DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
A. Giống
Du Giống lợn Duroc
H Giống lợn Hampshire
Lr Giống lợn Landrace
LW Giống lợn LargeWhite
Pi Giống lợn Pietrain
MC Giống lợn Móng Cái
Yr Giống lợn Yorkshire
PD hoặc PiDu Lợn lai giữa Pietrain và Duroc
PD×Lr Lợn lai giữa PiDu và Landrace
PD×Yr Lợn lai giữa PiDu và Yorkshire
LrYr hoặc (Lr×Yr) Lợn lai giữa Landrace và Yorkshire
YrLr hoặc (Yr×Lr) Lợn lai giữa Yorkshire và Landrace
ĐB×MC Lợn lai giữa Đại Bạch và Móng Cái
Yr×MC Lợn lai giữa Yorkshire và Móng Cái
B. Thức ăn
TTTA Tiêu tốn thức ăn
KL Khối lượng
KLCS Khối lượng cai sữa
KLSS Khối lượng sơ sinh
Kg Kilogam
Kg/cm
2
Kilogam/Centimet vuông
G Gam
Cm Centimet
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
SCĐRCS/ổ Số con đẻ ra còn sống/ổ
Cs Cộng sự
SCSS/ổ Số con sơ sinh/ổ
ME Năng lượng trao đổi
Kcal Kilocalo
Pr Protein
(P>0,05); (P<0,05) Độ tin cậy lớn hoặc nhỏ hơn 0,05
% Phần trăm
∑ Tổng
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ VÀ BIỂU ĐỒ
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong cung cấp thực phẩm tiêu
thụ trong nước cũng như xuất khẩu. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống
kê sơ bộ tính tại thời điểm 01/04/2012, tổng đàn lợn của cả nước là 26,7 triệu
con. Trong đó đàn lợn nái khoảng 4,15 triệu con, sản lượng thịt hơi xuất
chuồng đạt 1.936,2 ngàn tấn. Theo ước tính của Cục Chăn nuôi, mỗi tháng cả
nước sản xuất và tiêu thụ khoảng 300 - 320 ngàn tấn thịt lợn hơi. Dự báo,
tổng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng sản xuất trong 06 tháng đầu năm 2012
khoảng hơn 1,78 triệu tấn [13]. Trong đó, sản xuất thịt lợn từ nguồn giống lợn
nhập ngoại, lợn lai theo quy mô công nghiệp ngày một tăng và chiếm tỷ lệ
cao. Điều đó cho thấy chăn nuôi lợn theo hình thức thâm canh có tốc độ tăng
trưởng nhanh và luôn giữ vai trò cực kỳ quan trong việc cung cấp thực phẩm
cho người Việt Nam.
Con giống có vai trò quyết định đến khả năng sản xuất tối đa của con
vật. Để nâng cao năng suất và chất lượng đàn lợn giống thương phẩm thì cùng
với việc sử dụng các giống lợn thuần nổi tiếng thế giới làm nái, việc lai tạo
luôn đem lại hiệu quả không nhỏ. Việc sử dụng các dòng lợn đực mới, có khả
năng sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt nạc cao và tiêu tốn thức ăn thấp cho lai tạo
với các dòng lợn nái có năng suất sinh sản cao sẽ tạo ra các con lai 3 - 4 máu
ngoại có thừa hưởng di truyền tốt từ bố mẹ. Con lai thương phẩm sẽ có khả
năng sinh trưởng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, sức đề kháng với bệnh tật cao
và đặc điểm nổi bật là con lai thương phẩm sẽ có tỷ lệ thịt nạc cao. Theo kết
quả điều tra của Vũ Đình Tôn và cs (2007) [47] ở các hộ chăn nuôi tại một
số tỉnh phía Bắc cho thấy, việc sử dụng đực lai là khá cao (chiếm 36%) trong
cơ cấu đực giống. Các đực lai phối giống với lợn nái các giống ngoại (nái
thuần Landrace (Lr) chiếm 15,60% và Yorkshire (Yr) chiếm 18,9%) để tạo
1
ra con lai 3 máu có năng suất sinh sản cao, sinh trưởng nhanh và tiêu tốn
thức ăn thấp (Phan Xuân Hảo và Hoàng Thị Thúy, 2009 [20]).
