phẩm “Việt Bắc”.
4. Đất nước
Mở bài:
“Có mối tình nào hơn Tổ quốc?
Mỗi thi phẩm tuyệt đẹp bằng tình cảm yêu thương, sâu nặng và cảm hứng nồng nàn
về Tổ Quốc – các nhà thơ – chiến sĩ đã để lại cho núi sông này biết ấn tượng sâu sắc
về con người, đất nước Việt Nam. Nếu các nhà thơ khác cùng thời thường dùng
những hình ảnh kì vĩ, mỹ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm
nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì với Nguyễn Khoa Điềm lại cảm nhận qua những
gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị, mộc mạc gắn liền với dân tộc, như máu thịt, như
hơi thở. Đoạn trích “Đất nước” được trích từ phần đầu của chương V trường ca “Mặt
đường khát vọng” là tác phẩm tiêu biểu trong cuộc đời sáng tác của ông. Đất nước ấy
tắm đẫm trong hương liệu văn hóa dân gian, trong tư tưởng lớn của thời đại – tư



tưởng “Đất nước của nhân dân” - một tư tưởng có tính chính luận xun suốt chương
thơ.
Kết bài:
Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một
hình ảnh đất nước được lí giải với những câu truyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa
ngày xưa. Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một khơng gian tình
tứ như chuyện tình của đơi lứa, un ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn
Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước" của ơng. Cuộc chiến
tranh chống Mỹ gian khổ khiến con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến
nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tư tưởng về nhân dân được tác giả nhấn
mạnh sâu sắc, mãnh liệt. Xin mượn những lời thơ của Thanh Thảo thay cho lời kết:
5. Sóng
Mở bài:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tơi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
( Những người đi tới biển, Thanh Thảo)
Trong "Bài thơ tuổi nhỏ" Xuân Diệu có viết:
“Làm sao sống được mà khơng u
Khơng nhớ không thương một kẻ nào.”
Đi suốt nền thi ca Việt Nam có lẽ tình u là chủ đề, nguồn cảm hứng bất tận với
nhiều thi nhân từ trước đến nay. Trong số nhiều nhà thơ từng viết về tình yêu thì
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai cái tên nổi bật nhất. Nếu như Xuân Diệu từng làm
mưa làm gió với tình yêu mãnh liệt với "Biển" thì Xuân Quỳnh lại chọn cách thể hiện
tình cảm của người con gái qua "Sóng". "Sóng" là một trong những tác phẩm xuất sắc
nhất của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, bài thơ nằm trong tập "Hoa dọc chiến hào" và được


viết nhân một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền năm 1967, nữ sĩ đã mượn hình

tượng sóng để diễn tả cảm xúc vừa phong phú, phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của trái
tim người phụ nữ đang rạo rực khát khao u thương.
Kết bài:
Phải có một tình u nồng nàn và thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp lung
linh đến như vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, nồng nàn, đã làm tươi tắn
thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam. Thông qua việc sử dụng thể thơ năm chữ cùng
cách ngắt nhịp linh hoạt tạo nên nhịp điệu độc đáo, cùng việc sử dụng hình tượng
“sóng”, nhà thơ đã bộc lộ chân thành khát vọng tình u mãnh liệt, sơi nổi của trái
tim người phụ nữ. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định “Xuân Quỳnh là nhà thơ của
khát vọng hạnh phúc đời thường” với một tình yêu nồng nhiệt, vừa táo bạo say đắm
vừa thiết tha dịu dàng, đồng thời thấy được khát vọng vươn tới một tình yêu đích thực
và vượt qua mọi sự hữu hạn của kiếp người luôn thường trực trong trái tim người phụ
nữ trong tình u:
“Khi ta cịn trẻ, thơ là người mẹ
Ta lớn lên rồi thơ là người yêu
Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái
Lúc chết đi rồi, kỉ niệm hóa lưu thơ”.

6. Người lái đị sơng Đà
Mở bài:
Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn
đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tn chính là nhà văn như thế. Ơng là
người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm
cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài
ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê
hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ
thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ “ngông” và sự tài


hoa, un bác. “Người lái đị sơng Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn

Tuân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với tùy bút này, Nguyễn Tuân đã miêu tả
vẻ đẹp đa dạng, vừa hung bạo, vừa trữ tình của sơng Đà cùng với hình ảnh kĩ vĩ về
người lái đị trên dịng sơng ấy.

Kết bài:
Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu
tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó khơng phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng
hân hoan, nếu nó khơng đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Và quả
thực tùy bút “Người lái đị Sơng Đà” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm như thế! Trong
suốt quá trình dài của thời gian, “Người lái đị Sơng Đà” của Nguyễn Tuân vẫn luôn
vẹn nguyên và sống mãi trong lòng người đọc về một tác phẩm cũng như một nhà văn
đa tài. Qua cách tiếp cận và khám phá độc đạo của nhà văn biết bao vẻ đẹp ấn tượng
hiện lên, bày tỏ tình cảm yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao
động bình dị của vùng Tây Bắc. Nguyễn Tuân là nhà văn có một cuộc đời lao động
nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng
hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
7. Ai đã đặt tên cho dịng sơng
Mở bài:
R. Gamzatop đã từng nói rằng: “Nếu như người nghệ sĩ khơng tham gia vào việc
hình thành thế giới này thì thế giới không trở nên tươi đẹp như thế này.” Quả thực,
dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, vạn vật và cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn biết
bao.Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Ơng có sở trường đặc biệt về thể bút kí, tùy bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là
sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với
những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn
hóa, lịch sử, địa lí… Đến với những trang văn đậm chất trữ tình của Hồng Phủ Ngọc
Tường trong “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí
của ơng. Tác phẩm đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con người xứ
Huế mộng mơ.



