Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

khóa luận Điều tra hiện trạng canh tác và diễn biến của một số loài sâu hại chính trên cây tiêu tại huyện Buôn Đôn – tỉnh Đăk Lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.83 KB, 50 trang )

PHẦN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây tiêu (Piper nigum L. ), thuộc họ hồ tiêu Piperaceae có nguồn gốc nhiệt
đới ở Ấn Độ, mọc hoang trong các rừng nhiệt đới ẩm ở vùng Ghast tây và Assam
được biết đến từ rất lâu đời, khoảng 100 năm TCN. Cây tiêu du nhập vào nước ta từ
cuối TK XIX và phát triển nhanh.
Cây tiêu là loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Nó mang lại nguồn thu
nhập chính cho nhiều hộ gia đình ở nước ta. Hạt tiêu là một loại gia vị được ưa
chuộng trên khắp thế giới. Hạt tiêu có vị cay, có mùi thơm là gia vị không thể thiếu
của nhiều món ăn.
Ngoài ra, tiêu còn được dùng trong công nghiệp chế biến hương liệu, nước hoa
và trong Y học. Việt Nam là nước nhiệt đới có điều kiện khí hậu thời tiết và đất đai
tương đối phù hợp với yêu cầu sinh thái của cây tiêu nên đã hình thành nhiều vùng
trồng chính: Miền Đông Nam bộ, các tỉnh Tây Nguyên, Quảng Trị, Hà Tiên, Phú
Quốc…
Trong vài năm gần đây, giá hồ tiêu trên thị trường khá ổn định, tiêu đã trở
thành một trong những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao. Vì thế, đã kích thích
nghề trồng tiêu phát triển mạnh về diện tích và đầu tư thâm canh chiều sâu.
Hiện nay, diện tích trồng tiêu của Đăk Lăk khoảng 7.778 ha, được trồng chủ
yếu ở các huyện như EaHleo, Krôngnăng, CưM’gar… Buôn Đôn cũng là một trong
những huyện có diện tích trồng tiêu đáng kể 671 ha vào năm 2013 (Nguồn: Sở NN
& PTNT, 2013).
Việc gia tăng về diện tích trồng cũng như việc hình thành các vùng độc canh
cây tiêu đã tạo điều kiện thuận lợi cho sâu, bệnh hại phát triển phong phú cả về
chủng loại cũng như số lượng. Trước tình hình đó, để tìm hiểu về hiện trạng canh
tác, tình hình sâu hại trên tiêu nhằm góp phần hạn chế tác hại do sâu hại trên tiêu ở
địa bàn huyện vì thế đề tài “Điều tra hiện trạng canh tác và diễn biến của một số
loài sâu hại chính trên cây tiêu tại huyện Buôn Đôn – tỉnh Đăk Lăk” được tiến
hành.
1.2. Giới hạn của đề tài
Do thời gian thực hiện đề tài ngắn (từ tháng 3/2014 đến tháng 5/2014) nên chỉ


tiến hành điều tra hiện trạng canh tác, thành phần sâu hại và đề xuất một số biện
1
pháp phòng trừ tại các xã Wer, Tân Hòa, Ea Bar trong huyện Buôn Đôn trên một số
chỉ tiêu cơ bản về sâu hại tiêu (thành phần, mật độ).
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được hiện trạng canh tác tiêu ở một các xã Ea Wer, Tân Hòa, Ea Bar
trên địa bàn huyên Buôn Đôn.
Xác định được thành phần sâu hại tiêu và thiên địch.
Đánh giá được mức độ gây hại và diễn biến của một số sâu hại chính.
Đề xuất biện pháp phòng trừ một số loài sâu hại chính.
2
PHẦN 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình sản xuất hồ tiêu trên thế giới và trong nước
2.1.1. Tình hình sản xuất hồ tiêu trên thế giới
Cây Hồ tiêu có nguồn gốc ở vùng Tây Nam Ấn Độ, do xuất xứ từ vùng nhiệt
đới ẩm nên cây Hồ tiêu chủ yếu được trồng tại các nước vùng xích đạo. Hiện nay
trên thế gới có khoảng 70 nước trồng tiêu, với diện tích khoảng 500.000 ha, trong
đó có 7 nước sản xuất chính gồm Ấn Độ khoảng 230.000 ha, Indonesia 170.000 ha,
Việt Nam 50.000 ha, Brazil 45.000 ha, Sri Lanka 32.000 ha, Trung Quốc 18.000 ha
và Malaysia 13.000 ha, các nước trên chiếm tới 98 % diện tích toàn cầu (Hiệp hội
hồ tiêu Việt Nam, 2013).
Trước năm 2005, Việt Nam chưa gia nhập vào cộng đồng hồ tiêu thế giới
(IPC), diện tích hồ tiêu của năm quốc gia trong IPC (Ấn Độ, Indonesia, Malaysia,
Srilanca và Brazil) chiếm khoảng 85%. Sau khi Việt Nam là thành viên của IPC,
diện tích hồ tiêu của các nước thuộc IPC đạt hơn 98% tổng diện tích hồ tiêu thế giới
(Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
Giai đoạn 2008 – 2013, Việt Nam có diện tích hồ tiêu đứng thứ ba nhưng sản
lượng (cả tiêu đen và tiêu trắng) cao nhất so với tất cả các quốc gia sản xuất tiêu.
Đặc biệt, từ năm 2009 đến năm 2013 sản lượng hồ tiêu Việt Nam đạt trên 100 ngàn
tấn chiếm từ 31% đến 35% sản lượng hồ tiêu thế giới (bảng 2.1).

Sản lượng hồ tiêu của Ấn Độ ổn định 50 ngàn tấn/năm trong giai đoạn từ 2008
– 2010, sau đó giảm còn 40 ngàn tấn/năm vào năm 2011 sau đó lại tăng lên 50 ngàn
tấn vào năm 2013. Sản lượng hồ tiêu của Brazil có xu hướng tăng nhẹ. Sản lượng
hồ tiêu của Indonesia có xu hướng tăng trong giai đoạn năm 2008 – 2010, đến năm
2011 giảm mạnh còn 41 ngàn tấn, đến năm 2013 còn 40 ngàn tấn. Nguyên nhân là
do tiêu đen xuất khẩu trong giai đoạn này khá thấp, khoảng 1400 – 1500 USD/tấn,
nên nông dân không chăm sóc tốt vườn tiêu, làm cho cây tiêu bị sâu bệnh gây hại
nặng giảm năng suất, sản lượng và diện tích. Trong khi đó, sản lượng hồ tiêu của
Malaysia và Srilanca có xu hướng tăng nhẹ.
3
Bảng 2.1. Sản lượng hồ tiêu trên thế giới giai đoạn 2008 – 2013 (1000 tấn)
Quốc gia
Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Ấn Độ 50,00 50,00 50,00 40,00 40,00 50,00
Brazil 33,00 40,70 34,00 35,00 35,00 34,00
Indonesia 46,00 47,50 52,00 41,00 41,00 40,00
Malaysia 23,00 22,70 23,50 27,00 28,00 26,00
Srilanca 15,00 13,81 16,73 13,00 13,00 18,00
Việt Nam 87,00 100,00 110,00 105,00 100,00 120,00
Quốc gia khác 16,00 37,00 24,80 47,00 13,00 45,00
Tổng cộng 289,23 318,62 316,38 308,50 360,60 365,00
(Nguồn: Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013)
Tổng quan phản ánh diện tích, sản lượng tiêu toàn cầu hơn 6 năm qua không
tăng, nguyên nhân chủ yếu là do tác động xấu bởi thời tiết, sâu bệnh, diện tích tiêu
già cỗi chết, năng xuất thấp, diện tích trồng mới gần đây có tăng nhưng thu hoạch
chưa nhiều. Chi phí sản xuất ngày càng tăng (Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
2.1.2. Tình hình sản xuất hồ tiêu ở Việt Nam
Hồ tiêu được trồng từ Nghệ An trở về phía Nam, gồm có 22 tỉnh với 5 vùng
trồng tiêu chính đó là: Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên,

Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
Đến năm 2013, nước ta có 26 tỉnh, thành trồng tiêu với diện tích khoảng
60.000 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 55.800 ha, năng suất thu hoạch bình
quân 24,2 tạ/ha, tổng sản lượng đạt khoảng 120.000 tấn, tăng khoảng 10% so với
năm 2012 (Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
Sản xuất tiêu phân bổ ở Bắc Trung Bộ 8.000 ha, năng suất bình quân khoảng
gần 16 tạ/ha, sản lượng khoảng 12.000 tấn. Duyên hải Nam Trung Bộ 1.300 ha,
năng suất bình quân khoảng gần 13 tạ/ha, sản lượng khoảng 1.500 tấn. Tây Nguyên
26.640 ha, năng suất bình quân khoảng gần 30,3 tạ/ha, sản lượng khoảng 59.375
tấn. Đông Nam Bộ 27.500 ha, năng suất bình quân khoảng 23 tạ/ha, sản lượng
khoảng 60.000 tấn (Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
Năm 2012 Việt Nam xuất khẩu 116.962 tấn, năm 2013 xuất khẩu 134.388 tấn,
so với năm 2012 tăng 14,9%. Giá bình quân tiêu đen 6.316 USD/tấn, tiêu trắng
9.042USD/tấn. So năm 2012 giá tiêu đen giảm 1,3%, tiêu trắng giảm 0,2%. Thị
trường nhập khẩu: Châu Á chiếm 36%, châu Âu 36%, châu Mỹ 21%, châu Phi 7%.
4
Và tổng kim ngạch xuất khẩu là 793,6 triệu đô la (2012) và 899 triệu đô la
(2013) (Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
Việc canh tác Hồ tiêu đang chuyển dần từ canh tác tự phát, cổ truyền, năng
suất thấp, tiêu dễ nhiễm bệnh sang canh tác hữu cơ tạo vườn tiêu phát triển bền
vững và cho sản phẩm tốt đạt giá trị cao. Nhiều địa phương năng suất bình quân từ
3 - 4 tấn/ha, những nơi được thiên nhiên ưu đãi cộng với lao động cần cù, nhiều hộ
đạt năng suất bình từ 5 - 7 tấn/ha như ở Chư Sê, Chư Pứ tỉnh Gia Lai, ở Xuân Lộc
tỉnh Đồng Nai, ở Châu Đức, Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, ở Đắk Song tỉnh
Đắk Nông, ở Eahleo tỉnh Đắk Lắk, cá biệt có số hộ đạt 9 – 10 tấn/ha. Cây Hồ tiêu
đã trở thành cây “mũi nhọn chiến lược”, cây xóa đói giảm nghèo, cây làm giàu của
nhiều nông dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc
(Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, 2013).
2.1.3. Tình hình sản xuất hồ tiêu ở Đăk Lăk
Tại Đăk Lăk, trong những năm gần đây cây tiêu ngày càng khẳng định vị thế

quan trọng, là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao trên thị trường trong nước
cũng như trên thế giới, do vậy người dân có xu hướng chuyển đổi những diện tích
cà phê và các cây trồng khác không phù hợp cho năng suất thấp sang trồng tiêu
ngày càng nhiều hơn (Sở NN & PTNT Đăk Lăk, 2013).
Trên diện tích đất trồng tiêu còn kết hợp trồng xen cây cà phê và các loại cây
ăn quả khác, mục đích để che bóng cho tiêu đồng thời tăng thêm thu nhập.
Theo báo cáo thống kê của cục thống kê Đăk Lăk, đến ngày 31/12/2013 toàn
tỉnh có 7.778 ha tiêu, trong đó diện tích cho thu hoạch là 5.200 ha, năng suất đạt
27,5 tạ/ha, sản lượng 14.040 tấn hạt tiêu (Sở NN & PTNT Đăk Lăk, 2013).
Cây tiêu được trồng ở 14 huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. Các
huyện có diện tích trồng tiêu lớn là: huyện EaH’leo 2.363 ha, Cưkuin 1.390 ha,
Cưmgar 970 ha, Krông Năng 890 ha, thị xã Buôn Hồ 500 ha Từ năm 2008 đến
nay diện tích tiêu của tỉnh có xu hướng tăng chậm nhưng về mặt năng suất và sản
lượng thì có bước phát triển vượt bậc. Nếu năm 2008 năng suất tiêu trung bình chỉ
đạt 22,3tạ/ha thì đến năm 2013 năng suất trung bình đạt 27,5 tạ/ha tăng khoảng 1,2
lần so với năm 2008. Điều này thể hiện trình độ thâm canh cây tiêu của người dân
trong tỉnh đã được cải thiện đáng kể, nhất là việc áp dụng các biện pháp sản xuất
thâm canh cây tiêu theo hướng bền vững. Huyện có sản lượng tiêu lớn nhất là
5
EaH’leo (3610 tấn), CưM’gar (2570 tấn), Cưkuin (2030 tấn), Krông Năng (1325
tấn) Về mặt năng suất, thành phố Buôn Ma Thuột có năng suất bình quân cao nhất
(39,2 tạ/ha), CưM’gar (35,5 tạ/ha), Krông Buk (33,9 tạ/ha), thị xã Buôn Hồ (32,7
tạ/ha) và Ea Kar (28 tạ/ha) (Sở NN & PTNT Đăk Lăk, 2013).
2.2. Vị trí và phân loại của cây tiêu
Cây tiêu có tên khoa học là Piper nigrum L., thuộc lớp Magnoliophyta, bộ
Piperales, họ Piperaceae, chi Piper là một chi quan trọng về kinh tế và sinh thái học
trong họ tiêu Piperaceae bao gồm khoảng 1000 đến 2000 loài cây thân bụi, thân
thảo và cây dây leo. Sự đa dạng trong chi này được quan tâm trong nghiên cứu và
tìm hiểu sự tiến hóa của thực vật (Dyer L.A. và Palmer A.N., 2004).
2.3. Nguồn gốc và sự phân bố