Tuyên Quang là một trong những tỉnh có quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ là
chủ yếu. Đàn lợn nái nuôi vẫn chủ yếu là lợn nội và lợn lai F
1
chiếm 80 - 85%
tổng đàn nái. Theo số liệu của chi cục thống kê tỉnh năm 2011, tổng đàn lợn là
427.500 con, trong đó lợn nái là 49.200 con. Vì vậy, ngành chăn nuôi lợn, đặc
biệt là chăn nuôi lợn ngoại ở Tuyên Quang vẫn còn nhiều hạn chế trong công
tác giống dẫn đến năng suất, chất lượng của đàn lợn không ổn định. Do đó,
việc nghiên cứu đánh giá chất lượng đàn nái ngoại đang nuôi tại một số cơ sở
và để tìm ra tổ hợp lai thích hợp cho sản xuất lợn thịt chất lượng cao là một
đòi hỏi mang tính cấp thiết hiện nay. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến
hành đề tài: “Nghiên cứu khả năng sản xuất của lợn nái Landrace,
Yorkshire và con lai (♂PiDu x ♀ Landrace), (♂PiDu x ♀Yorkshire) nuôi
tại Tỉnh Tuyên Quang"
2. Mục đích đề tài
- Theo dõi năng suất sinh sản của lợn nái Landrace và Yorkshire khi
được phối giống với đực PiDu (Pietrain x Duroc).
- Theo dõi khả năng sinh trưởng và sản xuất thịt của con lai (♂PiDu x
♀Landrace) và (♂PiDu x ♀Yorkshire) nuôi tại tỉnh Tuyên Quang.
- Lựa chọn được tổ hợp lai phù hợp khi sử dụng nái Landrace và
Yorkshire phối giống với đực PiDu.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Ưu thế lai và ứng dụng ưu thế lai trong chăn nuôi lợn
Trong chăn nuôi lợn, giống là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định
đến năng suất chất lượng sản phẩm của ngành chăn nuôi. Công tác giống là
công tác kiến thiết cơ bản, trong đó phải đảm bảo phát triển cả hai mặt, tăng
nhanh về số lượng đàn, đồng thời thường xuyên ổn định, nâng cao năng suất
chất lượng đàn lợn. Hai mặt này có liên quan chặt chẽ và thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Trong công tác giống gia súc thì nhân giống thuần chủng có ý
nghĩa quan trọng trong việc cải tạo và hoàn thiện giống. Tuy nhiên lai tạo
giống là một biện pháp nhân giống nhằm nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm từ đó sẽ thúc đẩy hiệu quả trong chăn nuôi nhanh hơn (Nguyễn
Thiện, 2006 [40]).
Để có được những con giống tốt, các nhà làm công tác giống đều
hướng vào việc chọn lọc, ghép đôi giao phối những con giống tốt theo định
hướng sản xuất. Duy trì các đặc tính tốt của từng giống, loại bỏ các đặc tính di
truyền xấu, bổ sung các đặc tính di truyền tốt thì cần áp dụng đồng thời các
biện pháp chọn lọc thuần chủng và lai tạo giống đặc biệt với những tính trạng
có hệ số di truyền cao (h
2
> 0,5).
Khác với gen quy định tính trạng chất lượng ở gia súc, các gen quy
định tính trạng số lượng không biểu hiện như nhau trong các điều kiện khác
nhau. Như cùng một giống lợn nuôi dưỡng trong cùng một điều kiện giống
nhau thì khả năng tăng trọng và thành phần thịt xẻ của chúng tương đương
nhau, nhưng khi nuôi dưỡng chúng trong những điều kiện khác nhau thì khả
năng tăng trọng và thành phần thịt xẻ của chúng rất khác nhau. Điều này có
thể giải thích do các cá thể đều nhận từ bố, mẹ một hệ thống gen quy định
3
nào đó và được xem như là nhận được khả năng di truyền. Tuy nhiên khả
năng di truyền đó có thể được thể hiện hay không là tuỳ thuộc vào điều kiện
ngoại cảnh.