Kết bài:
Nguyễn Tuân, một nhà văn cũng chuyên viết kí nhận xét “Kí của Hồng Phủ Ngọc
Tường có rất nhiều ánh lửa”. Phải chăng ánh lửa trong kí Hồng Phủ Ngọc Tường
chính là vẻ đẹp của văn chương được thắp lên từ những con chữ biến hóa như phép
màu. Bài ký đã góp phần bồi đắp tình u, niềm tự hào đối với dịng sơng và cũng là
với non sơng, gấm vóc. Dịng sơng Hương trong văn của nhà thơ khiến cho ai đã từng
đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong
những gì nên thơ nhất của xứ Huế. “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” xứng đáng là một
áng văn hay, đặc sắc về xứ sở, về tình yêu quê hương, đất nước và cũng rất tiêu biểu
cho phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đúng như Maiacốpxki nhận xét
về quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ:

“Phải đổi lấy hàng ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.”
8. Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi
Mở bài
Bàn về sự sâu sắc của văn chương, nhà thơ Bằng Việt từng viết :
“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”
Có những tác phẩm vừa ra đời đã bị chìm khuất trong sự ồn ào, náo nhiệt của
“phiên chợ văn chương”, nhưng cũng có những tác phẩm lại trở thành những “bản
trường ca” của thời đại. Đó phải chăng là những tác phẩm nằm ngoài quy luật “băng
hoại” của thời gian. Một trong số đó phải kể đến “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tơ
Hồi – một thiên truyện xuất sắc về người nông dân nghèo miền núi cùng cuộc sống tăm
tối của họ nơi đây.



Kết bài
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân
tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hồn
tồn mất hết lịng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực
cho những con người khơng có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng
nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tơ Hồi đã thực hiện trọn vẹn
sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp
– nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.
10. Vợ nhặt - Kim Lân
Mở bài
Kim Lân là một nhà văn hiện thực, cây bút chuyên viết truyện ngắn của nền văn
học hiện đại Việt Nam. Ơng viết khơng nhiều, là một kiểu nhà văn “quý hồ tinh, bất quý
hồ đa”, nhưng những tác phẩm của ông đều đọng lại nhiều giá trị trong lòng người đọc.
Đề tài Kim Lân lựa chọn chủ yếu là nông thôn và người nông dân ở vùng đồng bằng
Bắc Bộ, bao gồm những khám phá về số phận và vẻ đẹp của họ, được thể hiện sinh động
qua lối viết giản dị, chân thực và xúc động. “Vợ Nhặt” trích trong tập truyện “Con chó
xấu xí” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân được lấy cảm hứng từ cốt truyện cũ của
tiểu thuyết xóm ngụ cư. Truyện ngắn là một thước phim chân thực, sống động về bối
cảnh nạn đói khốc liệt năm Ất Dậu đã hủy hoại thể xác và tinh thần của con người.
Đồng thời thơng qua đó thể hiện sự trân trọng và tin tưởng vào khát vọng sống của họ.
Kết bài
“Hành trình của văn chương chỉ thật sự bắt đầu khi trang sách khép lại, đó là lúc
nó thật sự đã sống trong lòng người đọc”. Nhà văn tồn tại với sứ mệnh “nâng giấc cho
những người không ai nâng giấc”, đứng về phía con người để cất lên tiếng nói tự do,
hạnh phúc. Kim Lân là một nhà văn như thế khi ông đã “tự giết mình” để thâm nhập,
sống trọn vẹn cuộc đời của cả ba nhân vật, phát hiện trong họ những vẻ đẹp đáng quý
của tình người. “Vợ Nhặt” sẽ ln là một chiếc lá chảy trơi giữa dịng thời gian miên
viễn của thời gian, trở thành thứ nghệ thuật “chỉ mình nó khơng thừa nhận cái chết”.



11. Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
Mở bài
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có cho riêng mình một vùng đất gắn bó thiết
tha. Đó là Tơ Hồi u mến và trân trọng những vẻ đẹp của rừng núi và con người Tây
Bắc hay Nguyễn Quang Sáng sống trọn đời mình với vùng đất Nam Bộ bình dị mà thân
thương. Đến với Nguyễn Trung Thành, ta bắt gặp một tâm hồn gắn bó máu thịt với vùng
đất Tây Nguyên, nơi có những đồi xà nu đại ngàn và những con người anh dũng, kiên
trung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành con người và
mảnh đất anh hùng ấy. Bằng ngòi bút tài
hoa và thấm đẫm yêu thương của mình, tác giả đã xây dựng hệ thống nhân vật vô cùng
phong phú, đại điện cho lớp lớp những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất
trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, trong đó Tnú là hình tượng tiêu biểu nhất.
Kết bài
Sự khát vọng hịa bình, sự bình yên cho cả nước, những ước mong mà người
dân ln khao khát từng ngày, bằng tình u bao la của mình đối với Tây Nguyên, câu
văn miêu tác giả dùng những tả qua hình ảnh cây xà nu, làm tăng thêm giá trị nghệ
thuật, sự kiên cường của từng con người Xô Man, và sự quan sát một cách tinh tế,
Nguyễn Trung Thành đã khiến cho người đọc cảm nhận được sự mất mát và đau thương
mà người dân nơi đây phải chịu thơng qua hình ảnh cây xà nu, có một trái tim đồng cảm
và chua xót cho con người Tây Nguyên.
12. Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi
Mở bài
Nguyễn Thi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi thời kháng chiến
chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh khá sinh động cuộc sống của nhân dân
Miền Nam dưới sự đàn áp dã man của Mỹ và chính quyền Sài Gịn; đồng thời cũng làm
nổi bật vẻ đẹp của con người Miền Nam trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để
giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do về cho dân tộc. Trong
những sáng tác của mình, Nguyễn Thi đi sâu khai thác đề tài: chủ nghĩa yêu nước anh



hùng cách mạng của nhân dân Nam Bộ. Đó là những tập thể anh hùng được làm nên bởi
mọi lứa tuổi. Trong đó, tầng lớp thiếu niên đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên
bức tranh hào hùng này như nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của
ơng.
Kết bài
Từ dịng chảy truyền thống của gia đình Chiến, Việt, nhà văn Nguyễn
Thi đã gợi nhắc đến cội nguồn của mọi dịng chảy, đó là dịng chảy truyền thống của một
đất nước. Hình ảnh của Chiến, Việt - những người con yêu nước, căm thù giặc, có trách
nhiệm sâu sắc trong việc trả nợ nhà, đền nợ nước người đọc còn thấy được trong
"Những đứa con trong gia đình" hình ảnh của cả một thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng
chiến chống Mĩ xưa. Chính truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức đấu tranh
của con người Việt Nam đã kết thành sức
mạnh to lớn giúp ta đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù, thống nhất đất nước.
13. Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
Mở bài
Nam Cao đã để lại một câu nói vơ cùng sâu sắc và đúng đắn: “Nghệ thuật không phải là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là
tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than...”. Quan niệm ấy của nhà văn Nam
Cao cho chúng ta cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Và để
tiếp nối sự nghiệp “nghệ thuật vị nhân sinh” của tiền bối đi trước, Nguyễn Minh Châu
đã thể hiện vô cùng xuất sắc quan niệm ấy qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Những tưởng người nghệ sĩ ấy tìm kiếm là vẻ đẹp tồn bích, hào nhống, rời xa thực tại
nhưng khơng. Điều mà ông luôn trăn trở là làm sao để phản ánh được hiện thực tàn khốc
qua lăng kính của nghệ thuật. Qua đoạn trích….
Kết bài
“Người tiền trạm đổi mới” Nguyễn Minh Châu đã thực sự hoàn thành sứ mệnh cao cả
của mình trong cuộc hành trình khám phá những ẩn khuất trong cuộc đời phức tạp.



