i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
FAO
GCNQSDĐ
KCN
KCX
UBND
GTSX
TTCN
HTX
MNCD
TP
TT
MR
QL
TL
TTCN
TBKT
GPMB
TNHH
SX
NC
THCS
QH
VLXD
KH
STT
HTX
CQ
KD
HN
CD
Các chữ viết tắt
Food Aricultural Organization (Tổ chức
nông lương quốc tế)
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Ủy ban nhân dân
Giá trị sản xuất
Tiểu thủ công nghiệp
Hợp tác xã
Mặt nước chuyên dùng
Thành phố
Thị trấn
Mở rộng
Quốc lộ
Tỉnh lộ
Tiểu thủ công nghiệp
Tiến bộ khoa học kỹ thuật
Giải phóng mặt bằng
Trách nhiệm hữu hạn
Sản xuất
Nâng cấp
Trung học cơ sở
Quy hoạch
Vật liệu xây dựng
Kế hoạch
Số thứ tự
Hợp tác xã
Cơ quan
Kinh doanh
Hàng năm
Chuyên dùng
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, công tác quy lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, được triển khai rộng khắp
trên phạm vi cả nước và đã đạt được một số kết quả nhất định. Quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khơng chỉ cho trước mắt mà
cả lâu dài, việc thực hiện đúng phương án quy hoạch đóng vai trị quyết định tính
khả thi và hiệu quả của phương án quy hoạch sử dụng đất. Thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai phải phù hợp với yêu cầu thực tế phát triển kinh tế xã hội của
từng địa phương. Việc sử dụng đất phải triệt để tiết kiệm, tránh lãng phí quỹ đất,
phân bổ hợp lý quỹ đất cho nhu cầu sử dụng khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt ưu
tiên đất đai cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp.
Tuy nhiên, quá trình triển khai lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất còn nhiều hạn chế bất cập. Việc tổ chức thực hiện phương án quy hoạch
sử dụng đất được phê duyệt còn thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát dẫn
đến tình trạng “quy hoạch treo”. Nhiều phương án quy hoạch chưa dự báo được hết
tốc độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong kỳ quy hoạch, việc bố trí quỹ đất
cho các thành phần kinh tế không sát với với nhu cầu thực tế, dẫn đến qúa trình thực hiện
phải điều chỉnh bổ sung nhiều lần; đặc biệt ở những địa phương có điều kiện thuận lợi về
giao thơng, gần các các cửa khẩu quốc tế Móng Cái và Hồnh Mơ, tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh. (công nghiệp,tiểu thủ công nghiệ, dịch vụ phát triển)
Huyện Tiên Yên được tỉnh Quảng Ninh chọn là địa bàn phát triển kinh tế, xã
hội và là thủ phủ của khu vực Miền Đơng với tính chất như vậy nên cơ cấu đất đai
của huyện trong những năm qua có nhiều biến động. Diện tích đất nơng nghiệp
ngày càng bị thu hẹp để nhường đất cho phát triển cơ sở hạ tầng và các khu thương
mại, dịch vụ, nhiều hộ nơng dân khơng cịn đất để canh tác. Với mục tiêu giúp địa
phương nhìn nhận đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất giai
đoạn 2001- 2010, phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được và những tồn tại
bất cập trong quá trình thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010;
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của phương án quy hoạch sử dụng
2
đất; khắc phục những nội dung sử dụng đất bất hợp lý, đề xuất, kiến nghị điều chỉnh
những nội dung của phương án quy hoạch sử dụng đất không theo kịp những biến
động trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh
giai đoạn 2001-2010 .
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất của huyện Tiên Yên - tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2001 - 2010; tìm ra những yếu tố tích cực, những hạn chế bất
cập trong q trình tổ chức thực hiện phương án quy hoạch.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án quy
hoạch sử dụng đất. Đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế của huyện.
1.3. Yêu cầu
- Số liệu thu thập phục vụ cho luận văn phải khách quan, trung thực và chính xác.
- Qua kết quả nghiên cứu đưa ra được những nguyên nhân của tồn tại, khó
khăn từ đó đưa ra được những giải pháp khắc phục cho phù hợp với tình hính thực
tế tại địa phương.
1.4. Ý nghĩa
Đánh giá việc thực hiện quy hoạch có ý nghĩa trong việc xác lập sự ổn định
về mặt pháp lý của đất đai đối với công tác quản lý của Nhà nước. Quy hoạch sử
dụng đất là căn cứ để giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù
hợp với từng khu vực, đáp ứng nhu cầu đất đai tối ưu nhất cho nhiệm vụ cơng
nghiệp hố- hiện đại hố của đất nước do đó ta cần phải đánh giá được việc thực
hiện quy hoạch sử dụng đất.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học, lý luận của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
Đất đai là một vùng lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất, mảnh
đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên hoặc mới
tạo thành (đặc tính, thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, điạ chất, thuỷ văn, chế độ nước,
nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hố tính...) tạo ra điều kiện nhất
định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần
phải làm quy hoạch - đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm phân
định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất
nhất định, theo Lê Đình Thắng, Trần Tú Cường (2010) [11].
Về bản chất: Đất đai là đối tượng của mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực
sử dụng đất (gọi là mối quan hệ đất đai) và tổ chức sử dụng đất như “tư liệu sản
xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, Quy hoạch sử dụng
đất sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời ba tính chất: kinh tế, kỹ
thuật và pháp chế. Trong đó cần hiểu:
- Tính kinh tế: Thể hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều tra,
khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu...