2.3.1. Nguồn gốc
Cây tiêu (Piper nigrum L) có nguồn gốc từ bang tây Ghats và Assam (Ấn Độ),
sau đó được người Hindu mang tới Java (Indonesia) vào khoảng 600 năm trước
công nguyên (Trần Văn Hòa, 2001). Tuy nhiên, Chivalier (1925) cho biết cây tiêu
chắc chắn là cây bản địa ở Đông Dương, bằng chứng là Balanca đã tìm thấy tiêu dại
ở vùng núi Ba Vì, miền Bắc Việt Nam. Ở Campuchia, người Stiêng đôi khi cũng
thu hoạch tiêu trong rừng (trích bởi Nguyễn Tăng Tôn và ctv, 2005).
Ravindran và ctv (2000) cho rằng các giống tiêu trồng có nguồn gốc từ các
giống tiêu mọc hoang, sau đó được thuần hóa và tuyển chọn. Trong số hơn 100
giống tiêu được biết đến, có nhiều giống đã và đang dần mất đi trong sản xuất bởi
nhiều lý do khác nhau như bệnh chết nhanh, chết chậm và tuyến trùng. Một số
giống tiêu bản địa dần dần được thay thế bằng một vài giống tiêu cao sản được
tuyển chọn và lai tạo.
Parthasarathy và ctv (2005) cho rằng cây tiêu có nguồn gốc từ Ấn Độ, chiếm
vị trí quan trọng nhất trong tất cả các loại gia vị. Kerala, Karnataka và Tamil Nadu
là những bang trồng tiêu chính ở Ấn Độ. Trong đó, 90% sản lượng hồ tiêu của Ấn
Độ đến từ bang Kerala. Nguồn gốc của hồ tiêu là cây sống trong môi trường rừng
nhiệt đới ẩm của bang tây Ghats. Những giống hiện đang trồng có lẽ có nguồn gốc
từ những loài hoang dại thông qua quá trình thuần hóa và chọn lọc. Trên 100 giống
được phát hiện ở Ấn Độ hầu hết đến từ Kerala, kế đến là Karnataka.
2.3.2. Đặc điểm thực vật học của cây hồ tiêu
6
Hệ thống rễ: thường có từ 3 - 6 rễ cái, một chùm rễ phụ ở dưới đất, trên đốt
thân có rễ bám. Rễ cọc chỉ có khi cây tiêu trồng bằng hạt, có thể ăn sâu đến 2,5 m
làm nhiệm vụ hút nước. Rễ cái phát triển từ hom tiêu, có thể ăn sâu tới 2 m. Rễ phụ
mọc thành chùm, phát triển theo chiều ngang rất dày đặc, phân bố nhiều ở độ sâu 15
– 40 cm làm nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng cho cây. Rễ bám (rễ khí sinh),
mọc từ đốt thân chính hoặc thân của cây tiêu, bám vào nọc (nọc sống, nọc chết, nọc
xây) nhiệm vụ chính là giữ cây bám chắc vào trụ đỡ (Phan Hữu Trinh và ctv, 1987).
Cây tiêu thuộc loại thân bò, tăng trưởng nhanh nhất có thể đạt 5 - 7cm/ngày.

Cấu tạo thân tiêu gồm nhiều bó mạch libe có kích thước khá lớn, nên có khả năng
vận chuyển nước, muối khoáng từ dưới đất lên thân rất mạnh. Do vậy khi thiếu
nước cây tiêu héo rất nhanh. Thân cây tiêu có màu đỏ nhạt (non) đến nâu xám, nâu
xanh, xanh lá cây đậm. khi già hóa mộc thì màu nâu sẫm. nếu phát triển tốt thì có
thể vươn tới 10 m (Phan Quốc Sủng, 1998).
Trên cây tiêu có 3 loại thân: thân tược, thân lươn và thân cho trái
Thân tược (thân vượt) mọc ra từ các mầm nách lá ở những thân tiêu nhỏ hơn 1
tuổi, mọc thẳng hợp với thân chính một góc nhỏ hơn 45 độ, thân này phát triển rất
mạnh nếu làm hom để giâm thân thì cây tiêu ra hoa chậm hơn thân mang trái nhưng
tuổi thọ kéo dài hơn (25 - 30 năm) (Phan Hữu Trinh và ctv, 1987).
Thân lươn là thân phát sinh từ các mầm nách gần sát gốc của bộ khung thân
chính của cây tiêu trưởng thành. Đặc trưng của thân lươn là bò sát đát và các lóng
rất dài. Chúng làm tiêu hao nhiều dinh dưỡng cần xén bỏ hàng năm (Phan Hữu
Trinh và ctv, 1987).
Thân cho trái còn gọi là thân ngang hay thân ác được phát sinh từ các mầm
nách trên cây tiêu lớn hơn một năm tuổi. Thân này ngắn hơn thân tược, lóng ngắn,
khúc khuỷu và thường mọc thân cấp 2, lấy thân này nhân giống mau ra trái nhưng
tuổi thọ thấp (Phan Quốc Sủng, 1998).
Lá tiêu thuộc loại lá đơn, có nhiều dạng: bầu tròn, thuôn dài, hình trứng. Gân
lá chìm hay nổi, nhiều hay ít tùy theo giống (Nguyễn Mạnh Chinh và Trần Đăng
Nghĩa, 2007).
Hoa tiêu thuộc loại hoa đơn tính hoặc lưỡng tính. Các giống tiêu trồng đa số là
đơn tính (Nguyễn Mạnh Chinh và Trần Đăng Nghĩa, 2007).
7
Quả tiêu thuộc loại quả mọng, lúc non màu xanh, khi chín chuyển sang màu
vàng và đỏ (Nguyễn Mạnh Chinh và Trần Đăng Nghĩa, 2007).
Trái tiêu chỉ mang một hạt có dạng hình cầu, đường kính 4 - 8 mm (thay đổi
tùy giống, điều kiện chăm sóc, sinh thái). Từ khi hoa nở đến trái chín kéo dài 7 – 10
tháng (Phan Hữu Trinh và ctv, 1987).
2.3.3. Yêu cầu sinh thái

Nhiệt độ thích hợp cho cây hồ tiêu từ 20 – 30
0
C. Khi nhiệt độ không khí cao
hơn 40
0
C và thấp hơn 10
0
C đều ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng. Cây hồ tiêu sẽ
ngừng sinh trưởng ở nhiệt độ 15
0
C kéo dài. Nhiệt độ 6 – 10
0
C trong thời gian ngắn
làm nám lá non, sau đó lá trên cây bắt đầu rụng (Tôn Nữ Tuấn Nam và ctv, 2008).
Hồ tiêu là loại cây ưa bóng ở mức độ nhất định. Ánh sáng tán xạ nhẹ phù hợp
với yêu cầu sinh lý về sinh trưởng và phát dục, ra hoa đậu quả của cây hồ tiêu và
kéo dài tuổi thọ của vườn cây hơn, do vậy trồng hồ tiêu trên các loại cây trụ sống là
kiểu canh tác thích hợp cho cây hồ tiêu (Tôn Nữ Tuấn Nam và ctv, 2008).
Cây hồ tiêu ưa thích điều kiện khí hậu nóng ẩm. Lượng mưa trong năm cần từ
1500 - 2500 mm phân bố tương đối điều hòa. Hồ tiêu cũng cần một giai đoạn hạn
tương đối ngắn sau vụ thu hoạch để phân hóa mầm hoa tốt và ra hoa đồng loạt vào
mùa mưa năm sau. Cây hồ tiêu cần ẩm độ không khí cao từ 70 - 90%, nhất là vào
thời kỳ ra hoa (Tôn Nữ Tuấn Nam và ctv, 2008).
Đất đai: tiêu có thể trồng trên đất đỏ bazan, đất sét pha cát, đất phù sa bồi, đất
xám, đất dễ thoát nước đặc biệt không ngập úng. Đất giàu mùn, tơi xốp thành phần
cơ giới từ nhẹ đến trung bình, giàu dinh dưỡng, độ pH thấp nhất 4,5 tốt nhất trong
khoảng 5,5 - 7, tầng đất canh tác trên 70 cm tốt nhất 1m trở lên, đất có độ dốc dưới
3% (Nguyễn Tăng Tôn, 2007).
2.4. Kỹ thuật trồng hồ tiêu
Theo Nguyễn Tăng Tôn (2007) kỹ thuật trồng hồ tiêu gồm các yêu cầu phương