Những sự thật được hé lộ ở đấy là những câu chuyện trần thuật, đau thương, bi đát
nhưng người nghệ sĩ không được phép né tránh đi sự thật ấy, mà cịn phải nhìn sâu, nhìn
sâu để thấy được những vẻ đẹp khuất lấp của những con người bé nhỏ, cam phận. Đây
mới đích thực là vẻ đẹp hồn mỹ nhất mà người nghệ sĩ ln muốn kiếm tìm - một vẻ
đẹp mặc cho hồn cảnh có vùi dập, bao năm tháng có qua đi, chúng vẫn ln tỏa sáng
như những ánh sao trên bầu trời màn đêm u tối.
14. Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ
Mở bài
Lưu Quang Vũ là một tài năng xuất sắc của văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam
với thành công nhiều lĩnh vực: viết văn, làm thơ, soạn kịch. Ông được mệnh danh là
hiện tượng kịch trường của sân khấu kịch lúc bấy giờ với các kịch bản sáng tạo, vẫn còn
mang giá trị cho đến tận bây giờ. Kịch của Lưu Quang Vũ dữ dội, gay gắt, đanh thép,
phản ánh nhịp sống mới của đất nước và quá trình con người khám phá chính mình để
vươn đến cuộc sống toàn vẹn, tốt đẹp. “Hồn
Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ,
được sáng tác năm 1981 và công diễn lần đầu năm 1984. Lấy cảm hứng từ cốt truyện
dân gian, Lưu Quang Vũ đã phát triển, gửi gắm nhiều thông điệp mang tính triết học,
giáo dục cao đến cho bạn đọc, phù hợp với nhu cầu đổi mới của xã hội bấy giờ. Đoạn
kịch thuộc chương VII và đoạn kết của vở kịch, nổi bật hơn hết chính là bi kịch của
Trương Ba trong cuộc sống không phải là của mình qua màn đối thoại giữa hồn Trương
Ba và xác hàng thịt.
Kết bài
Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho những dòng nước mắt và biến nỗi thống khổ của nhân
loại trở thành tiếng hát vô biên” (Diệp Tiến). Nỗi thống khổ của Trương Ba cứ thế đi
sâu vào tâm trí người đọc, âm ỉ như một khúc trường ca. Để rồi từ mảnh đất cằn cỗi nhất
của đau thương, những hạt nhân q giá nở rộ, tơ điểm và hồn thiện cho cuộc sống của
con người. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” sẽ luôn là một vở kịch để đời của Lưu Quang
Vũ, không chỉ bây giờ mà là mãi về sau”.



Phần II. Tổng hợp đoạn văn mẫu về phần khái quát tác giả, tác phẩm HKII Ngữ
văn 12
1. Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi
Tơ Hồi là nhà văn lớn , là “cây đại thụ văn chương’’, là ‘’hạt ngọc’’ của nền
văn học Việt Nam. Tơ Hồi là người “sinh ra để viết”, “sống đến đâu viết đến đó”. Ơng
được tôn vinh như một nhà văn chuyên nghiệp với số lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể
loại khác nhau. Tơ Hồi quan niệm: “Viết văn là q trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã
là sự thật thì không tầm thường , dù cho phải đập vỡ những thần tượng trong lịng người
đọc.’’. Tơ Hồi có lối viết đậm đà màu sắc dân tộc, cách đặt tên tác phẩm thường xuất
phát từ thành ngữ, tục ngữ hoặc các câu nói quen thuộc trong dân gian. Khắc hoạ trong
tác phẩm những truyền thống nhân nghĩa của con người Việt Nam qua bao đời, như
truyền thống trọng nghĩa khinh tài, sự thuỷ chung trong tình nghĩa vợ chồng,... Có vốn
hiểu biết sâu rộng, phong phú về văn hoá các vùng miền trên khắp các dải đất. Quan tâm
khai thác đề tài lịch sử. Ngơn ngữ gần gũi, bình dị; xuất phát từ đời sống quần chúng
nhân dân. Có ngịi bút miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc chính vì vậy, các nhân vật trong
những trang văn của ông đều mang những nét riêng biệt, dấu ấn đậm nét trong lịng
người đọc. Tác phẩm của Tơ Hồi viết chủ yếu về hai địa bàn: vùng ngoại thành Hà Nội
và miền núi Tây Bắc. Đối tượng được Tơ Hồi khai thác nhiều nhất, thành công nhất
trong tác phẩm của ông là cuộc sống của người lao động đói nghèo ở ngoại thành Hà
Nội và những người lao động chịu nhiều áp bức, bóc lột nơi miền núi Tây Bắc. Truyện
ngắn ‘’Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Đó là kết
quả của chuyến đi tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc của nhà văn Tơ Hồi mà tác
giả đã "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với đồng bào dân tộc Tây Bắc trong
suốt 8 tháng của năm 1952. Khoảng thời gian này đã giúp nhà văn hiểu về cuộc sống,
văn hoá, con người của người dân nơi đây - nuôi dưỡng cho ông tình yêu và cảm hứng
sáng tác dạt dào.
2. Vợ nhặt - Kim Lân
Kim Lân – “cây bút độc đáo của làng quê Việt Nam”, “là nhà văn một lòng đi
về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nơng thơn”. Ơng trở