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất
theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện
pháp của Nhà nước về quản lý và tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, hiệu quả,
khoa học thông qua việc phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng và định hướng
tổ chức sử dụng đất cho các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức và người sử dụng đất
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện đường lối kinh tế của Nhà nước
trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái bền vững (theo Võ Tử Can 2001) [4].
4
Theo FAO [19]: “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng đất
và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội nhằm lựa
chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất là lựa
chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp ứng nhu cầu của con
người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn tài nguyên cho tương lai.
Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu của con người và điều kiện thực
tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ năng sử dụng đất”.
Phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định, xét duyệt là căn cứ để bố trí sử dụng đất, giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đặc biệt là chuyển diện tích trồng
lúa có hiệu quả cao sang các mục đích phi nơng nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản hoặc
trồng cây lâu năm. Như vậy, mục đích của quy hoạch sử dụng đất nhằm tạo ra
những điều kiện về tổ chức lãnh thổ, thúc đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và
vượt mức kế hoạch Nhà nước giao.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đóng vai trị quan trọng, là cơ sở để Nhà
nước thống nhất quản lý đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Nó được xây dựng
trên định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển đô thị, yêu cầu bảo
vệ môi trường, tôn tạo di tích lịch sử văn hố, danh lam thắng cảnh; Hiện trạng quỹ
đất và nhu cầu sử dụng; Định mức sử dụng đất, tiến bộ khoa học kỹ thuật; Kết quả
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kỳ trước. Những năm gần đây, quy
hoạch đã góp phần khơng nhỏ tạo ra kết quả đáng khích lệ, giúp khai thác, sử dụng
đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tiềm năng, nguồn lực về đất, mở
rộng diện tích đất canh tác, nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn lương thực (theo
Nguyễn Thịo Tố Uyên 2010)[13].
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất là quá trình hình thành các
quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi
ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan hệ đất
đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao
hiệu quả sản xuất của xã hội, kết hợp với bảo vệ đất và môi trường [10].
5
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất được tiến hành
nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế hoạch sử
dụng đất chi tiết của mình; xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý
Nhà nước về đất đai; làm cơ sở tiến hành cấp đất và đầu tư phát triển sản xuất, đảm
bảo an ninh lương thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm tổ
chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí
đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ
đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có
rừng); Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá
Vì cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm
hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và hậu quả khó lường về tình hình bất ổn
chính trị, an ninh quốc phịng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường (theo Võ Tử Can 2001) [4].
2.1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính
khống chế vĩ mơ, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp thành
quan trọng của của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân. Các đặc
điểm của quy hoạch sử dụng đất:
* Tính lịch sử - xã hội: Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát
triển của quy hoạch sử dụng đất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương
thức sản xuất xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (mối quan hệ giữa
người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan
hệ giữa người với người trong q trình sản xuất). Trong quy hoạch sử dụng đất
ln nảy sinh mối quan hệ giữa người với đất đai - là sức tự nhiên (như điều tra, đo
đạc, khoanh định, thiết kế...) còng như quan hệ giữa người với người (xác nhận
bằng văn bằng về sở hữu và quyền sử dụng đất giữa người với chủ sử dụng đất GCN QSDĐ). Quy hoạch sử dụng đất thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát
6
triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó
ln là một bộ phận của phương thức sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất mang
tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về pháp lý (là phương
tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất đai: phân chia, tập trung đất đai để
mua, bán, phát canh thu tô...) Ở nước ta, quy hoạch sử dụng đất phục vụ nhu cầu sử
dụng đất và quyền lợi của xã hội; góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất ở
nông thôn; nhằm sử dụng, bảo vệ đất và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội. Đặc
biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch sử dụng đất đã góp phần giải quyết các
mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã hội và mơi trường nảy sinh trong q
trình sử dụng đất, cịng như mâu thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau.
* Tính tổng hợp: Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất thể hiện ở hai
mặt: Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ tài nguyên đất
đai cho nhu cầu toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quy hoạch sử dụng đất đề cập đến
nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế và xã hội như khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội, dân số và đất đai, sản xuất nông, công nghiệp, môi trường sinh thái . . Với đặc
điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu cầu sử dụng đất; Điều
hoà các mâu thuẫn về đất đai của các ngành, lĩnh vực; xác định và điều phối phương
hướng, phương thức phân bổ sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo
đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định.
* Tính dài hạn: Thể hiện ở việc xác định nhu cầu sử dụng đất để phát triển
kinh tế - xã hội lâu dài.
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế xã
hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ khoa học kỹ thuật, đơ thị hố cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp...), từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn
về sử dụng đất đai, đề ra các phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến
lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm, 5 năm
và lâu hơn nữa.
7
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh tế xã hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong thời
gian dài (cùng với phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt được mục tiêu
dự kiến. Thời hạn (xác định phương hướng, chính sách và sử dụng đất để phát triển
kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch sử dụng đất thường từ trên 10 năm đến
20 năm hoặc lâu hơn.
* Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mơ: Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch
sử dụng đất đai chỉ dự kiến được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ
cấu và phân bố sử dụng đất (mang tính đại thể, khơng dự kiến được các hình thức
và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất là quy
hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mơ,
tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất của các ngành như:
- Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng đất
trong vùng;
- Cân đối nhu cầu sử dụng đất của các ngành;
- Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và phân bổ đất đai trong vùng;
- Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất đai trong vùng;
- Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của phương
hướng sử dụng đất.
Do khoảng thời gian dự báo là tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược hoá, quy
hoạch sẽ càng ổn định.
* Tính chính sách: Quy hoạch sử dụng đất thể hiện rất mạnh đặc tính chính
trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và
quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thể hiện cụ thể
trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân, phát triển ổn định kế
hoạch kinh tế - xã hội; Tuân thủ các quy định, chỉ tiêu khống chế về dân số và môi
trường sinh thái.