Theo di truyền học, kiểu hình là kết quả tác dụng của kiểu gen với điều
kiện ngoại cảnh.
P = G + E
Trong đó: P: Giá trị kiểu hình
G: Giá trị kiểu gen
E: Điều kiện ngoại cảnh.
Tuỳ theo phương hướng tác động của các gen alen mà giá trị kiểu gen
có thể bao gồm các thành phần khác nhau.
G = A + D+ I
“A” Gọi là giá trị cộng gộp, thành phần quan trọng nhất cố định không
thay đổi có thể di chuyển được và còn được gọi là giá trị giống của cá thể
(Breeding value) là cơ sở di truyền của việc chọn giống.
“D” là tính trội (Dominance) là tác động trội của các cặp alen trong
cùng 1 locus nên không có tính trội thì giá trị di truyền và giá trị cộng gộp là
trùng nhau. Khi xem xét 1 locus duy nhất sự khác nhau giữa giá trị kiểu gen
và giá trị giống A và giá trị di truyền đó chính là sự sai lệch trội D.
Do vậy G = A + D
“I” là các gen của các cặp gen hoặc cùng alen sai lệch tương tác nên
kiểu gen là do từ 2 locus trở lên cấu thành giá trị kiểu gen có thể thêm 1 sai
lệch do sự tương tác giữa các gen trong các locus khác nhau.
Ngày nay, qua các công trình nghiên cứu đều cho thấy, các tính trạng số
lượng mà phần lớn là các tính trạng có ý nghĩa kinh tế như: mức tiêu tốn thức
ăn, khả năng tăng trọng… đều phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố ngoại cảnh. Điều
này là do các biến dị di truyền như biến dị di truyền cộng gộp, tương tác gen
4
đem lại. Những tính trạng di truyền thấp chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện
ngoại cảnh (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1998) [37]. Đối với các
tính trạng số lượng như khả năng tích luỹ nạc, các gen đồng hợp tử quyết định
tính trạng này tăng lên thì khả năng tích luỹ nạc cũng tăng lên. Theo lý thuyết,
ở đàn lợn thuần chủng (chủ yếu ở lợn ngoại), hầu hết có các gen quyết định khả
năng tích luỹ nạc. Khi ta chọn các dòng, giống lợn có khả năng tích luỹ nạc cao
cho giao phối với nhau qua nhiều thế hệ sẽ dẫn đến tăng số gen tương đồng
trong dòng. Đây chính là phương pháp mà các nhà chọn giống sử dụng để cải
tiến nâng cao tỷ lệ nạc ở lợn trong công tác giống hiện nay.
1.1.1.1. Cơ sở khoa học của ưu thế lai
Ưu thế lai đã được Shull nhà di truyền học người Mỹ đề cập đến từ
năm 1914. Sau đó vấn đề ưu thế lai được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng
rãi ở động vật và thực vật. Theo ông, ưu thế lai là tập hợp của những hiện
tượng liên quan đến sức phát triển nhanh hơn, khả năng chống chịu bệnh tốt
hơn và năng suất cao hơn ở thế hệ đời con so với bố mẹ. Hiện nay ở nhiều
nước chăn nuôi lợn phát triển, 70 - 90% lợn nuôi thịt là lợn lai. Chính vì vậy,
ưu thế lai đang được coi là một nguồn lực sinh học để tăng năng suất và hạ
giá thành sản phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên, trong thực tế có khi ưu thế lai bằng
không khi năng suất của con lai chỉ bằng mức trung bình của lợn bố mẹ và
không phải bất cứ cặp lai nào cũng đều cho ưu thế lai. Ưu thế lai không di
truyền và độ lớn của ưu thế lai phụ thuộc vào hệ số di truyền của tính trạng.