thành nhà văn tài hoa của làng quê. Đồng thời, trong hoạt động kịch trường, phim ảnh,
là một nghệ sĩ tài tử “tay ngang”, với những vai diễn nổi tiếng. Truyện ngắn được coi là
“đặc sản” của Kim Lân Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: “Kim Lân
là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim
Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng
tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”. Thế giới nghệ thuật tập trung ở khung cảnh
nơng thơn và hình tượng người nông dân nghèo khổ. Theo ông: “Dùng lý lẽ để thuyết
phục trong văn chương cũng là một thứ cưỡng chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó
làm cho người ta khơng giữ được chính mình. Nói một cách khác hết sức mềm mại thì
người cầm bút phải viết như chơi, viết thoải mái bằng tấm lịng của mình, hướng vào cái
thật, cái đẹp, giúp cho con người sống thật, sống đẹp với nhau. Và khi nhà văn gặp cái gì
trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình, phải dám lên tiếng nữa”. Truyện Vợ nhặt
có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng
tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hồ bình lập lại (1954), dựa trên một
phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện “Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập Con
chó xấu xí (1962).
3. Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965, khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào
bãi biển Chu Lai - Quảng Ngãi. Tác phẩm ban đầu được đăng trên tạp chí Văn nghệ qn
giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được đăng trong tập “Trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc”. Nhân mốc thời điểm lịch sử quan trọng của đất nước, nhà văn đã
viết nên một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để cổ vũ, động viên tinh thần của dân tộc.
“Rừng xà nu” là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của
con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhân
ra đó là chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể chống lại được bạo lực phản cách
mạng.


4.


Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi

Tác phẩm “ Những đứa con trong gia đình” sáng tác tháng 2 năm 1966, lúc này hoàn cảnh
lịch sử nổ lửa với cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến dịch đánh phá miền Bắc
của Mỹ. Tác phẩm là câu chuyện cảm động về một gia đình có truyền thống yêu nước sâu
sắc bao gồm những chiến sĩ hăng say đi diệt quân Mỹ. Từ đó thể hiện được lịng kiên
trung, ái quốc và bản lĩnh gan góc của nhân dân Nam Bộ trong công cuộc đấu tranh giành
lại độc lập dân tộc. Cũng có thể nói khi truyền thống gia đình gắn với truyền thống dân tộc,
tình yêu gia đình hịa quyện cùng với tình u tổ quốc đã tạo nên sức mạnh tinh thần vô
cùng to lớn cho con người, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đoạn
trích trong sách giáo khoa nằm ở phần cuối tác phẩm. Là lúc cuộc chiến đấu bước vào giai
đoạn khốc liệt nhất, cũng là lúc nội tâm nhân vật được bộc lộ sâu sắc nhất. Bốn lần tỉnh
dậy của Việt, đó là ý chí, là sức sống, là niềm tin dai dẳng của người dân Nam Bộ về một
chiến thắng lẫy lừng, mà theo ngôn ngữ của Nguyễn Thi nói đó là “Giết thằng Tây để trả
thù cho má”.
5.

Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống
Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi
mới văn học từ sau 1975. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn
học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ở Nguyễn Minh Châu, sự đổi mới mạnh mẽ trong ý thức
nghệ thuật luôn đi liền với những tìm tịi đổi mới trong sáng tác của nhà văn. Quan niệm
về mối quan hệ giữa văn học và đời sống của Nguyễn Minh Châu là một quan niệm đặt
trên nền tảng tinh thần nhân bản: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà
tâm điểm là con người”. Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 - khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời
thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hồn cảnh chiến

tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật
chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và
thân phận con người đời thường.


6.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài, có nhiều đóng góp trong hội họa, văn
học, nhưng nổi bật nhất là sân khấu kịch. Được xem là nhà soạn kịch tài năng nhất của
nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Đặc trưng kịch: có sự hịa quyện giữa tính
phê phán mạnh mẽ, quyết liệt cùng chất thơ sâu lắng, bay bổng; giữa vẻ đẹp truyền
thống cùng những giá trị hiện đại. Thể loại: Kịch (là một trong 3 phương thức phản ánh
hiện thực của văn học), có kịch bản như tác phẩm văn học nhưng chủ yếu dùng để biểu
diễn trên sân khấu. Chú trọng vào lời thoại và hành động kịch để khán giả có thể hình
dung diễn biến câu chuyện và tâm lý của các nhân vật. Cốt lõi của kịch chính là xung
đột kịch – để từ đó đẩy vở kịch lên cao trào. Từ một truyện cổ dân gian cùng tên nhưng
được Lưu Quang Vũ sáng tạo lại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng triết lí
và nhân văn sâu sắc.
Phần III. Tổng hợp đánh giá nội dung và nghệ thuật hay khi phân tích các tác phẩm
trong chương trình Ngữ Văn 12 HKII
1.

Vợ chồng A Phủ - Tơ Hoài
Vợ chồng A phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc
không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm
tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Tác phẩm khắc họa chân thực những
nét đặc sắc về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số.
Qua tác phẩm, tác giả lên án bọn thực dân, chúa đất độc ác dã man tàn bạo; bày tỏ sự

cảm thông thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân nghèo miền núi và khẳng định sức
sống ngoan cường , khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động. Đặc biệt nhà văn
cịn phản ánh q trình đấu tranh từ tự phát đến tự giác, chỉ ra con đường đấu tranh để
giải phóng của người dân miền núi dưới ách áp bức của bọn thực dân phong kiến. Ta
thấy được nghệ thuật xây dựng nhân vật, khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét.
Hai nhân vật Mị và A Phủ có số phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau đã được
tác giả thể hiện bằng bút pháp thích hợp. Nghệ thuật trần thuật rất thành công với giọng
kể trầm lắng đầy cảm thông, yêu mến; nhịp kể chậm xúc động có khi hịa vào dòng tâm
tư của nhân vật, vừa bộc lộ nội tâm của nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm.
2.

Vợ nhặt - Kim Lân


Tình cảnh thê thảm của người nơng dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kỳ đen tối trong lịch sử của dân tộc ta
bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng. Đó là hệ quả của những chính sách hà
khắc, vơ nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng
thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn
mạt của thực dân Pháp. Tác phẩm tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định
tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam. Niềm cảm thương, chia sẻ
của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt.
Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia
đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái
chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào. Cách mạng chính là con đường
đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt
đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện. Qua đó
thấy được cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các
nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình. Nghệ
thuật kể chuyện hấp dẫn, khơng kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự

hứng thú, tò mò cho người đọc. Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh
tế, dựng đối thoại sinh động. Bên cạnh đó là ngơn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang
đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ – một trong những đặc trưng trong phong cách
sáng tác của Kim Lân.
3.

Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
Qua tác phẩm “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta thấy được câu chuyện
thứ nhất là câu chuyện về sự giác ngộ lý tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến
tự giác của dân làng Xô Man, với triết lý cách mạng được cụ Mết - trưởng bản, đúc kết
"Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo". Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về
cuộc đời của Tnú - một người con của núi rừng Tây Nguyên, của bản làng Xô Man. Tnú
lớn lên trong khơng khí cả làng làm cách mạng nên con người ấy nhanh chóng bén
duyên. Cuộc đời của Tnú là cuộc đời của biết bao nhiêu con người, cũng là hình ảnh biểu
trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường đứng dậy trong cuộc đọ sức
cam go với đế quốc Mĩ. Câu chuyện được kể theo hình thức truyện lồng truyện, truyện
của một đời người của Tnú lại được kể trong một đêm qua lời kể của cụ Mết. Xây dựng
được khơng khí sử thi hào hùng, tráng lệ qua lối kể khan của cụ Mết ở nhà ưng tạo nên
sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và truyền thuyết. Xây dựng được những hình tượng đặc
sắc mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là hình tượng của cây xà nu; hình tượng những


thế hệ xà nu - những thế hệ của bản làng Xơ Man, của mảnh đất Tây Ngun; hình tượng
người anh hùng Tnú. Ngôn ngữ đặc sắc, mang đậm chất Tây Nguyên
4.
Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi
Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nơng dân Nam Bộ có truyền
thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với Cách mạng. Sự gắn
bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với
truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam

trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Truyện mang đậm chất sử thi, lòng căm thù
giặc, thuỷ chung son sắt với quê hương,… Với ngôn ngữ mộc mạc, tự nhiên, giàu
hình ảnh và đậm chất Nam Bộ. Đặc biệt, nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật sinh
động, khách quan. Nghệ thuật kể chuyện theo mạch hồi tưởng của nhân vật Việt tạo
sự tự nhiên, không bị phụ thuộc vào yếu tố thời gian.
5.

Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức
ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm. Về
cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Cần có một cách nhìn đa diện, nhiều chiều để
có thể phát hiện ra bản chất thật sau vè đẹp bên ngoài của hiện tượng. Mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc đời: Nghệ thuật phải gắn với cuộc đời – “NT vị nhân sinh” về nạn
bạo lực gia đình do đói nghèo, thất học, động con…Tác phẩm thể hiện một cái nhìn thấu
hiểu, trĩu nặng tình yêu thương và nỗi lo âu đối với con người của tác giả. Truyện xoay
quanh tình huống tự nhận thức nhân vật từ lầm lẫn, ngộ nhận đến “ giác ngộ”. Giọng
điệu thay đổi linh hoạt lúc say sưa hùng biện, lúc hài hước tự trào, lúc khách quan tiết
chế, lúc trầm lắng suy tư. Sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, suy tư- triết lí nổi bật hơn cả
với những câu văn miêu tả giàu chất trữ tình, nhịp chậm, ngữ điệu trầm, những so sánh
mở ra trường liên tưởng nhiều lo âu, day dứt. Vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm,
đôn hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí sâu sắc.
6.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ
Qua đoạn trích tác giả muốn gửi tới người đọc thơng điệp được sống làm người
quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và
theo đuổi cịn q giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự
nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh
với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, chạy theo bản năng,
lối sống hưởng thụ, phàm phu thơ thiển. Tác giả đã xây dựng tình huống truyện kịch đầy



căng thẳng đạt đến cao trào rồi giải quyết mâu thuẫn một cách logic, hợp lí, thỏa đáng.
Nghệ thuật diễn tả hành động nhân vật, dựng lời thoại: Phù hợp với hồn cảnh, tính cách
nhân vật và sự phát triển của xung đột kịch. Xây dựng đối thoại, độc thoại sắc nét,
không chỉ giúp nhân vật bộc lộ bản chất, suy nghĩ của cá nhân mình mà cịn giúp cho
người đọc, người xem suy ngẫm về những triết lí được gửi gắm trong mỗi câu thoại của
các nhân vật. Đồng thời có kết hợp giữa những vấn đề thời sự và vấn đề mn thuở: Đó
là lối sống giả dối của con người hiện đại, giữa những dục vọng thấp hèn với những khát
khao cao cả….
PHẦN IV: Văn mẫu 9+
Đề 1 (Tác phẩm Người lái đị sơng Đà): Cho đoạn trích
“Hùng vĩ của sơng Đà khơng phải chỉ có thác đá. Mà nó cịn là những cảnh đá
bờ sơng, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách
đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hịn
đá qua bên kia vách. Có qng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.
Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Lng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng,
sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất
cứ người lái đị Sơng Đà nào tóm được qua đấy. Qng này mà khinh suất tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sơng bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn
ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng
sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sơi vào. Những bè gỗ rừng đi

nghênh ngang vơ ý là những cái giếng hút ấy nó lơi tụt xuống. Có những thuyền đã bị
cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi
ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”


(Trích “Người lái đị Sơng Đà, Ngữ
12) Phân tích hình tượng Sơng Đà trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét về sự tài
hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lịng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng gọi
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ cịn đâu.”
Đó là những lời thơ tha thiết của thi sĩ Chế Lan Viên khi viết về mảnh đất và con
người Tây Bắc. Vùng đất “sớm sương muối, tối sương mù - Trưa hoe hoe nắng, chiều
tà tà mây” đã trở thành nơi gửi gắm tâm tình của biết bao thi sĩ và một trong số đó có
Nguyễn Tn. Trong hành trang du kí của mình lên vùng Tây Bắc, nhà văn đã ấn
tượng sâu sắc với vẻ đẹp nơi đây, đứa con tinh thần “Người lái đị Sơng Đà” cũng ra
đời vì lẽ đó. Tác phẩm viết về dòng Đà giang hung bạo, dữ dội nhưng cũng rất thú vị,
độc đáo. Đặc biệt nhất trong đoạn trích: “Hùng vĩ của Sơng Đà…khuỷnh sơng dưới”.
Khơng chỉ làm bật lên sự hùng vĩ, độc địa của sông Đà, nhà văn còn đem đến cho
người đọc thấy được sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ xứng danh “bậc thầy”
đáng ngưỡng mộ.
Nhà văn Trần Dần từng nhận xét về Nguyễn Tuân: “Nhân cách của nhà văn
chính là văn cách của anh ta”. Lời bình ấy quả đúng! Nguyễn Tuân luôn coi trọng
nghề viết, coi trọng độc giả như coi trọng cái tơi của chính mình. Người quen Nguyễn
Tn đều biết ơng rất cầu kỳ, kỹ tính trong từng con chữ bởi như ông từng chia sẻ:
“Tôi quan niệm đã viết văn thì phải cố viết cho hay và phải viết đúng cái tạng của
mình. Văn chương cần cần có sự độc đáo hơn trong bất kì lĩnh vực nào”. Có thể thấy
trên trang văn của Nguyễn Tuân chưa bao giờ tồn tại hai chữ nhạt nhịa cũng vì lẽ đó.