8
* Tính khả biến: Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đốn trước,
theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất chỉ là một trong những
giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp cho việc
phát triển kinh tế trong thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật
ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến của quy
hoạch sử dụng đất khơng cịn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy
hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của
quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất ln là quy hoạch động, một q trình lặp lại theo
chiều xoắn ốc “quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện...”
với chất lượng, mức độ hồn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
2.1.2. Những nguyên tắc của quy hoạch sử dụng đất.
Với những áp lực và thực trạng sử dụng đất đai hiện nay cho thấy nguồn tài
nguyên đất đai ngày càng khan hiếm và có giới hạn, dân số thế giới gia tăng. Do đó,
địi hỏi phải có sự đối chiếu hợp lý giữa các kiểu sử dụng đất đai và loại đất đai để
đạt được khả năng tối đa về sản xuất ổn định và an toàn lương thực, đồng thời còng
bảo vệ được hệ sinh thái cây trồng và môi trường sống. Quy hoạch sử dụng đất đai
là nền tảng cho q trình này, thơng qua quy hoạch sử dụng đất, Nhà nước thực
hiện chức năng phân phối và tái phân phối quỹ đất nhằm đáp ứng nhu cầu về sử
dụng đất cho các ngành, các đơn vị, cá nhân sử dụng đất và điều chỉnh các mối quan
hệ đất đai. Như vậy quy hoạch sử dụng đất thực hiện đồng thời hai chức năng: điều
chỉnh mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất đặc biệt
được xây dựng dựa trên những nguyên tắc sau:
Một là, Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai
Nguyên tắc này là cơ sở của mọi hoạt động và biện pháp liên quan tới quyền
sử dụng đất, là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất.
Nó khơng chỉ mang tính ý nghĩa kinh tế, mà cịn là một vấn đề chính trị quan trọng,
bởi vì tài ngun đất đã được quốc hữu hoá là đối tượng sở hữu Nhà nước, đồng thời
là căn cứ quan trọng để phát triển sức sản xuất, để củng cố và hoàn thiện phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nông nghiệp.
9
Luật pháp nhà nước tuyệt đối nghiêm cấm việc sử dụng đất khơng đúng mục
đích, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm quyền sử dụng đất và tính ổn định của mỗi
đơn vị sử dụng đất, đó là cơ sở quan trọng nhất để phát triển sản xuất. Theo quy
định tại điều 5 của Luật đất đai năm 2003: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước là đại diện chủ sở hữu. Quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước
được thể hiện theo luật pháp và thể hiện ở nhiều mặt như đại diện chủ quyền quốc
gia về lãnh thổ; quyền giao đất sử dụng ổn định lâu dài cho các tổ chức, hộ gia đình
cá nhân; quyền cho các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước th đất; quyền quyết
định mục đích sử dụng đất; quyền xác định khung giá đất; quyền giám sát, xử lý các
vi phạm pháp luật về đất đai. Để thực hiện quyền quản lý tập trung, thống nhất của
mình, Nhà nước phải nắm và sử dụng tốt các công cụ quản lý cơ bản về quy hoạch
sử dụng đất, cơng cụ tài chính, pháp luật và các chính sách kinh tế khác.
Quy hoạch sử dụng đất cịn có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các
hành vi xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của các đơn vị sử dụng đất. Khi quy hoạch
sử dụng đất, người ta đã thiết lập nên đường ranh giới giữa các đơn vị sử dụng đất,
giữa sản xuất nông nghiệp với khu dân cư, giữa các chủ sử dụng đất với nhau, tức là
đã xác định phạm vi quyền lợi của mỗi chủ sử dụng đất. Nhà nước cho phép các chủ
sử dụng đất có các quyền về sử dụng đất, quyền sử dụng đất của các chủ sử dụng
được xác nhận bằng các văn bản pháp luật và được luật pháp Nhà nước bảo hộ.
Mọi thay đổi trong cơ cấu đơn vị sử dụng đất phải được phản ánh kịp thời trong các
tài liệu thích hợp.
Hai là, sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện tồn tại cơ bản, gắn liền với
hoạt động của con người, của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước, có
vai trị quan trọng với con người. Đất đai có một đặc điểm rất quan trọng là nếu
được sử dụng đúng mục đích và hợp lý thì chất lượng ngày càng tốt lên. Tính chất
đặc biệt này của đất đòi hỏi chúng ta phải hết sức chú ý trong việc sử dụng đất.
Trong điều kiện diện tích đất đai có hạn, trong khi dân số không ngừng tăng nhanh,
gây áp lực lớn đối với việc sử dụng đất đai. Điều này đòi hỏi việc sử dụng đất phải
10
tiết kiệm và hiệu quả. Sử dụng đất tiết kiệm nghĩa là phải bố trí hài hồ giữa nhu
cầu sử dụng đất của các ngành, hạn chế tối đa việc chuyển đất canh tác có hiệu quả
cao sang sử dụng và các mục đích phi nơng nghiệp, đảm bảo an tồn lương thực
quốc gia, thoả mãn nhu cầu nơng sản cho tồn xã hội và ngun liệu cho cơng
nghiệp, đồng thời cân đối quỹ đất thích hợp với nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước, nâng cao chất lượng đất và mở rộng diện tích.