thức nhân giống chọn cây giống có năng suất cao, chất lượng tốt không nhiễm sâu
bệnh hại.
Hom giống: thân tược (dây thân): mau cho quả, năng suất cao và tuổi thọ kéo
dài (15 - 20 năm), tỷ lệ hom sống 90%; thân lươn: cho quả chậm hơn và phải đôn
tiêu, thường năm thứ tư sau khi trồng.
8
Kỹ thuật cắt hom: lấy hom bánh tẻ, mỗi hom 4-6 đốt. Không sử dụng đoạn
hom cách ngọn 20 - 25cm, cắt hom vào mùa mưa khi cây mẹ 1 - 2 năm tuổi . hom
tiêu cắt xong cần ươm ngay, vận chuyển xa phải tưới nướcc đều.
Xử lí hom giống để tiêu mau ra rễ, trước khi giâm hom tiêu được ngâm trong
dung dịch NAA nồng độ 500 - 1000 ppm hoặc IBA nồng độ 50 - 55ppm. Ươm hom
sau khi xử lí có thể ươm vào luống hay bầu.
Khoảng cách và mật độ trồng
Theo Nguyễn Tăng Tôn (2007) tiêu được trồng trên trụ sống ở mỗi vùng khác
nhau.
Đông Nam bộ: cây keo dậu (Leucaena leucocephala), lồng mức (Wrighita
annamensis), gòn (Ceiba pentandra), đỗ quyên (Gliricidia sepium) trồng với
khoảng cách 2,5 x 2,5 hay 2,5 x 3 mật độ 1300 - 1600 trụ/ha ngoài ra, cây tiêu còn
tận dụng cho leo lên 1 số loài cây khác như muồng, cườm, xà cừ, bơ , mít nhưng ít
phổ biến.
Duyên hải miền trung: lồng mức, keo dậu, mít (Artocarpus heterophyllus)
trồng với khoảng cách 2,5 x 2,5 hay 2,5 x 3 mật độ 1300 - 1600 trụ/ha ngoài ra, cây
tiêu còn tận dụng cho leo lên 1 số loài cây khác như hoa sữa, núc nác, muồng,keo
nhưng ít phổ biến.
Tây nguyên keo dậu, giả anh đào, muồng đen (Cassi siamea), lồng mức trồng
với khoảng cách 2,5 x 2,5 hay 2,5 x 3 mật độ 1300 - 1600 trụ/ha.
Thời vụ trồng tiêu
Tùy thuộc vào điều kiện khí hậu của từng vùng, thường trồng vào đầu mùa
mưa, khi mưa đã đều và kết thúc trước mùa khô khoảng 2 – 2,5 tháng.
2.5. Sâu hại và thiên địch trên cây tiêu

2.5.1. Sâu hại trên tiêu
Bọ ăn lá, Longitarsus nigripennis (Coleoptera: Chrysomelidae) là sâu hại
nghiêm trọng nhất trên tiêu ở Ấn Độ và phạm vi ảnh hưởng của nó là 20 - 30% ở
vùng đồng bằng của Malabar (bắc Kerala) và dưới 5 - 10% ở Wynad and
Travancore (nam Kerala) (Directorate of Agriculture, Madras, 1954) (trích bởi
Devasahayam, 2000).
Con trưởng thành Longitarsus nigripennis ăn chồi non, lá và hoa. Trên những
chồi non và hoa, chúng cắn vào mô và làm đen bộ phận bị hại. Trên lá để lại những
9
lỗ thủng tròn không đều nhau. Chồi non bị hại nghiêm trọng. Lá và hoa bị hại sẽ
héo và rụng dẫn đến sự xâm hại của vi sinh vật thứ yếu. Tuy nhiên, sự gây hại của
ấu trùng còn gay gắt và nguy hiểm hơn. Ấu trùng đục vào trong quả và ăn bên
trong. Quả bị hại thường thành từng nhóm 2 - 4 quả và một ấu trùng có thể gây hại
cho một cụm quả. Quả bị hại biến vàng rồi đen và rụng. Ấu trùng gây hại làm cho
phần ngoài của hoa bị khô, gây hại chủ yếu ở cuống hoa. Chúng gây hại nghiêm
trọng ở những khu vực thiếu ánh sáng trong vườn ươm. Những trụ tiêu có cây che
bóng cũng bị hại nặng hơn (Premkumar và Nair,1988).
Rệp vảy, Lepidosaphes piperis (Homoptera: Diaspididae) là côn trùng gây hại
chủ yếu trên tiêu ở vùng cao. Một số loài khác được ghi nhận trên tiêu ở Ấn Độ,
Lepidosaphes piperis và Aspidiotus destructor (Homoptera: Diaspididae) là quan
trọng hơn. Ở vùng đồi Shevroy (quận Salem , Tamil Nadu), 47,5 % dây tiêu trong 6
vườn tiêu được ghi nhận có sự gây hại của Aspidiotus destructor (Venkatesan và
ctv, 1992).
L. piperis (Homoptera: Diaspididae) tạo thành một lớp vỏ cứng bao trên thân
chính của các dây tiêu non, lá đã trưởng thành và quả. L. piperis gây hại làm lá bị
đốm vàng và khô, những dây tiêu non chết, những dây tiêu già hơn thì các nhánh
bên bị hại rũ xuống và khô. L. piperis cũng gây hại những thân giâm đã già trong
vườn ươm ở đồng bằng (Koya và Devasahayam, 1995).
Chín loài rệp sáp có tên lần lượt là Icerya sp., I. aegyptiaca (Dgl.),
Planococcus sp., P. citri (Risso), P. minor (Mask.), Ferrisia virgata (Ckll.),

Pseudococcus sp., P. longispinus (Targioni) và P. orchidicola Takahashi
(Homoptera: Pseudococcidae) được ghi nhận gây hại trên tiêu. Rệp sáp thường gây
hại trên những bộ phận non của cây tiêu như chồi non, lá non, quả non, thường
không quan sát được triệu chứng gây hại rõ ràng trên vườn; tuy nhiên, sự gây hại
nghiêm trọng của P. longispinus trên chồi non làm héo cây con trong vườn ươm.
Tập đoàn Planococcus sp. gây hại các bộ phận dưới đất làm biến vàng dẫn đến
chết những dây tiêu non trên đồng và trong vườn ươm (Devasahayam và ctv, 1988;
Koya và ctv, 1996).
Bọ cánh cứng ăn lá được ghi nhận trên tiêu gồm Neculla pollinaria Baly
(Coleoptera: Chrysomelidae), Pagria costatipennis Jacoby (Coleoptera:
Chrysomelidae) (Nair,1975) (trích bởi Devasahayam, 2000), Hermaeophaga sp.
10
(Coleoptera: Alticidae) và Lanka sp. (Coleoptera: Chrysomelidae) (Premkumar và
Nair, 1987b) ở Kerala và Tegyrius sp. (Coleoptera: Chrysomelidae) ở Karnataka
(Premkumar và Nair, 1987b). Eugnathus curvus Faust (Coleoptera: Curculionidae)
(Nair, 1975) và Myllocerus sp. (Coleoptera: Curculionidae) (Pillai, 1978) tất cả
những loài này thường ăn lá non tạo thành những lỗ nhỏ (trích bởi Devasahayam,
2000).
Theo Nguyễn Thị Chắt (2001) sâu hại chính trên cây tiêu tại Phú Yên, Bình
Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu gồm: mối, Coptotermes sp. (Isoptera:
Rhinotermitidae); rầy mềm nâu, Toxoptera sp. (Homoptera : Aphididae); rệp sáp
giả một cặp đuôi ngắn Pseudococus sp. (Homoptera: Pseudococidae); rệp sáp giả
vằn, Ferrisia virgata CKII (Homoptera: Pseudococidae); ruồi trắng, Aleyrodicus sp.
(Homoptera: Aleyrodidae); bọ đầu dài, Lophobaris sp. (Coleoptera: Curculionidae);
Diconocoris sp. (Hemiptera: Tingidae); Meloidogyne sp., Nematode.
2.5.2. Thiên địch
Có năm loài kí sinh thuộc bộ cánh màng, một loài tuyến trùng ăn thịt và một
loài nhện là kẻ thù tự nhiên của Cydia hemidoxa (Devasahayam và Koya, 1994a).
Tại Peruvannamuzhi, trong số các loài thiên địch, Hexamermis sp. (Nematoda:
Mermithidae) và Apanteles cypris Nixon (Hymenoptera: Braconidae) có hơn 76,7%