Tuy rằng xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, trước Cách mạng
Tháng Tám, ông bất mãn với thời thế, chỉ hướng ngòi bút về quá khứ với những vẻ
đẹp “vang bóng một thời” ngày xưa, thế nhưng sau khi cách mạng thành công, phong
cách Nguyễn Tuân đã có nhiều thay đổi. Nhà văn nhận ra chất tài hoa nghệ sĩ của
nhân dân đại chúng, ông thấy ở họ tồn tại những vẻ đẹp đáng q và bình dị vơ cùng.
Ơng cũng nhìn ra được mối quan hệ mật thiết giữa quá khứ và tương lai tươi sáng.
Đồng thời giọng văn cũng từ đó trở nên đơn hậu, tin u đến lạ thường. Có lẽ, ánh


sáng của cách mạng đã khiến Nguyễn Tuân sống lại một lần nữa, để ông đem đến cho
đời những tác phẩm văn học đong đầy bóng dáng của quê hương. Và tùy bút “Người
lái đị Sơng Đà” là một trong số đó. Tác phẩm được in trong tập “Sơng Đà” sáng tác
năm 1960, là thành quả của một chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc của “cây bút
duy mĩ” đầy tài hoa. Đoạn trích miêu tả sự hung bạo của Sơng Đà là một trong những
đoạn trích đắt giá nhất của tác phẩm.
Để mang đến cho người đọc một con sông với vẻ đẹp độc đáo một cách chân thật
và đầy đủ nhất, Nguyễn Tuân đã dày công tìm hiểu nguồn gốc, lai lịch của dịng Đà
giang. Con sông bắt nguồn từ Trung Quốc, với cái tên khá mĩ miều là Ly Tiên. Qua
đến Việt Nam, nơi chào đón đầu tiên là Mường Tè (Lai Châu) về sau tới ngã ba Trung
Hà thì hợp với nước sơng Hồng của Thủ đơ. Sở dĩ nói đây là dịng sơng độc đáo bởi
dịng chảy của nó rất lạ, theo như lời đề từ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn của Nguyễn
Quang Bích có viết: “Chúng thủy giai Đơng tẩu - Đà Giang độc Bắc lưu”. Câu thơ
chữ Nơm có nghĩa là mọi dịng sơng đều chảy về hướng Đơng theo quy luật của tự
nhiên, duy chỉ có sơng Đà là chảy về hướng Bắc. Dường như chính con sơng đang
chống lại tạo hóa của mẹ thiên nhiên để đi theo chất riêng của mình. Điều này vừa tơn
lên vẻ hoang sơ, góc cạnh của nó, đồng thời lại cũng rất phù hợp với nét bút và thái
độ “ngông” của cây bút Nguyễn Tuân.
Mở đầu cho sự hùng vĩ, hung bạo, đó là Sông Đà với cảnh đá bờ sông. Nguyễn Tuân
miêu tả đá ở đây “dựng vách thành” rất kiên cố và vững chắc, vừa rộng lại vừa sâu,
thẳng đứng đến mức “chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”. Độ hẹp của con sông cũng được

miêu tả rất độc địa khi “có vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu.
Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Độ hẹp ấy cảm tưởng như là
rất nhỏ, giống như ai đang ghì tay, siết chặt dịng nước khơng cho chảy nữa. Động từ
“chẹt” được sử dụng tạo cảm giác khó thở và dường như còn thấy chưa đủ, tác giả
tiếp tục khắc họa thêm cho người đọc bằng cách miêu tả “có quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ bên kia”. Dù chưa một lần ngắm nghía hình thù, chứng
kiến sự dữ dội của dịng sơng, tuy nhiên qua ngôn từ trên trang giấy của Nguyễn
Tuân, ta cũng thấy đây là một quãng vô cùng nguy hiểm cho thuyền bè qua lại, một
quãng hẹp đến mức độ khủng khiếp. Ngồi trên thuyền ở Sông Đà, “đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh”. Cái lạnh ở đây vừa là lạnh do khơng có ánh nắng của mặt trời chiếu
rọi khiến quãng sông lạnh lẽo, u tối, cũng vừa lạnh gáy, sởn gai ốc. Khi đi thuyền vì
nguy hiểm chực chờ như đang trong miệng một con thú dữ, nó có thể vồ lấy thuyền
mà nuốt chửng ta bất cứ lúc nào. Nhà văn Nguyễn Quang Trung từng nhận xét về bài


kí này của Nguyễn Tuân là “Bài kí chật ních so sánh”. Và đúng thế, Nguyễn Tuân
không chỉ so sánh nhiều mà cịn so sánh rất độc, rất hay. Ơng mô tả cái lạnh “như
đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Con người đứng trước thiên nhiên như một sinh thể
nhỏ bé đang chờ mong thứ “ánh sáng” tươi đẹp của nó mang lại. Nhưng thay vì làm
vui lịng du khách, thiên nhiên phũ phàng “tắt phụt” đi hi vọng nhỏ nhoi ấy khiến
bỗng chốc con người thấy lạnh vì lạc lõng, bơ vơ, run sợ khi bóng tối bao trùm. Phải
chăng đây là thứ cảm giác mà Sông Đà muốn đem tới vài lời thách thức đầy ngạo
nghễ mỗi lần có vị khách nào muốn khám phá nó chăng?
Qua góc nhìn của Nguyễn Tn, sơng Đà cịn độc địa, nguy hiểm hơn ở quãng mặt
ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi nằm ngay dưới chân thác, gồm có phần nổi và phần
chìm, phần nổi là những hòn đá sắc nhọn chồng chất lên nhau như một hàng rào
phịng thủ đầy gai góc và sát thương, phần chìm là nước với độ sâu nơng vơ cùng khó
đốn. Đi thuyền qng này phải rất chắc tay nếu không nguy hiểm vô cùng. Bởi vậy
mới có câu ca dao mà ơng cha ta truyền dạy:

“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh.”
Ghềnh làm tăng thêm sự hiểm trở cho dòng Đà giang, khiến nó hung bạo lại càng
thêm hung bạo. Ở quãng ghềnh ấy “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ
gió” cứ liên tiếp quăng quật vào nhau. Phép điệp cấu trúc cùng với động từ mạnh
“xô” tạo cảm giác xô đẩy, chen chúc, ào ạt, dồn dập nhau đến hỗn loạn. Nguyễn Tuân
dùng hệ thống câu văn ngắn, thanh trắc và nhiều dấu phẩy liên tiếp khiến câu văn như
bị ai bẻ gãy làm đơi, bạo liệt, cuồng nộ, trắc trở như chính tính cách con sơng Đà
ngang bướng. Khơng chỉ có vậy, âm thanh “gùn ghè” suốt năm cứ “cuồn cuộn” bên
tai của gió cũng góp phần đánh địn tâm lý đến những ai đi thuyền qua đây. Nhà văn
miêu tả dịng sơng Đà hung hăng, hằm hặp như một chủ nợ khó tính và vơ lý khi “địi
nợ xt” cả những người mà chẳng hề mắc nợ nó. Chao ơi! Nó sẵn sàng “tóm” lấy
bất kỳ ai mà nó khơng “vừa ý”, một dịng sơng bẩn tính đến khó hiểu! Có lẽ ngàn đời
này tính khí của nó vẫn vậy nên là người lái đò ai cũng phải biết mà cẩn thận tay lái,
vì nếu lơ là, khinh suất dù chỉ phút giây thơi “thì cũng đè lật ngửa bụng thuyền ra”
chìm dưới tay của con quái thú sông Đà. Quả thực, Sông Đà qua trang văn của
Nguyễn Tuân nhất là quãng ghềnh chứng tỏ nó là một đối thủ đáng gờm, khó tính, đơi
khi người phải thật bản lĩnh mới có thể đi qua.


Quãng Tà Mường Vát ở dưới Sơn La cũng là một nơi con sông Đà bộc lộ được vẻ
hung dữ, bạo liệt của nó. Ở đây xung quanh là những cái hút nước rất nguy hiểm. Cái
hút nước được miêu tả “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu”. Vừa sâu hun hút, vừa tối tăm như hố đen vũ trụ có thể nuốt tất cả mọi thứ
nếu ngay gần nó. Nguyễn Tuân rất độc đáo khi gợi tả âm thanh của cái hút nước bằng
biện pháp nhân hóa, ‘Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” rồi thì “ặc ặc
lên như rót dầu sơi vào”. Âm thanh hoang dã, ghê rợn đến “đinh tai nhức óc” nghe là
đã thấy được dịng sơng ấy có nhiều sự nguy hiểm như nào. Bởi vậy mà “không
thuyền nào dám men gần những nơi hút nước ấy” chỉ muốn “chèo nhanh lướt quãng
sông”. Đứng trước mặt của con thủy quái Sông Đà, nếu nhanh và may mắn thì thốt

nạn, cịn nếu thuyền bè nào “đi nghênh ngang vơ ý” coi thường nó thì nó sẵn sàng “lơi
tuột”, “hút xuống”, khiến thuyền “trồng ngay cây chuối”, “vụt biến đi”. Một loạt động
từ mạnh được sử dụng cho thấy uy lực của một con sông “ngàn đời làm mình làm mẩy
với thiên nhiên và con người Tây Bắc” thật đáng e sợ. Tác giả dùng từ “tan xác” để
chỉ con người. Tuy nhiên sự đáng sợ không hề đơn giản đi mà ngược lại. Bởi nếu
thuyền cịn “tan xác” thì số phận con người trên thuyền ấy sẽ ra sao?
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh từng nói về Nguyễn Tn: “Khi thì
trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bơng phèn, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì
xơ bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy nhưng
bao giờ cũng rất đời tài hoa”. Vâng! Nguyễn Tuân cực kì tài hoa và sắc sảo trong
cách sử dụng ngơn ngữ. Như ý của Tơ Hồi thì ông xứng đáng được mệnh danh là
“chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hồn của chữ”. Ơng đã dùng hết
bút lực của mình gợi tả con sơng Đà bằng những từ ngữ độc lạ, dường như chưa từng
bắt gặp trong trang văn khác như “gùn ghè”, “đòi nợ xt”. Song song với đó, từ ngữ
cịn được chọn lọc tỉ mẩn để gọi sự vật vừa lạ mà cịn đúng tên, đúng tính chất của
nó. Thoạt tiên là “hút nước” tác giả gọi là “cái giếng sâu”, những chiếc thuyền bị con
sơng đánh úp thì trơng như “trồng ngay cây chuối ngược”. Sự uyên bác và tài tình
như đạt đến đỉnh điểm. Trong đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dội của Đà giang,
Nguyễn Tuân còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa cùng rất nhiều so sánh, liên
tưởng khác nhau để đem đến một góc nhìn ấn tượng cho người đọc. Từ chiều rộng,
chiều sâu, độ hẹp đến cảm giác lạnh gáy, run sợ qua ngịi bút tài hoa của ơng đều hiện
rõ đến chân thực. Khơng chỉ có thế, cách thành lập câu từ cũng rất đắt giá, câu văn
thường ngắn, nhiều dấu phẩy tạo nhịp điệu như dồn dập, liên tục như đang đưa người


đọc lên con thuyền phiêu du lên chính con sơng đọc dữ, nham hiểm của rừng núi Tây
Bắc. Liệu rằng con sơng Đà cuốn hút người đọc là do chính bản chất tính của nó hay
là do cái tài của người viết lên nó đây?
Nhà thơ Chế Lan Viên từng tâm niệm: “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết
vàng mà đời rơi vãi, hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”. Hiện thực cuộc

sống ln là mảnh đất màu mỡ cho văn học đâm rễ nảy chồi, chính những chuyến đi
thực tế lên vùng cao Tây Bắc cùng chất tài hoa nghệ sĩ mà Nguyễn Tuân đã mang đến
một áng văn thật đẹp, thật hay cho đời. Đây chắc chắn là “chất vàng mười” của đất
nước q hương mà nhà văn ln tìm kiếm. Với những giá trị mang theo bên mình,
tác phẩm “Người lái đị Sơng Đà” nói chung và đoạn trích Sơng Đà hung bạo nói
riêng xứng đáng là một bản trường ca bất hủ, sống mãi với non sơng gấm vóc Việt
Nam u quý!