Một trong những vấn đề bảo vệ đất quan trọng nhất là ngăn ngừa và dập tắt
các q trình xãi mịn do gió và nước gây nên. Đặc biệt đối với nước ta với đặc
điểm địa hình đồi núi chiếm tới 3/4 lãnh thổ, lại nằm ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều
và tập trung, nhiệt độ khơng khí cao, các q trình khống hố diễn ra mạnh trong
đất nên dễ bị rửa trôi, xãi mòn, nghèo chất hữu cơ và chất dinh dưỡng dẫn đến suy
thoái; quan trọng hơn nữa trong thời gian qua do nạn chặt phá, đốt rừng diễn ra bừa
bãi, sử dụng đất không bền vững làm cho nhiều vùng đất bị thoái hoá ngày càng
nghiêm trọng, nhiều nơi mất khả năng sản xuất và xu hướng hoang mạc hoá ngày
càng tăng. Những điều này có tác hại rất lớn đối với hoạt động sản xuất nông
nghiệp, nếu chúng ta không có biện pháp chống xãi mịn một cách có hệ thống thì
hậu quả ngày càng lớn. Xãi mịn sẽ làm mất đi lớp đất mặt mầu mỡ nhất. Khi tổ
chức các biện pháp chống xãi mịn cần tính đến các đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng,
thuỷ văn của từng vùng. Tổ hợp các biện pháp chống xãi mòn sẽ được giải quyết
trong một đồ án quy hoạch có luận chứng khoa học.
Nhưng trong lĩnh vực bảo vệ đất, quy hoạch sử dụng đất khơng chỉ làm
nhiệm vụ chống xãi mịn, mà cịn phải chống các q trình ơ nhiễm đất, bảo vệ các
yếu tố của mơi trường thiên nhiên.
Ơ nhiễm mơi trường là vấn đề đáng quan tâm của tồn xã hội. Đất có thể bị ơ
nhiễm bởi chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, nước thải ra từ các nhà máy và
nước thải sinh hoạt từ các đô thị lớn, ơ nhiễm bởi các chất phóng xạ, bởi việc sử
dụng quá mức các hoá chất bảo vệ thực vật độc hại và lạm dụng phân hoá học.
Trong các phương án quy hoạch sử dụng đất cần dự kiến các biện pháp chống ơ
nhiễm một cách có hiệu quả.
11
Để tránh lãng phí, khi cấp đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, trong các
phương án quy hoạch sử dụng đất phải bố trí hợp lý các cơng trình nhà ở và phục vụ
sản xuất theo tinh thần tiết kiệm đất.
Ba là, tổ chức phân bổ quỹ đất cho các ngành đáp ứng mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội.
Khi phân bổ quỹ đất cho các ngành, cần bảo đảm nguyên tắc tổ chức sử dụng
tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung và từng ngành nói
riêng, trong đó ưu tiên cho ngành nông nghiệp.
Sự phát triển của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải,
xây dựng, thuỷ điện, dầu khí... đều địi hỏi phải có đất. Việc bố trí các xí nghiệp
cơng nghiệp, các tuyến giao thơng vận tải, các khu khai thác khống sản và cơng
trình xây dựng lớn thường được dự kiến trước trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân
dài hạn, với tiêu chí: những khoanh đất giao cho các nhu cầu phi nông nghiệp nên lấy từ
đất chưa sử dụng hoặc đất sử dụng kém hiệu quả trong nông nghiệp.
Khi giao đất cho các nhu cầu phi nơng nghiệp, hầu như bao giờ cịng làm
thay đổi cơ cấu sử dụng đất của đơn vị bị mất đất. Do đó, khi xây dựng dự án giao
đất cần lưu ý để hoạt động sản xuất của các cơ sở đó khơng bị hoặc ít bị ảnh hưởng
nhất. Trong trường hợp, nếu việc giao đất cho nhu cầu phi nông nghiệp làm cho cơ
cấu sử dụng đất bị thay đổi nhiều, tổ chức lãnh thổ bên trong bị đảo lộn thì phải quy
hoạch lại tồn bộ hoặc một phần hoặc từng bộ phận cho đơn vị sử dụng đất đó.
Khi đánh giá về mặt kinh tế những hậu quả do việc giao đất gây ra. Chủ sử
dụng đất bị mất đất có quyền địi hỏi chủ được giao đất phải bồi thường toàn bộ
những khoản thiệt hại do việc thu hồi đất và giao đất gây ra và cả những chi phí để
quy hoạch lại. Việc bồi thường những khoản chi phí trên cho chủ bị mất đất là nghĩa
vụ và trách nhiệm của chủ được giao đất.
Bốn là, quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ
hợp lý.
Quy hoạch sử dụng đất được tiến hành theo kế hoạch chung của Nhà nước, của
ngành và của từng đơn vị sử dụng đất cụ thể. Trên cơ sở đó có thể áp dụng các hình thức
12
quản lý kinh tế tiên tiến, ứng dụng các công nghệ mới, các tiến bộ khoa học kỹ thuật
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, hiệu quả sử dụng đất và sử dụng lao động.
Quy hoạch sử dụng đất phải nhằm mục đích tạo ra những điều kiện về tổ
chức lãnh thổ thúc đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế hoạch Nhà
nước giao. Khi quy hoạch sử dụng đất, người ta dự kiến phương hướng sử dụng đất
trong một thời gian dài.
Quy hoạch sử dụng đất phải có sự kết hợp hài hồ nhu cầu sử dụng đất của
các ngành, tổ chức lãnh thổ hợp lý mới giúp cho việc phát triển các ngành cân đối
theo chỉ tiêu và nhu cầu sử dụng đất đã định.
Năm là, phải phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng
lãnh thổ.
Mỗi vùng, mỗi đơn vị sử dụng đất đều có những điểm khác biệt về điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội nên phương án quy hoạch xây dựng phù hợp cho từng
vùng cịng khác nhau. Nếu khơng thì khơng thể tổ chức sử dụng hợp lý đất đai.