kí sinh và 20% kí sinh ấu trùng trong tháng 8, tháng 9 (Devasahayam và Koya,
1993b, 1994b).
Một số loài ăn mồi được ghi nhận là thiên địch của Liothrips karnyi trên đồng
ruộng. Trong số chúng, Montandoniola moraguesi (Puton) (Hemiptera:
Anthocoridae) và Andothrips flavipes Schmutz (Thysanoptera: Phlaeothripidae)
phân bố rộng và giữ vai trò quan trọng trong kiểm soát dịch hại trên đồng ruộng.
Khả năng ăn mồi, vòng đời và mật số từng mùa của các loài bắt mồi cũng đã được
nghiên cứu (Devasahayam, 1992b). Một loài ăn mồi khác chưa được nhận dạng và
nhện là thiên địch của bọ trĩ Liothrips karnyi được ghi nhận (Visalakshi and Joseph,
1967) (trích bởi Devasahayam, 2000)., Geogarypus sp. (Arachnida: Geogarypidae),
Lestodiplosis sp. (Diptera: Cecidomyiidae) và Rhodesiella sp. (Diptera:
Chloropidae) săn mồi ở giai đoạn ấu trùng (Devasahayam, 1992b).
Kẻ thù tự nhiên của Lepidosaphes piperis và Aspidiotus destructor gồm 21 loài
nhện ăn thịt, bọ trĩ và bọ cánh cứng, các loài kí sinh thuộc bộ cánh màng
11
(Devasahayam và Koya, 1994a; Selvakumaran và ctv, 1997). Trong số chúng,
Aphytis sp. (Hymenoptera: Aphelinidae), Pseudoscymnus sp. và Chilocorus
circumdatus (Gyllenhall) (Coleoptera: Coccinellidae) là những loài phổ biến và
được phân bố rộng.
Một số loài ký sinh trứng của green bug ở đồng ruộng gồm Gryon sp.
(Hadronotus sp.) (Hymenoptera: Scelionidae), Anastus sp. (Hymenoptera:
Eupelmidae), Ooencyrtus malayensis Ferriere (Hymenoptera: Encyrtidae) và một
loài chưa biết tên (Vecht, 1933; Deciyanto và Ellyda, 1989). Vecht (1933) nhận
thấy rằng ở Bangka (Indonesia), 80% số trứng của green bug bị kí sinh bởi những
loài nêu trên (trích bởi Devasahayam, 2000).
2.6. Biện pháp phòng trừ sâu hại tiêu
Việc sử dụng thuốc trừ sâu chỉ kiểm soát được sự lan tràn phá hại của
Longitarsus nigripennis. Nhiều loại thuốc trừ sâu được sử dụng trên đồng ruộng. Có
3 loại thuốc trừ sâu có triển vọng tại hai địa phương (Kozhikode và Kottayam) và 7
loại thuốc trừ sâu ở quận Kozhikode dùng endosulfan 0,05% và quinalphos 0,05%

xịt trong tháng 7 và tháng 10 mang lại hiệu quả hơn trong việc kiểm soát sự gây hại
của Longitarsus nigripennis (Premkumar và ctv, 1986). Trong nhóm thuốc cùng
gốc được thử nghiệm, 9 loại thuốc được sử dụng ở quận Kozhikode và Kottayam:
endosulfan, quinalphos, methamidophos and methyl parathion (0,05%) có hiệu quả
trong việc kiểm soát sự gây hại của côn trùng khi phun vào tháng 6 và tháng 9
(Premkumar và Nair, 1987a). Định kì phun endosulfan 0,05% ba lần vào các tháng
5, tháng 7 và tháng 9 cũng có thể kiểm soát sự gây hại của Longitarsus nigripennis
(Nandakumar và ctv, 1987).
Các loài nấm kí sinh côn trùng như nấm Beauvaria bassiana Bals. (Vuill.) và
B. brongniartii (Sacc.) Petch. mang lại kết quả đầy triển vọng trong việc kiểm soát
ấu trùng Longitarsus nigripennis. Các chất được chiết từ lá và hạt của cây nêm và
cây mã tiền có thể chống lại sự gây hại của pollu (Devasahayam và Leela, 1997).
Một số sản phẩm thương mại của cây neem mang lại kết quả tốt trong việc chống
lại sự gây hại của côn trùng (Devasahayam và Anandaraj, 1997).
Côn trùng gây hại nghiêm trọng ở các vườn tiêu non. Một vài loại thuốc trừ
sâu được đánh giá là có hiệu lực trong kiểm soát dịch hại. trong khu vực có sự gây
hại của Longitarsus nigripennis, khuyến cáo sử dụng endosulfan 0,05% cũng mang
12
lại hiệu quả trong phòng trừ Cydia hemidoxa (Banerjee và ctv, 1981b) (trích bởi
Devasahayam, 2000). Phun monocrotophos 0,05% hai lần trong năm vào tháng 6 và
tháng 9 có thể kiểm soát dịch hại (NRCS, 1990).
Một số loại thuốc trừ sâu được giới thiệu để kiểm soát Dasynus piperis, gồm
malathion 0,125% , nicotine 0,15 %, carbaryl 0,2 %, BHC 0,02 %, azinophos-ethyl
0,1%, deltamethrin 0,2 %, diazinon 0,2% và carbofuran 3G (Deciyanto và Suprapto,
1992).
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Cây tiêu ở giai đoạn kinh doanh từ 5 – 10 tuổi trên vườn trồng thuần.
13
Các loại sâu hại chủ yếu trên cây tiêu tại khu vực huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk

Lăk.
3.2. Vật liệu nghiên cứu
- 3 vườn tiêu Vĩnh Linh tại 3 xã Ea Wer, Tân Hòa, Ea Bar huyện Buôn Đôn.
- Vật liệu thu giữ mẫu: dao, kéo cắt thân, hộp đựng mẫu, cồn 70
0
.
- Phương tiện ghi nhận đặc điểm hình thái: kính lúp cầm tay, kính lúp soi nổi,
máy ảnh kỹ thuật số, thước đo.
- Sổ ghi chép, nhật ký, biểu điều tra
3.3. Địa điểm nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên
3.3.1.1. Vị trí địa lý
Buôn Đôn là một huyện nằm ở rìa phía tây tỉnh Đăk Lăk. Có tọa độ địa lý từ
12
0
38’42’’ đến 13
0
06’07’’ vĩ độ Bắc và từ 107
0
27’59’’ đến 108
0
02’36’’ kinh độ
Đông
Phía Nam giáp huyện Cư Jút tỉnh Đăk Nông.
Phía Bắc giáp huyện Ea Sup.
Phía Đông Nam giáp thành phố Buôn Ma Thuột.
Phía Đông giáp huyện Cư M’gar.
Phía Tây huyện là biên giới với Campuchia.
Trung tâm huyện Buôn Đôn nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột 25km về
hướng Tây Bắc theo con đường tỉnh lộ số 1. Đó là thị trường lớn đẻ giao lưu, tiêu