Các tính trạng có hệ số di truyền thấp sẽ có ưu thế lai cao và những tính trạng
có hệ số di truyền cao sẽ có ưu thế lai thấp. Để nhận được ưu thế lai tối đa,
cần đảm bảo chắc chắn là con bố và con mẹ là 2 giống thuần khác nhau. Nếu
con bố và con mẹ là con lai thì ưu thế lai sẽ bị giảm đi.
Theo Dickerson (1974) [64], khi lai giữa hai giống con lai chỉ có ưu thế
lai cá thể. Khi lai 3 giống, nếu dùng đực của giống thuần giao phối với nái lai,
5
con lai có cả ưu thế lai cá thể và ưu thế lai của mẹ, do mẹ là con lai F
1
. Nếu
dùng đực lai giao phối với nái của giống thứ ba, con lai có ưu thế lai cá thể và
ưu thế lai của bố, do bố là con lai F
1
. Trong lai bốn giống, con lai có cả ưu thế
lai cá thể, cả ưu thế lai của mẹ và ưu thế lai của bố.
Để đạt được ưu thế lai tối đa thì nhà chọn tạo và lai giống cần tối ưu
hóa các yếu tố để tạo cơ sở khoa học cho tăng năng suất chăn nuôi. Thông
thường ưu thế lai chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
* Tổ hợp lai: Ưu thế lai đặc trưng cho mỗi tổ hợp lai. Theo Trần Đình
Miên và cs (1994) [26], mức độ ưu thế lai đạt được có tính cách riêng biệt cho
từng cặp lai cụ thể. Theo Trần Kim Anh (2000) [1], ưu thế lai của mẹ có lợi
cho đời con, ưu thế lai của lợn nái ảnh hưởng đến số con/ổ và tốc độ sinh
trưởng của lợn con. Ưu thế lai cá thể ảnh hưởng đến sinh trưởng và sức sống
của lợn con, đặc biệt ở giai đoạn sau cai sữa. Ưu thế lai của bố thể hiện tính
hăng của con đực, kết quả phối giống, tỷ lệ thụ thai. Khi lai hai giống, số lợn
con cai sữa/nái/năm tăng 5 - 10%, khi lai 3 giống hoặc lai trở ngược số lợn
con cai sữa/nái/năm tăng tới 10 - 15%, số con cai sữa/ổ nhiều hơn 1,0 - 1,5
con và khối lượng cai sữa/con tăng được 1 kg ở 28 ngày tuổi so với giống
thuần (Colin, 1998) [62].
* Tính trạng: Ưu thế lai phụ thuộc vào tính trạng, có những tính trạng
có khả năng di truyền cao nhưng cũng có những tính trạng có khả năng di
truyền thấp. Những tính trạng liên quan đến khả năng nuôi sống và khả năng
sinh sản có ưu thế lai cao nhất. Các tính trạng có hệ số di truyền thấp thường
có ưu thế lai cao, vì vậy để cải tiến các tính trạng này, so với chọn lọc, lai
giống là một biện pháp nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Một số tính trạng ở lợn có ưu thế lai khác nhau: số con đẻ ra/ổ có ưu
thế lai cá thể là 2%, ưu thế lai của mẹ là 8%; số con cai sữa có ưu thế lai cá
thể 9%, ưu thế lai của mẹ là 11%; khối lượng cả ổ ở 21 ngày tuổi có ưu thế lai
cá thể 12%; ưu thế lai của mẹ 18% (Richard, 2000) [91].
6
* Sự khác biệt giữa bố và mẹ: Ưu thế lai phụ thuộc vào sự khác biệt
giữa hai giống đem lai, hai giống càng khác biệt với nhau về di truyền bao
nhiêu thì ưu thế lai thu được khi lai giữa chúng càng lớn bấy nhiêu.
Thông thường thì các giống có nguồn gốc càng xa nhau về điều kiện
địa lý thì ưu thế lai càng cao. Ưu thế lai của một tính trạng nhất định phụ
thuộc đáng kể vào ngoại cảnh. Có nhiều yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến gia
súc, cũng như ảnh hưởng đến biểu hiện của ưu thế lai.