Điều kiện tự nhiên là các yếu tố về khí hậu, điều kiện đất đai (địa hình, thổ
nhưỡng), khí hậu, ánh sáng, nguồn nước và các điều kiện khác đây là các yếu tố cơ
bản để xác định cơng dụng của đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc
nhất đối với hoạt động sản xuất nơng nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn việc sử dụng
đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt hiệu ích cao nhất
về kinh tế, xã hội và môi trường.(Nguyễn Đình Bồng 2006)[2]
Trong số các điều kiện kinh tế - xã hội phải kể đến các yếu tố như chế độ xã
hội, dân số, lao động, chính sách đất đai, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh
tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bổ sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải... Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và
xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu
thế tài nguyên thiên nhiên đất đai để đạt tới cơ cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện
tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử
dụng đất đai được bền vững.
13
2.1.3. Một số lý luận về sử dụng đất hợp lý
2.1.3.1. Đất đai và chức năng của đất đai
Định nghĩa đất đai theo Brinkman và Smyth (1976), về mặt địa lý mà nói đất
đai “là một vùng đất chuyên biệt trên bề mặt của trái đất có những đặc tính mang
tính ổn định, hay có chu kỳ dự đốn được trong khu vực sinh khí quyển theo chiều
thẳng từ trên xuống dưới, trong đó bao gồm: khơng khí, đất và lớp địa chất, nước,
quần thể thực vật và động vật và kết quả của những hoạt động bởi con người trong
việc sử dụng đất đai ở quá khứ, hiện tại và trong tương lai”.
Đến năm 1993, trong Hội nghị quốc tế về môi trường ở Rio de janerio,
Brazinl, (1993) [23], đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng
được xác định đất đai là: “diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các
cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó, bao gồm: khí hậu
bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (hồ, sơng, suối, đầm lầy), các lớp trầm
tích sát bề mặt, cùng với nước ngầm và khống sản trong lịng đất, tập đồn thực vật
và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người trong
quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước, hay hệ thống thoát nước, đường
xá, nhà cửa...)
Như vậy, đất đai có thể gồm: Khí hậu, Đất, Nước, Địa hình/địa chất, Thực
vật, Động vật, Vị trí, Diện tích, Kết quả hoạt động của con người. (Theo Lê Quang
Trí 2005) [12].
Theo định nghĩa về đất đai của Luật đất đai năm (2003) [8] thì: “Đất là tài
sản quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động đồng thời còng là
sản phẩm lao động. Đất còn là vật mang của hệ sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái
canh tác, đất là mặt bằng để phát triển nền kinh tế quốc dân.”
Theo FAO (1995), các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và tồn
tại của xã hội loài người được thể hiện qua các mặt như sau: sản xuất, mơi trường
sống, điều chỉnh khí hậu, cân bằng sinh thái, tồn trữ và cung cấp nguồn nước, dự trữ
(ngun liệu, khống sản trong lịng đất); không gian sự sống, bảo tồn, lịch sử; vật
mang sự sống; phân vị lãnh thổ. Như vậy, có thể khái quát. Đất đai là điều kiện chung
14
nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao
động (cho môi trường để tác động như: xây dựng nhà xưởng, bố trí máy móc, làm
đất...), vừa là phương tiện lao động (cho công nhân nơi đứng, dùng để gieo trồng,
nuôi gia súc...). Như vậy, đất không phải là đối tượng của từng cá thể mà chúng ta
đang sử dụng coi là của mình, khơng chỉ thuộc về chúng ta. Đất là điều kiện vật chất
cần thiết để tồn tại và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy trong sử
dụng đất cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau.
Nhu cầu tăng trưởng kinh tế xã hội phát triển mạnh, cùng với sự bùng nổ dân
số đã làm cho mối quan hệ giữa con người và đất ngày càng căng thẳng, những sai
lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (có ý thức hoặc vơ ý thức)
dẫn đến huỷ hoại mơi trường đất, một số chức năng nào đó của đất bị yếu đi. Vấn
đề sử dụng đất đai ngày càng trở nên quan trọng và mang tính tồn cầu. Với sự phát
triển không ngừng của sức sản xuất, chức năng của đất đai cần được nâng cao theo
hướng đa dạng nhiều tầng nấc, để truyền lại cho các thế hệ mai sau. [12]
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã hội
lồi người theo Lê Quang Trí [12], được thể hiện ở các mặt sau:
- Chức năng sản xuất: Đất đai là nền tảng cho hệ thống hỗ trợ sự sống, thông
qua việc sản xuất sinh khối để cung cấp lương thực, thực phẩm chăn nuôi, sợi, dầu,
gỗ và các vật liệu sinh vật sống khác cho con người sử dụng, một cách trực tiếp hay
thông qua các vật nuôi như nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt thuỷ sản vùng ven biển.
- Chức năng về môi trường sống: Đất đai là nền tảng của đa dạng hoá sinh
vật trong đất thông qua việc cung cấp môi trường sống cho sinh vật và nơi dự trữ
nguồn gen cho thực vật, động vật, và vi sinh vật, ở trên và bên dưới bề mặt đất.
- Chức năng điều hồ khí hậu: Đất đai và sử dụng đất đai là nguồn và nơi
chứa khí ga từ nhà kính hay hình thành một sự cân bằng năng lượng toàn cầu giữa
phản chiếu, hấp thu hay chuyển đổi năng lượng bức xạ mặt trời và của chu kỳ thuỷ
văn của toàn cầu.
- Chức năng trữ nước: Đất đai điều hoà sự tồn trữ và lưu thông của nguồn tài
nguyên nước mặt và nước ngầm, và những ảnh hưởng của chất lượng nước.
15
- Chức năng tồn trữ: đất đai là kho chứa các vật liệu và chất khống thơ cho
việc sử dụng của con người.