thụ hàng hóa, trao đổi kỹ thuật công nghệ thông tin và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh.
Trực thuộc huyện Buôn Đôn gồm 7 xã: Cuôr Knia, Ea Bar, Ea Huar, Ea Nuôl,
Ea Wer, Krông Na, Tân Hòa.Và gồm có 99 thôn buôn. Thị trấn Buôn Đôn nằm ở
trung tâm huyện cách Buôn Ma Thuột khoảng 25km. Cơ quan hành chính huyện
nằm ở địa bàn xã Tân Hòa
3.3.1.2. Địa hình
Địa hình huyện Buôn Đôn được chia thành 3 dạng chính đó là đồi núi thấp,
cao nguyên núi lửa và thung lũng ven sông.
14
Địa hình đồi núi thấp có diện tích khoảng 115346 ha chiếm 82% tổng diện tích
tự nhiên, phân bố chủ yếu ở phía Tây bắc của huyện gồm bán bình nguyên với các
đồi thoải và các dãy núi nhô lên uốn lượn bắt đầu từ biên giới Việt Nam Campuchia
tới gần trung tâm huyện .
Địa hình cao nguyên núi lửa có diện tích 17910 ha chiếm 16,67% tổng diện
tích đất tự nhiên được phân bố ở phía Đông và phía Đông Nam của huyện, có độ
chia cắt nhẹ đến trung bình tạo thành những dãy đồi lượn sóng có độ dốc cao từ 8
0
đến 15
0
. Đất ở dạng địa hình này có nguồn gốc từ phun trào bazan hoặc trầm tích
với đất nâu đỏ hoặc đất đỏ vàng. Địa hình này thích hợp để bố trí các loại cây công
nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như cà phê, ca cao, cao su, hồ tiêu, điều…
Dạng địa hình trũng thấp được phân bố dọc theo các sông, suối lớn thuộc lưu
vực sông Sêrêpốk tạo nên những vùng tương đối bằng phẳng có độ dốc trung bình
từ 0
0
đến 3
0
, mùa mưa thường ngập úng. Địa hình này khoảng 1146 ha chiếm 0,8%

tổng diện tích đất tự nhiên, thuận lợi cho việc phát triển cây trồng lúa nước.
3.3.1.3. Khí hậu
Khí hậu huyện Buôn Đôn mang đầy đủ những đặc điểm của tiểu vùng khí hậu
bán bình nguyên Ea Sup là khu vực nhiệt đới gió mùa hàng năm có hai mùa rõ rệt
đó là mùa khô và mùa mưa.
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23
0
C – 24
0
C về mùa khô nhiệt độ trung bình
là 21,7
0
C tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 3 với nhiệt độ 23,5
0
C. Mùa mưa có
nhiệt độ trung bình là 24,7
0
C tháng nóng nhất là tháng 4 và tháng 6. Số giờ nắng
trung bình trong năm là 2332 giờ.
Lượng mưa trung bình hàng năm là 1824,2 mm, lượng mưa được phân bố
tương đối đều trên toàn bộ lãnh thổ của huyện nhưng lượng mưa lại phân bố không
đều trong năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 4 đến tháng 10 lượng mưa chiếm gần
92% lượng mưa cả năm. Do lượng mưa nhiều, mưa tập trung đã gây ngập úng một
số vùng cục bộ làm thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Mùa khô bắt đầu từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau lượng mưa chiếm 8% lượng mưa cả năm. Tuy nhiên có
những năm mưa muộn làm ảnh hưởng tới việc gieo trồng và thu hoạch.
Hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa, tốc độ gió trung bình hàng năm là
3m/s đến 3,5m/s. Mùa khô hướng gió thịnh hành là gió Đông Bắc còn mùa mưa
hướng gió thịnh hành là gió Tây Nam, đặc biệt vào mùa khô gió Tây Bắc hoạt động
15

mạnh thường gây khô nóng, lượng bốc hơi nước bề mặt lớn làm đất khô hạn gây tác
hại xấu tới cây trồng và vật nuôi.
Độ ẩm không khí tương đối cao trung bình từ 80% đến 85%, tháng có độ ẩm
thấp nhất là tháng 3 với độ ẩm 75%, tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 9 với độ ẩm
91%.
Lượng bốc hơi nước trung bình trong năm là 1689,4 mm.
Biểu đồ 3.1. Diễn biến nhiệt độ, lượng mưa năm 2014 huyện Buôn Đôn
(Nguồn: Đài khí tượng thủy văn huyện Buôn Đôn)
3.3.1.4. Thổ nhưỡng
Huyện Buôn Đôn hiện có 15 loại đất thuộc 5 nhóm như sau
Nhóm đất đỏ: có diện tích 12138,53 ha chiếm 8,61% tổng diện tích đất tự
nhiên được phân bố ở xã Ea Nuôl, Ea Bar, Tân Hòa, Ea Wer. Nhóm đất này thích
hợp cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày như cà phê, hồ tiêu, điều
Nhóm đất có tầng sét chặt, cơ giới dị phân: có diện tích 1582,51 ha chiếm
3,25% tổng diện tích đất tự nhiên được phân bố ở các xã Ea Wer và Krông Na.
Nhóm đất này thích hợp cho việc trồng cây lúa nước và cây trồng hàng năm như
ngô, sắn …
Nhóm đất xám: là nhóm đất chính của huyện với diện tích 71791,15 ha chiếm
50,9% tổng diện tích đất tự nhiên được phân bố ở hầu hết các xã trên địa bàn của
huyện. Nhóm đất này thích hợp cho việc bố trí các loại cây trồng hàng năm và lâu
năm.
16
Nhóm đất nâu: Có diện tích 47163,8 ha chiếm 33,44% tổng diện tích đất tự
nhiên của toàn huyện. Nhóm đất này thích hợp cho việc trồng các loại cây hoa màu
và cây công nghiệp hàng năm.
Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá: có diện tích 5327,01 ha chiếm 3,78% tổng diện
tích đất tự nhiên được phân bố trên các đỉnh núi cao như CưMinh, CưMao xã Krông
Na. Nhóm đất này bị xói mòn rửa trôi mạnh hầu như không có khả năng sản xuất.
3.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
3.3.2.1. Dân số và lao động

Huyện Buôn Đôn là một huyện có nhiều cộng đồng dân tộc anh em cùng sinh
sống. Cộng đồng các dân tộc trong huyện Buôn Đôn không hình thành nên những
lãnh thổ tộc người riêng biệt, nhưng mỗi tộc người đều tập trung ở một vùng nhất
định và người kinh ở hầu hết các vùng trong huyện nên đã tạo ra một nền văn hóa
đa dạng.
Dân số trên địa bàn huyện Buôn Đôn theo thống kê năm 2013 là 59.706 người.
Dân số huyện thuần nhất là dân số nông thôn, tỷ lệ tăng dân số toàn huyện là 2%
chủ yếu là tăng tự nhiên.
Buôn Đôn là một huyện có diện tích đất tự nhiên tương đối lớn, mật độ dân số
không cao. Dân cư phân bố tương đối không đều trên toàn huyện.
3.3.2.2. Cơ sở hạ tầng
Có hệ thống đường giao thông thuận lợi, có đường tỉnh lộ chạy qua, gần thành
phố Buôn Ma Thuật, thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa, trao đổi buôn bán hàng
hóa với nhau góp phần phát triển kinh tế của huyện nhà, một số tuyến đường liên xã
liên thôn cũng đã được đầu tư xây dựng.Tuy nhiên phần lớn các tuyến đường vẫn
đang còn là đường đất do vậy vào mùa mưa việc đi lại gặp nhiều khó khăn.
Hệ thống thông tin liên lạc và phát thanh truyền hình trong thời gian qua phát
triển khá nhanh, hiện nay trên địa bàn toàn huyện có 4.045 hộ có điện thoại cố định,
16.889 người dùng điện thoại di động, số người biết dùng Internet ngày càng cao
với 1.897 người.
3.4. Thời gian nghiên cứu
Thời gian từ ngày 10/03/2014 đến 30/05/2014.
3.5. Nội dung nghiên cứu
Điều tra hiện trạng canh tác tiêu của một số xã thuộc địa bàn huyện Buôn Đôn.
17
Điều tra thành phần sâu hại tiêu và thiên địch.
Điều tra diễn biến mật số của một số loài sâu gây hại chính.
Đề xuất một số biện pháp phòng trừ đối với sâu hại chính.
3.6. Phương pháp nghiên cứu
3.6.1. Điều tra hiện trạng canh tác tại các xã Ea Wer, Ea Bar, Tân Hòa thuộc