1.1.1.2. Ưu thế lai trong chăn nuôi lợn
Trước đây, trong chăn nuôi quảng canh người ta thường nuôi lợn có tỷ
lệ nạc thấp, tận dụng thức ăn thừa, phế phụ phẩm nông nghiệp. Khi nhu cầu
về thịt nạc tăng thì các nhà chăn nuôi chú ý đến việc lai tạo với các giống lợn
ngoại cao sản, nuôi thuần các giống lợn ngoại siêu nạc.
Những năm gần đây, nhiều giống lợn ngoại có năng suất cao đã được
nhập nội vào Việt Nam. Đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả các chương trình
giống tối ưu, việc nâng cao chất lượng lợn giống đã và đang được tiến hành
một cách tích cực. Đàn lợn cụ kỵ nhập nội này đã được nuôi thích nghi và sử
dụng trong nhiều năm qua và nay được làm tươi máu nhằm nâng cao năng
suất. Lai tạo là biện pháp nhân giống nhằm nâng cao năng suất và phẩm chất
sản phẩm thông qua ưu thế lai. Hiện nay, ở nhiều nước có chăn nuôi lợn phát
triển 70 - 90% lợn nuôi thịt là lợn lai hybrid. Tại đó ưu thế lai được coi là môi
trường nguồn lực sinh học để tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm chăn
nuôi (Nguyễn Thiện, 2006) [40]. Tuy nhiên việc kết hợp giữa hai giống nào
có ưu thế cao phụ thuộc vào sự lựa chọn, xác định ưu thế lai của tổ hợp lai
dựa trên giá trị giống.
Tại Việt Nam hiện nay, rất nhiều chương trình lai tạo ra lợn nuôi thịt 4
và 5 giống do công ty PIC thực hiện. 3 dòng thuần đàn cụ kỵ là dòng L11
(giống Yorkshire chuyên hóa theo tăng khối lượng, tỷ lệ nạc), dòng L06
7
(giống Landrace chuyên hóa theo khả năng sinh sản) và dòng L64 (giống
Pietrain chuyên hóa theo tỷ lệ nạc cao) và 2 dòng tổng hợp là L19 và L95 hiện
nay đang được sử dụng để tạo ra các dòng giống tốt có tiềm năng năng suất và
chất lượng cao.
Để tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 và 5 giống, người ta thường cho lợn đực
giống dòng 402 lai với lợn nái CA và C22. Lợn đực 402 được tạo ra từ việc
cho lai tạo giữa lợn đực dòng L64 và lợn nái dòng L11. Lợn nái C22 và CA
thuộc cấp giống bố mẹ được tạo ra bằng cách cho lai giữa lợn đực L19 với lợn
nái C1050 và C1230.
Khi cho lai giữa lợn đực dòng 402 với lợn nái CA sẽ tạo ra con lai
hybrid 5 máu để nuôi thịt. Lợn lai hybrid nuôi thịt 4 hoặc 5 giống có năng
suất cao, phẩm chất tốt (tỷ lệ nạc cao), phù hợp với phương thức nuôi công
nghiệp hiện nay, được thị trường ưa chuộng.
Đối với giống lợn ngoại, hiện nay ở nước ta đang phổ biến 3 công thức
lai sau:
- Lợn lai 3 máu: Yorkshire - Landrace - Duroc, loại này phổ biến ở các
tỉnh phía Bắc (Đồng bằng Sông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ). Công thức lai
tạo lợn thương phẩm lai 3 giống ngoại ông bà như sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 3 giống ngoại
Yr, Lr
Lr, Yr
Dr
LrYr,
YrLr
YrLrDr
LrYrDr
8
- Lợn lai 4 máu: Yorkshire - Landrace - Duroc - Pietrain, loại này phổ
biến ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long. Công thức này thường cho 2 giống lợn thành 1 cặp lai sau đó con của 2
cặp đã kết hợp với nhau tạo ra con lai 4 máu. Cặp 1: Yr x Lr ⇒ F
1
làm dòng
mẹ. Cặp 2 Pietrain × Duroc (hoặc 1 dòng cái tổng hợp) để tạo ra dòng bố (hay
còn gọi là đực cuối - đực lai cuối cùng). Ví dụ: Đực 402 (PIC) đực Maxter;
đực SP, đực Pi4… của Công ty Pran HyBit Việt Nam. Sau đó dòng mẹ ♀ × ♂
dòng bố lai với nhau.