- Chức năng kiểm soát chất thải và ô nhiếm: Đất đai có khả năng hấp thụ,
lọc, đệm và chuyển đổi những thành phần nguy hại.
- Chức năng không gian sống: Đất đai cung cấp nền tảng tự nhiên cho việc
xây dựng khu dân cư, nhà máy và các hoạt động xã hội như thể thao, nghỉ ngơi.
- Chức năng bảo tồn di tích lịch sử: Đất đai là nơi chứa đựng và bảo vệ các
chứng tích lịch sử văn hố của lồi người, và nguồn thơng tin về các điều kiện khí
hậu và những sử dụng đất đai trong quá khứ.
- Chức năng nối liền không gian: Đất đai cung cấp không gian cho sự vận
chuyển của con người, đầu tư và sản xuất, và cho sự di chuyển của thực vật, động
vật giữa những vùng riêng biệt của hệ sinh thái tự nhiên.
Sự thích hợp của đất cho nhiều chức năng trên thể hiện rất khác nhau ở mọi
nơi trên thế giới. Các khu vực cảnh quan là khu vực tài nguyên thiên nhiên, có động
thái riêng của chúng. Nhưng con người lại có rất nhiều tác động ảnh hưởng đến
động thái này (kể cả không gian và thời gian). Có thể cải thiện chất lượng của đất
cho một hoặc nhiều chức năng, nói chung đất đã và đang bị các hoạt động của con
người gây thối hố.
Mức độ suy thối đất đai có thể tiếp tục xảy ra hay cịng có thể gia tăng thêm
dưới điều kiện ảnh hưởng của con người trong việc thay đổi khí hậu tồn cầu. Sự suy
thối đất có thể được kiểm soát, cải thiện tốt lên hay ngay cả dự trữ cho các loại hình sử
dụng khác nhau một cách rộng rãi, nếu như các chức năng phải được chú ý, các mong
ước điều lợi trước mắt ngắn hạn được thau thế bằng các mong ước lợi nhuận lâu dài và
bền vững ở các cấp từ toàn cầu cho đến quốc gia và địa phương [12].
Sự suy thoái Đất đai đã và đang trầm trọng hơn ở những nơi sử dụng đất đai
khơng có quy hoạch, hay những lý do khác về pháp chế và tài chính làm cho các
quyết định sử dụng đất đai sai hay chỉ có quy hoạch một chiều từ Trung ương
xuống mà khơng có tham khảo ý kiến thực tế của địa phương đưa đến việc khai thác
quá độ nguồn tài nguyên. Hậu quả của các hành động này là làm cho một số lớn
16
người dân địa phương ngày càng gặp khó khăn trong cuộc sống và đồng thời còng
phá huỷ dần hệ sinh thái có giá trị. Như thế, những phương pháp hạn hẹp cần phải
được thay thế bằng một kỹ thuật mới trong quy hoạch và quản lý nguồn tài nguyên
đất đai, đó là tổng hợp hay tổng thể và đặt người sử dụng đất đai là trung tâm. Điều này
sẽ bảo đảm chất lượng lâu dài của đất đai cho con người sử dụng, hạn chế hay có những
giải pháp cho các mẫu chuẩn về mặt xã hội liên quan đến sử dụng đất đai và bảo vệ hệ
sinh thái có các giá trị đa dạng sinh học cao theo Lê Quang Trí 2005 [12].
2.1.3.2. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất
Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng khơng gian lãnh thổ cần thiết) đối
với mọi q trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con
người. Điều này có nghĩa - thiếu khoảnh đất (vị trí, hình thể, quy mơ, diện tích và
u cầu về chất lượng nhất định) thì khơng một ngành nào, một xí nghiệp nào có
thể bắt đầu cơng việc và hoạt động được. Nói khác đi - khơng có đất sẽ khơng có
sản xuất cịng như khơng có sự tồn tại của chính con người.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong các ngành phi nông nghiệp:
Trong các ngành phi nơng nghiệp, đất đai giữ vai trị thụ động với chức năng
là cơ sở không gian và vị trí để hồn thiện q trình lao động, là kho tàng dự trữ
trong lòng đất (các ngành khai thác khống sản). Q trình sản xuất và sản phẩm
được tạo ra khơng phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm
thực vật và tính chất tự nhiên sẵn có trong đất.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong ngành nông nghiệp - lâm nghiệp:
Đất giữ vai trị tích cực trong q trình sản xuất, là điều kiện vật chất, cơ sở
không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu sự tác động trong q trình
sản xuất) và là cơng cụ hay phương tiện hoạt động (sử dụng đất để trồng trọt, chăn
nuôi...). Quá trình sản xuất nơng - lâm nghiệp ln liên quan chặt chẽ với độ phì
nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên trong đất.
Lợi ích của việc sử dụng đất rất đa dạng, song có thể chia thành ba nhóm lợi
ích cơ bản sau:
+ Sử dụng đất làm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để thoả mãn nhu cầu
sinh tồn và phát triển của con người;
17
+ Dùng đất làm cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động;
+ Cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc hưởng thụ
tinh thần.
2.1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
Mục tiêu của việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất là phát huy tối đa tiềm năng đất
đai nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và sự phát triển bền vững. Vì vậy,
phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất vừa bị chi phối bởi các điều kiện quy luật
sinh thái tự nhiên vừa bị chi phối bởi các điều kiện quy luật kinh tế - xã hội và các yếu
tố kỹ thuật. Theo nghiên cứu của Viện điều tra quy hoạch đất đai [16]: có ba nhóm
nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất:
- Nhân tố điều kiện tự nhiên:
Khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt khơng gian cần chú ý đến việc thích ứng
với các điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái của đất còng như của các yếu tố bao
quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, bức xạ, độ ẩm, yếu tố địa hình, thổ nhưỡng,
xãi mịn... để xác định yếu tố hạn chế hay tích cực cho việc sử dụng đất. Trong điều
kiện tự nhiên khí hậu là yếu tố hàng đầu tác động đến việc sử dụng đất đai, sau đó là
điều kiện đất đai và các yếu tố khác.