Đề 2 (Tác phẩm ai đã đặt tên cho dòng sơng) Cho đoạn trích sau:
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa
những biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực
yên tâm theo hướng tây nam - đơng bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy
chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng
non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ
sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng
“vâng” khơng nói ra của tình u. Và như vậy, giống như sông Seine của Pari, sông
Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lịng thành phố u q của
mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.
Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi
khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm
thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lịe trong đêm những ánh lửa thuyền chài
của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào cịn nhìn thấy
được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hịn đảo nhỏ trên sơng đã làm giảm hẳn lưu tốc
của dịng nước, khiến cho sơng Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm,
cơ hồ chỉ là một mặt hồ n tĩnh. Tơi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sơng
Nê-va cuốn trơi những đám băng lơ xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt
trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một
chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy



với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê- téc-bua
cũ để ra bể Ban-tích. Tơi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế,
và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại;
ơi, tơi muốn hố làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi
ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh q, khơng kịp cho
lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trơng theo. Hai
nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những
dịng sơng trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi,
chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow
tình cảm dành riêng cho huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm
nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hịn Chén
trơi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như
những vấn vương của một nỗi lịng.”
(Trích “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, Hồng Phủ Ngọc Tường, Ngữ Văn 12,
Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam)

Đề 3: (Ai đã đặt tên cho dịng sơng)
Phân tích hình tượng sơng Hương trong đoạn trích, từ đó nhận xét cái tơi trữ tình của
Hồng Phủ Ngọc Tường.
BÀI LÀM
Chẳng biết từ bao giờ, những dịng sơng đã trở thành sợi thương sợi nhớ,
nhân lên hành tình yêu trong mỗi trái tim người nghệ sĩ. Để rồi tình yêu ấy gợi tình,
gợi nhạc cho những câu hát; là dịng sữa ngọt ngào ni dưỡng những vần thơ; là làn
gió ấm thổi vào từng áng văn. Và người con của xứ Quảng - Hoàng Phủ Ngọc Tường,
một nhà văn được mệnh danh là “người đi cùng những dịng sơng kỷ niệm” cũng bị
đắm sau bởi vẻ đẹp của dịng Hương Giang mà khơng kìm lòng viết nên tác phẩm
“Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Với sở trường về bút ký, nhà văn đã mang tới vẻ đẹp
của dịng sơng Hương khi chảy trong lòng Huế một cách rõ nét và ấn tượng qua đoạn
trích “Từ đây, như đã… của một nỗi lịng”. Từ đó, ta cảm nhận được cái tơi trữ tình
của tác giả thêm sâu sắc hơn.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút ký, nét đặc sắc
trong bút kí của ơng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình,


giữa nghị luận sắc bén và tư duy đa chiều với một vốn kiến thức tổng hợp từ nhiều
lĩnh vực, nhất là lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Tất cả đều được thể hiện qua lối hành
văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Chính vì thế mà Nguyên Ngọc đã không
ngần ngại mà nhận xét ông là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học
nước ta hiện nay”. Ông được mệnh danh là “nhà văn của xứ Huế mộng mơ” và tuổi
thơ của Hồng Phủ Ngọc Tường ln gắn liền với thành phố huế và dịng Hương
Giang lung linh, huyền ảo. Chính nó là nguồn cảm hứng bât staanj, là mảnh đất màu
mỡ cho ngịi bút của ơng thỏa sức tung hồnh mà viết nên tùy bút “Ai đã đặt tên cho
dòng sông”. Tác phẩm được viết vào năm 1981 ở Huế và in trong tập cùng tên. Đây
được coi là một trong những thiên tùy bút xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói
riêng và của thể loại bút ký, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Xuyên suốt
tác phẩm, vẻ đẹp đắm say lịng người của sơng Hương hiện lên rất rõ nét và chân
thực, đặc biệt là vẻ đẹp của dòng chảy khi trong thành phố.
Qua ngịi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương khơng phải là một
dịng chảy vơ tri, vơ giác mà nó có cảm xúc, tình cảm với người tình của mình giống
như bao người. Tâm trạng háo hức và vẻ đẹp tình tứ dun dáng của sơng Hương khi
được gặp gỡ Huế được nhà văn miêu tả chân thực. Thành phố Huế hiện lên là nơi mà
sơng Hương mong ngóng được trở về, là người tình mong đợi mà nàng đắm say và
muốn ở bên mãi mãi. Vì vậy khi biết mình đã tìm đúng đường về, nàng ta “vui tươi
hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của những vùng ngoại ơ Kim Long”. Phải trải
qua một cuộc hành trình gian truân, đầy thử thách ở thượng nguồn, từ một cơ gái
Digan phóng khống và man dại rồi đến một người mẹ của vùng văn hóa xứ sở, cuối
cùng, sơng Hương mới có thể gặp được Huế. vậy làm sai mà không vui, không háo
hức cho được chứ? Từ “về” được tác giả khéo léo sử dụng như muốn ngầm khẳng
định Huế là bến đỗ thân thương, là nơi duy nhất mà sơng Hương thuộc về. Qua đó, ta
càng thêm cảm nhận sâu xa hơn về sự thủy chung của nàng ta với người tình của

mình. Sau khi đã “kéo một nét thẳng thwucj yên tâm theo hướng Tây Nam - Đông
Bắc”, nagf ta dường như vui sướng hân hoan khi nhận ra dầu hiệu của thành phố Huế
“chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng
non” ngay trước mắt. Vậy là sông Hương và Huế đã gặp nhau sau bao vất vả, gian
lao. Hồng Phủ Ngọc Tường khơng coi đây là sự sắp đặt ngẫu nhiên của thiên nhiên
tạo hóa mà theo ơng, đây chính là sự chủ động của thiếu nữ Hương giang tìm về với
thành phố. Tới đây, ta lại nhớ tới hình ảnh sơng qua hai câu thơ của Xuân Quỳnh,
biểu trưng cho hình ảnh người phụ nữ chủ động đi tìm kiếm tình yêu của mình:


×