- Lợn lai 5 máu: gồm các dòng L95 - L11 - L06 - L19 - L64. Hiện nay,
dòng giống lợn lai này được Trại giống cụ kỵ Tam Điệp, Ninh Bình của Viện
Chăn nuôi triển khai. Con giống loại này phổ biến ở một số tỉnh Đồng bằng
sông Hồng (Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên, ).
+ Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 4, 5 giống ngoại
Sơ đồ 1.2. Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 4, 5 giống ngoại
GP
1230
GPT
1050
CA
c
C22
z
5 máu
4 máu
L19
E,M
L19
Duroc
L06
Lr
L11
Yr
L64
Pi
L95
Meishan
L64
Pietran
9
1.1.2. Đặc điểm về sinh trưởng và phát dục của lợn
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ trong cơ thể. Đó là sự
tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang và khối lượng các bộ phận của toàn
bộ cơ thể con vật trên cở sở bản chất di truyền của đời trước quy định. (Trần
Đình Miên, 1975) [25]. Trong chăn nuôi lợn, khả năng sinh trưởng của lợn
liên quan tới khối lượng cai sữa, khối lượng xuất chuồng, ảnh hưởng rất lớn
đến giá thành và hiệu quả chăn nuôi.
Các sinh vật sinh ra và lớn lên gọi là sự phát triển của sinh vật. Sinh vật
sống biểu thị tính cảm ứng, tính sinh sản, tính phát triển, tính tạo ra năng
lượng, tính hao mòn và chết. Đặc điểm của sinh vật là hấp thu, sử dụng năng
lượng của môi trường xung quanh làm thành chất cấu tạo cơ thể của mình, để
lớn lên và phát triển. Do vậy các giống gia súc khác nhau thì có quá trình sinh
trưởng khác nhau, chủ yếu là quá trình tích luỹ protein.
* Đặc điểm sinh trưởng phát dục: Lợn con có tốc độ sinh trưởng phát
dục rất nhanh. Theo dõi tốc độ tăng trưởng của lợn con thấy rằng, khối lượng
lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 2 lần khi sơ sinh, lúc 21 ngày tuổi gấp 4 lần, lúc
30 ngày tuổi gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi gấp
10 lần, lúc 60 ngày tuổi gấp 12 - 14 lần. Lợn con có tốc độ sinh trưởng nhanh
nhưng không đồng đều qua các giai đoạn. Tốc độ nhanh nhất là lúc 21 ngày
đầu, sau 21 ngày tốc độ giảm xuống. Có sự giảm này là do nhiều nguyên nhân
nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm, thời gian bị giảm sinh
trưởng thường kéo dài 2 tuần, còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của lợn con.
Do khả năng sinh trưởng phát dục nhanh nên khả năng tích lũy các chất dinh
dưỡng rất mạnh lợn con ở 20 ngày tuổi có thể tích lũy mỗi ngày 9 - 14 g
protit/kg khối lượng cơ thể (Trần văn Phùng và Hà Thị Hảo, 2004 ) [30].