huyện Buôn Đôn
a. Phương pháp
Điều tra theo phương pháp phỏng vấn nông dân tại 3 xã Ea Wer, Ea Bar, Tân
Hòa qua phiếu điều tra có nội dung đã soạn thảo trước. Số lượng phiếu điều tra 50
phiếu. Sau khi điều tra tổng hợp và xử lí số liệu. Nội dung phiếu điều tra tham khảo
ở phần phụ lục.
b. Chỉ tiêu điều tra
Thông tin chung (diện tích trồng, thời vụ trồng, giống, tuổi, trụ tiêu, loại trụ ).
Kĩ thuật canh tác (làm đất, mật độ trồng, phân bón ).
Bảo vệ thực vật (loại thuốc, liều dùng, số lần phun ).
c. Lịch điều tra
Tiến hành điều tra 1 lần trước khi triển khai đề tài và có bổ sung trong quá
trình nghiên cứu.
3.6.2. Điều tra thành phần và diễn biến của một số loài sâu hại chủ yếu trên cây
tiêu và thiên địch.
a. Phương pháp
Điều tra theo phương pháp quan sát trực tiếp và phỏng vấn nông dân qua phiếu
điều tra có nội dung đã soạn thảo trước.
Tiến hành điều tra trên giống tiêu Vĩnh Linh, trồng thuần, các vườn tiêu ở giai
đoạn tuổi kinh doanh (5 - 10 năm tuổi). Tổng số vườn điều tra là 3 vườn.
Mỗi vườn có ít nhất 100 trụ. Tiến hành điều tra theo phương pháp 5 điểm phân
bố đều trên 1 hàng, tịnh tiến không lặp lại, các điểm điều tra được bố trí như sơ đồ
3.1, mỗi điểm điều tra 3 trụ, mỗi vườn quan sát 15 trụ. Trên trụ đã chọn, điều tra
theo bốn hướng (đông – tây – nam – bắc) và ba tầng lá (tầng dưới – tầng giữa – tầng
trên). Thu thập tất cả các loài sâu hại và thiên địch trên tiêu cho vào các hộp nhựa
có chứa cồn 70%, trên hộp có ghi địa điểm thu mẫu, vườn thu mẫu đem về phòng
18
thí nghiệm để định danh ghi nhận thành phần và đếm số lượng các loài sâu hại
chính để quy đổi mật số.
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ điều tra về thành phần sâu bệnh hại và thiên địch trên vườn

tiêu
b. Chỉ tiêu điều tra
Thành phần sâu hại và thiên địch trên cây tiêu tại huyện Buôn Đôn
Mức độ xuất hiện của các loài sâu hại, thiên địch.
Mức độ xuất hiện của sâu hại hoặc thiên địch được đánh giá theo mức
sau:
- : Xuất hiện rất ít, tần số bắt gặp <5% số trụ theo dõi
+ : Xuất hiện ít, tần số bắt gặp 5 – 10% số trụ theo dõi
++ : Xuất hiện thường xuyên, tần số bắt gặp 11 – 35% số trụ theo dõi
+++: Xuất hiện nhiều, tần số bắt gặp 36 – 50% số trụ theo dõi
++++: Xuất hiện rất nhiều, tần số bắt gặp >50% số trụ theo dõi
19
Tần suất bắt gặp hiện được tính theo công thức
B
A (%) = x 100
C
Trong đó: A: Tần suất bắt gặp
B: Số trụ điều tra bắt gặp sâu hại/ thiên địch
C: Tổng số trụ điều tra
c. Lịch điều tra : Định kì điều tra 7 ngày/lần
3.6.3. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu và vẽ đồ thị dựa vào phầm mềm Microsoft Office Excel.
20
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đánh giá hiện trạng canh tác tiêu của nông dân tại các xã Ea Wer, Ea
Bar, Tân Hòa trên địa bàn huyện Buôn Đôn tỉnh Đăk Lăk.
Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp huyện Buôn Đôn, năm 2013 toàn
huyện có 671 ha đất trồng tiêu, trong đó 3 xã: Ea Wer, Tân Hòa và Ea Bar là những
xã có diện tích trồng tiêu lớn nhất với tỷ lệ tương ứng là 26,83%, 25,34% và
21,91%. Các xã có diện tích tiêu hạn chế nhất là Cuôr Knia (8,05%) và Ea Nuôl

(17,88%). Ngoài ra có 2 xã không trồng tiêu là Krông Na và Ea Huar do điều kiện
về đất đai không phù hợp với cây hồ tiêu. Số liệu cụ thể ở các xã được thể hiện qua
bảng sau
Bảng 4.1. Phân bố diện tích trồng hồ tiêu trên địa bàn huyện Buôn Đôn năm
2013
STT Tên xã
Tổng diện
tích tiêu
(ha)
Diện tích
tiêu kinh
doanh (ha)
Năng suất
ước đạt
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
1 Krông Na - - - -
2 Ea Huar - - - -
3 Ea Wer 180 80 2.6 208
4 Tân Hòa 170 110 2.5 275
5 Cuôr Knia 54 25 2.6 65
6 Ea Nuôl 120 60 2.6 156
7 Ea Bar 147 90 2.6 234
Toàn
huyện
671ha 365ha 938 tấn
( Nguồn: Phòng Nông Nghiệp huyện Buôn Đôn, 2013).
Năm 2011, diện tích trồng tiêu của huyện là 340 ha, đạt sản lượng 760 tấn.
Đến năm 2013, diện tích này đã tăng lên đến 671 ha, đạt tốc độ tăng bình quân

40,48% và sản lượng tương ứng là 970 tấn, tốc độ tăng sản lượng bình quân theo đó
cũng tăng lên đến 12,97%. Ngược lại năng suất có xu hướng giảm. Cụ thể, trước
năm 2011, năng suất tiêu đạt 3,5 – 4 tấn/ha nhưng sau đó giảm chỉ còn khoảng 2,6 –
2,8 tấn/ha vào năm 2013. Nguyên nhân chính dẫn đến việc giảm năng suất là do
thời tiết không thuận lợi, sâu hại phát triển mạnh và sự tăng giảm của các yếu tố đầu
vào gây trở ngại cho nông hộ trong việc đầu tư, chăm sóc vườn tiêu.
Kết quả điều tra về hiện trạng canh tác tiêu tại các xã Ea Wer, Tân Hòa, Ea Bar
ghi nhận được: Diện tích hồ tiêu được trồng tập trung ở các xã Ea Wer (40%), Tân
21
Hòa (30%), Ea Bar (30%). Các vườn trồng hồ tiêu có quy mô không lớn. chủ yếu
các vườn có quy mô vừa từ 0,5 đến 1 ha chiếm 66%, dưới 0,5 ha chiếm 20%, trên 1
ha chiếm 14% (bảng 4.2).
Bảng 4.2. Một số thông tin về hiện trạng canh tác tiêu tại các xã Ea Wer, Tân
Hòa, Ea Bar huyện Buôn Đôn Năm 2014
STT Chỉ tiêu ghi nhận Số hộ Mức độ %
1
Diện tích trồng tiêu tại 3 xã
Xã Ea Wer
Xã Tân Hòa
Xã Ea Bar
20
15
15
40
30
30
2
Quy mô trồng tiêu của các hộ điều tra
Nhỏ hơn 0,5 ha
Từ 0,5 – 1 ha