+ Yếu tố khí hậu: Khí hậu là một thành phần rất quan trọng của hệ sinh thái
đồng ruộng. Nó cung cấp năng lượng chủ yếu cho q trình tạo thành chất hữu cơ,
mang lại năng suất cho cây trồng. Tổng tích ơn nhiều hay ít, nhiệt độ bình quân cao
thấp, sự sai khác nhiệt độ về thời gian và không gian, sự sai khác giữa nhiệt độ tối
cao và tối thấp, sai khác về độ ẩm trong ngày, giữa các mùa trong năm hay các khu
vực khác nhau... trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của
cây trồng, rừng tự nhiên và thực vật thuỷ sinh... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu,
thời gian chiếu dài hay ngắn cịng có tác dụng nhất định tới sinh trưởng, phát triển
và quang hợp của cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh
hay yếu có ý nghĩa quan trọng cho việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất, còng như khả
năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật, gia súc
và thuỷ sản...
18
+ Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt
nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xãi mòn... thường
dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, ảnh hưởng tới sản xuất và phân bổ các
ngành nơng, lâm nghiệp.
Địa hình là yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau. Ở vùng
đồi núi, địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp,
đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống đồng ruộng để thuỷ lợi hố và cơ giới hố. Đối
với ngành phi nơng nghiệp, địa hình quyết định những thuận lợi hay khó khăn của
việc thi cơng cơng trình hay khả năng lưu thơng hàng hố, gián tiếp ảnh hưởng đến
khả năng và quy mô sản xuất.
Đặc thù của điều kiện tự nhiên mang tính khu vực, Vị trí địa lý của vùng với
sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên
khác sẽ quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất đai. Vì vậy,
trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ các quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế
nhằm đạt lợi ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Nhân tố kinh tế xã hội:
Điều kiện kinh tế - xã hội bao gồm các yếu tố: Điều kiện dân số và lao động,
điều kiện vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất xã hội, trình độ quản lý và tổ
chức sản xuất, Sự phát triển của khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chế độ kinh
tế, xã hội.
Các điều kiện tự nhiên của đất đai là cơ sở cho phép xác định khả năng thích
ứng về phương thức sử dụng đất; còn phương hướng sử dụng đất được quyết định
bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Việc sử
dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều
kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có; quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kỹ
thuật và mức độ đáp ứng của chúng...; quyết định bởi nhu cầu thị trường.
Trên thực tế điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thì ít có sự khác biệt nhưng
hiệu quả sử dụng đất thì có sự khác biệt lớn, ngun nhân chủ yếu là do các điều
kiện kinh tế, xã hội: vốn, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng... quyết định; với điều kiện
19
tự nhiên đồng nhất nhưng vùng nào có kinh tế phát triển, vốn đầu tư lớn, nhận thức
và trình độ của người lao động cao thì sử dụng có hiệu quả.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau dẫn đến trình độ sử dụng đất
khác nhau. Khi khoa học cơng nghệ ngày càng phát triển thì hiệu quả sử dụng đất
cịng được nâng lên. Nhờ có thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến mà chúng ta có
những nghiên cứu về lai tạo giống cây trồng cho năng suất cao, phù hợp với điều
kiện sinh thái của từng vùng, chế tạo ra máy móc, cơng cụ sản xuất theo công nghệ
tiên tiến... tạo điều kiện nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất, đảm bảo cho sự phát
triển bền vững.
Từ những lý luận trên cho thấy, các điều kiện kinh tế - xã hội có tác động
khơng nhỏ tới sử dụng đất đai, thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sử dụng đất hiệu
quả của con người. Vì vậy, khi lựa chọn phương án sử dụng đất, ngồi việc dựa vào
quy luật tự nhiên thì các yếu tố kinh tế - xã hội cịng khơng kém phần quan trọng.
- Nhân tố không gian:
Trong thực tế, đất đai là điều kiện không gian đảm bảo hoạt động của bất kỳ
ngành sản xuất nào (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, khai thác khống sản..).
Tính khơng gian của đất đai bao gồm: vị trí địa lý, địa hình, hình dạng, diện tích.
Đất đai phải khai thác tại chỗ nên sự thừa thãi của nơi này không thể sử dụng để
đáp ứng sự thiếu đất ở địa phương khác. Do đó, không gian là yếu tố quan trọng
quyết định hiệu quả của việc sử dụng đất.
Sự bất biến của tổng diện tích đất đai khơng chỉ hạn chế khả năng mỏ rộng
khơng gian sử dụng đất, mà cịn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Điều
này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng được sử dụng căn
cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội nhằm đảm bảo nâng cao
năng lực của đất đai.
Đối với đất xây dựng đô thị, đất dùng cho công nghiệp, xây dựng, nhà
xưởng, giao thông... mặt bằng không gian và vị trí của đất đai có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng và giá trị kinh tế cao.
Như vậy nhân tố không gian ảnh hưởng tới q trình sử dụng đất, nó sẽ gián
tiếp quyết định hiệu quả sử dụng đất.
20
2.1.3.4. Các xu thế phát triển sử dụng đất:
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ nhu
cầu thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng
hợp lý tài nguyên đất, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới lợi ích sinh
thái, kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế
của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định, việc sử dụng đất
theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai.