Hơn 1 ha
10
33
7
20
66
14
3
Giống tiêu
Tiêu Sẻ Lộc Ninh
Tiêu Trâu
Tiêu Vĩnh Linh
5
18
27
10
36
54
4
Tuổi vườn tiêu
Dưới 5 năm tuổi
Từ 5 – 10 năm tuổi
Trên 10 năm tuổi
7
28
15
14
56
30
5

Năng suất
2000 – 3000 kg/ha
3000 – 4000 kg/ha
Trên 4000 kg/ha
12
32
6
24
64
12
Ghi chú n = 50
Qua điều tra cho thấy hầu hết các chủ vườn trồng giống tiêu Vĩnh Linh (chiếm
54 %). Giống tiêu Vĩnh Linh có đặc điểm: Lá dạng trung bình chùm quả dài hạt
đóng dày, năng suất cao, ổn định, chất lượng hạt tốt. Chỉ có 10 % số hộ trồng giống
tiêu Sẻ Lộc Ninh, số hộ trồng giống tiêu Trâu chiếm 36 %.
Hồ tiêu là cây công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, các vườn tiêu đa số
ở giai đoạn kinh doanh từ 5 đến 10 tuổi (chiếm 56 %), các vườn tiêu trên 10 năm
tuổi chiếm 30 %. Năng suất hồ tiêu đạt 3000 – 4000 kg/ha (chiếm 64 %).
22
Nghề trồng tiêu đã sớm được hình thành và trở thành một trong những ngành
nghề chủ lực của nông nghiệp huyện. Kết quả điều tra 50 hộ trồng tiêu về kỹ thuật
canh tác được thể hiện ở bảng 4.3.
Bảng 4.3. Hiện trạng kỹ thuật canh tác tiêu của nông dân tại các xã Ea Wer,
Tân Hòa, Ea Bar huyện Buôn Đôn Năm 2014
STT Chỉ tiêu ghi nhận Số hộ Mức độ %
1
Mật độ trồng
3 m x 2,5 m
2,5 m x 2,5 m
2m x 2m

5
13
32
10
26
64
2
Thời vụ trồng
Tháng 6
Tháng 7
32
18
64
36
3
Hình thức trồng
Xen
Thuần
15
35
30
70
4
Loại trụ
Sống
Chết
17
33
34
66

5
Phân bón
Phân xanh
Phân chuồng + NPK
Phân vi sinh+phân chuồng+NPK
4
20
26
8
40
52
6
Làm cỏ
Bằng tay
Dùng thuốc
44
6
88
12
7
Phương pháp tưới
Tưới dí gốc
Tưới béc
45
5
90
10
Ghi chú n = 50
Qua kết quả điều tra ở bảng 4.3 ghi nhận: Với diện tích hạn chế và tập quán
muốn tiết kiệm đất nên đa số các hộ trồng tiêu với khoảng cách trồng khoảng 2m x

23
2m là phổ biến chiếm tỷ lệ 64%. Với khoảng cách trồng là khoảng 2.5 x 2.5m thì
chiếm tỷ lệ 26% và chỉ có 10% hộ trồng với khoảng cách 3 x 2,5 m.
Trụ trồng tiêu được sử dụng đa dạng, trong đó trụ chết chiếm tỉ lệ cao (66%),
trụ sống ít được dùng trong sản xuất chỉ chiếm tỉ lệ 34%. Các vườn tiêu mới được
trồng trong những năm gần đây có sự chuyển hướng sang trồng tiêu trên cây trụ
sống. Một số hộ đã tiến hành trồng tiêu trên trụ sống xen vào trụ chết. Cây được sử
dụng làm cây trụ sống: lồng mức, keo dậu, muồng đen…
Số hom giống được trồng phổ biến là 2 hom/trụ, thời gian bắt đầu trồng hom là
vào khoảng tháng 6-7 dương lịch.
Đa số tiêu được trồng thuần, vườn tiêu có trồng xen chỉ chiếm 30%. Cây trồng
xen trong vườn tiêu chủ yếu là cà phê, nhất là những trồng mới sau năm 2009, khi
giá cà phê trên thị trường bất ổn khiến cho nông dân bị thua lỗ.
Kết quả điều tra trong sản xuất cho thấy, chỉ khoảng 50% số vườn tiêu có hệ
thống các rãnh thoát nước để tiêu nước trong mùa mưa. Biện pháp tưới dí trong bồn
gốc là phương pháp tưới được áp dụng chủ yếu chiếm tỷ lệ tới 90% và thường tưới
vào buổi sáng hoặc chiều mát với chu kì tưới là 7 ngày/lần. Một số hộ có điều kiện,
trong mùa thu hoạch số lần tưới nhiều hơn 3 ngày/lần.
Hầu hết nông dân trồng tiêu trong vùng đều có thể nhận biết được tác hại
không mong muốn của việc sử dụng thuốc trừ cỏ. Vì thế, biện pháp làm cỏ bằng tay
được áp dụng phổ biến chiểm 88% và chỉ có 12% hộ còn sử dụng thuốc trừ cỏ. Tuy
nhiên, việc làm quá sạch cỏ trong vườn tiêu sẽ làm cho cho nước chảy tràn trong
mùa mưa, phát tán nhanh và rộng nấm gây bệnh chết nhanh, chết chậm và tuyến
trùng, gây xói mòn và rửa trôi dưỡng chất trên đất dốc.
Nhìn chung, các hộ nông dân sử dụng phân đạm, phân lân cao hơn khuyến
cáo. Nông dân thường dùng phân hỗn hợp NPK để bón với liều lượng 1,5-2kg/trụ.
Ngoài ra, các loại phân khác như phân vi sinh, Magie, Bo, Zn,… cũng được sử dụng
khá nhiều. Ure được bón thúc vào đầu mùa mưa, kali bón đầu mùa khô, lúc tiêu có
trái non. Lượng phân hữu cơ dùng cho cây tiêu thấp 0.8 - 1kg/trụ.
Trong sản xuất nông nghiệp, dịch bệnh là yếu tố không thể tránh khỏi gây ảnh

hưởng đến hiệu quả kinh tế cũng như thu nhập của hộ nông dân. Hiện nay, tình hình
sâu, bệnh hại trên cây tiêu khá phổ biến trên địa bàn huyện; đã làm giảm sút đáng
24
kể diện tích và năng suất tiêu. Trước thực trạng đó, mỗi nông hộ đều có các biện
pháp phòng trừ, xử lý dịch hại khác nhau.
Bảng 4.4. Hiện trạng bảo vệ thực vật trên cây hồ tiêu của nông dân tại các xã
Ea Wer, Tân Hòa, Ea Bar huyện Buôn Đôn Năm 2014
STT Chỉ tiêu ghi nhận Số hộ Mức độ %
1 Sâu hại chính
Rệp sáp
Bọ xít lưới
Mối
50
34
7
100
68
14
2 Bệnh hại chính
Vàng lá chết nhanh
Vàng lá chết chậm
Thán thư
Tảo đỏ
40
50
50
48
80
100
100

96
3 Thuốc sử dụng trừ sâu hại
Bonus 40 EC
Actara 25 WG
Anboom 40EC
G8 rầy
Furadan 3 H
Diaphos 10 H
25
16
8
14
5
5
50
32
16
28
10
10
4 Thuốc sử dụng trừ bệnh hại
Aliette 80 WP
Ridomil MZ 72 WP
Carbenzim 500 FL
Tilt 250 EC
Viben C 50 BTN
4
16
29
35

14
8
32
58
70
28
5 Liều lượng sử dụng thuốc BVTV
Ít hơn khuyến cáo
Cao hơn khuyến cáo
Theo khuyến cáo
0
5
45
0
10
90
6 Hiệu quả sử dụng thuốc BVTV
Phun xịt liên tục mới hiệu quả
Không rõ hiệu quả
20
30
40
60
Ghi chú: n= 50
25

×