Với ý nghĩa là nhân tố của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất thể
hiện ở các mặt sau:
- Sử dụng đất hợp lý về khơng gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian
sử dụng đất;
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình thành
cơ cấu kinh tế sử dụng đất;
- Quy mơ sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mơ kinh
tế sử dụng đất;
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp, hình thành việc sử dụng đất một cách
kinh tế, tập trung, thâm canh.
Hiện nay, các xu thế sử dụng đất được phát triển theo các hướng sau:
* Sử dụng đất theo chiều rộng và tập trung:
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người chính là lịch sử biến đổi của quá
trình sử dụng đất. Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những vùng đất có
nước và cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt với những công cụ
sản xuất thô sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, năng lực sử
dụng còng như ý nghĩa kinh tế của đất đai cịng gia tăng. Tuy nhiên, trình độ sử
dụng đất còn rất thấp. Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển kinh tế, kỹ thuật,
văn hoá, khoa học, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một
nâng cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày càng tăng cao,
các ngành nghề còng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng, phạm vi sử
dụng đất được mở rộng.
21
Cùng với việc phát triển đất theo không gian, trong điều kiện gia tăng nhu
cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực thì đất canh tác cịng như đất sử dụng
cho các mục đích khác được sử dụng theo hướng kinh doanh tập trung, với diện tích
ít nhưng hiệu quả sử dụng cao.
Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ từ kinh doanh quảng canh sang kinh doanh
thâm canh cao, để nâng cao sức sản xuất của một đơn vị diện tích, địi hỏi phải liên
tục nâng cao mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và công
tác quản lý.
* Sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp và chun mơn hố
Khoa học kỹ thuật và kinh tế - xã hội phát triển, sử dụng đất từ hình thức
quảng canh chuyển sang thâm canh, kéo theo xu thế từng bước phức tạp hố và
chun mơn hố cơ cấu sử dụng đất.
Khi kinh tế phát triển, nhu cầu của con người về vật chất, văn hố, tinh thần
và mơi trường ngày một cao sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối
vơi đất đai. Khi mức sống còn thấp, việc sử dụng đất chủ yếu tập trung vào sản xuất
nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thường nhật của cuộc sống là đủ cơm ăn, áo mặc và
chỗ ở. Khi đời sống nâng cao, chuyển sang giai đoạn hưởng thụ, vấn đề sử dụng đất
ngoài việc sản xuất vật chất còn phải thoả mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hố, thể
thao và mơi trường... đã làm cho cơ cấu sử dụng đất trở nên phức tạp hơn.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự nhiên
của con người, áp dụng các biện pháp thâm canh, cải tạo và nâng cao sức sản xuất
của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Khi nền kinh tế khoa học kỹ thuật
cịn ở trình độ thấp, chủ yếu sử dụng bề mặt đất đai, nông nghiệp độc canh, trồng
cỏ, khai thác khống sản cịn hạn chế, xây dựng chủ yếu chọn đất bằng. Khi khoa
học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất xấu còng được khai thác triệt để,
hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát triển,... đã làm cho nội dung sử
dụng đất ngày một phức tạp hơn theo hướng sử dụng toàn diện, triệt để các chất
dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và sản phẩm của đất đai để phục vụ cho
lợi ích con người.
22
Hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế hàng hố, dẫn đến sự
phân cơng trong sử dụng đất theo hướng chun mơn hố. Do đất đai có đặc tính
khu vực rất mạnh, sự sai khác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ rệt, phương hướng
và biện pháp sử dụng đất của các vùng còng rất khác nhau. Để sử dụng hợp lý
đất đai, đạt sản lượng và hiệu quả kinh tế cao rất cần có sự phân cơng và chun
mơn hóa theo khu vực. Cùng với việc đầu tư trang thiết bị và ứng dụng công
nghệ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nảy sinh yêu cầu phát triển các vùng
sản xuất nơng nghiệp có quy mơ lớn và tập trung, đồng thời cịng hình thành các
khu vực chun mơn hố sử dụng đất khác nhau về hình thức và quy mơ.
* Sử dụng đất phát triển theo hướng xã hội hoá và cơng hữu hố.
Mỗi vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một sản phẩm và hỗ trợ bổ sung
lẫn nhau đã hình thành nên sự phân cơng hợp tác mang tính xã hội hố sản xuất,
cịng như xã hội hoá việc sử dụng đất đai.
Đất đai là cơ sở vật chất và là công cụ để con người sinh sống và xã hội tồn
tại.. Vì vậy, việc chun mơn hoá theo yêu cầu xã hội hoá sản xuất phải đáp ứng
nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội. Ngay cả ở xã hội
mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi ích của tư nhân, những vùng đất đai hướng
dụng cộng đồng như: nguồn nước, núi rừng, khống sản, sơng ngòi, mặt hồ, biển cả,
hải cảng, danh lam thắng cảnh, động thực vật quý hiếm... vẫn có những quy định về
chính sách thực thi hoặc tiến hành cơng quản, kinh doanh... của Nhà nước nhằm
ngăn chặn, phòng ngừa việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội.
Xã hội hoá sử dụng đất là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự
phát triển xã hội hố sản xuất. Vì vậy, xã hội hố sử dụng đất và cơng hữu hố là xu
thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển và thúc đẩy xã hội hoá sản xuất cao hơn, cần
phải thực hiện xã hội hố và cơng hữu hố sử dụng đất.
2.1.3.5. Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường
Những năm gần đây, sự bùng nổ dân số cùng với sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ đã kéo theo nhu cầu của con người ngày càng cao. Để đáp
ứng nhu cầu trên, con người đã áp dụng những thành tựu, tiến bộ khoa học và sử