* Đặc điểm phát triển cơ quan tiêu hóa: Cùng với sự tăng lên của khối
lượng cơ thể còn có sự phát triển của các cơ quan trong cơ thể, trong đó có cơ
10
quan tiêu hóa của lợn phát triển nhanh nhưng chưa hoàn thiện. Sự phát triển
thể hiện sự tăng nhanh dung tích dạ dày, ruột non, ruột già. Cơ quan tiêu hóa
của lợn con chưa hoàn thiện do một số men tiêu hóa thức ăn chưa có hoạt tính
mạnh, nhất là ở 3 tuần đầu sau khi sinh như: Pepsin, Maltaza, Saccraza. Nói
chung lợn con bú sữa chỉ có khả năng tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong sữa
mẹ còn khả năng tiêu hóa các thức ăn khác kém. Trong dịch vị của lợn con
mới đẻ trong khoảng 20 - 25 ngày thiếu HCl. Lợn con 3 - 4 tuần tuổi thì dạ
dày chưa có HCl tự do, vì lúc này lượng HCl tiết ra ít và nó nhanh chóng kết
hợp với dịch dạ dày. Hiện tượng thiếu HCl này là đặc điểm quan trọng trong
quá trình tiêu hóa ở dạ dày. Dịch vị thu được ở lợn con 7 ngày tuổi có độ pH:
2,8; ở 10 ngày tuổi có độ pH: 2,8 - 3,1; ở 12 ngày tuổi có pH: 2,7; ở 20 ngày
tuổi có pH; 2,4 - 2,7. Như vậy là lượng HCl là rất ít tạo điều kiện cho hệ vi
sinh vật phát triển mạnh gây ra hội chứng tiêu chảy đặc biệt là bệnh lợn con
phân trắng (Trần Văn Phùng và Hà Thị Hảo, 2004 ) [30].
* Khả năng sinh sản của lợn: Lợn là loài gia súc đa thai có khả năng
đẻ nhiều con mỗi lứa và nhiều lứa trong một năm. Lợn mỗi lứa có thể đẻ
được từ 6 - 14 con tuỳ theo từng giống. Sở dĩ lợn có thể đẻ được nhiều con
mỗi lứa là do số trứng rụng mỗi lần động dục là từ 18 - 30 trứng (bình quân
là từ 20 - 25 trứng). Số lượng trứng cũng tăng dần theo lứa đẻ của lợn và
đạt cao cho đến lứa thứ 7, thứ 8. Tuy nhiên số lượng con đẻ ra thường thấp
hơn số trứng rụng là do số hợp tử tạo thành ít và có một số phôi bị chết
trong thời kỳ có chửa. Mỗi năm lợn cũng có thể đẻ được nhiều lứa (2,0 -
2,5 lứa), tuỳ theo thời gian cai sữa cho lợn con. Lợn nội thành thục về tính
sớm lúc 3 - 4 tháng tuổi và có thể đưa vào sử dụng lúc 8 tháng tuổi. Lợn
nái ngoại thường thành thục về tính muộn hơn nhưng cũng có thể đưa vào
sử dụng lúc 9 - 10 tháng tuổi. Lợn nái bình thường có thể sử dụng tới 4
năm (Vũ Đình Tôn và Võ Trọng Thành, 2006) [46].
11
* Khả năng miễn dịch của lợn: Lợn con đẻ ra hầu như chưa có kháng
thể, lượng kháng thể tăng lên nhanh sau khi bú sữa đầu. Khả năng miễn dịch
của lợn con hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu vào
được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ. Do đó lợn con cần được bú sữa đầu
càng sớm càng tốt. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày
tuổi cơ thể chúng mới có khả năng tự tổng hợp kháng thể. Vì vậy những lợn
không được bú sữa đầu thì sức đề kháng rất kém, tỷ lệ chết cao (Trần Văn
Phùng và Hà Thị Hảo, 2004 ) [30].
Trong chọn tạo giống chăn nuôi lợn, hiểu được quá trình sinh trưởng,
nhất là quá trình tạo nạc và mỡ sẽ giúp cho người chăn nuôi lợi dụng được
các đặc tính sẵn có của lợn. Tốc độ tăng trưởng của gia súc thường khác nhau,
tỷ lệ các phần mỡ, cơ, xương trên lợn cùng lứa tuổi có khối lượng khác nhau
hay bằng nhau đều phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng và các giai đoạn sinh
trưởng của gia súc. Giai đoạn đầu từ sơ sinh đến 5 tháng tuổi. Trong giai đoạn
này, lợn chủ yếu là tích luỹ cơ và khoáng chất, đặc biệt là sự phát triển của cơ.
Mô cơ bao gồm một số sợi cơ nhất định liên kết với nhau thành bó, có vỏ liên
kết bao bọc. Ở giai đoạn còn non, lợn có nhiều mô cơ liên kết và sợi cơ,
nhưng càng lớn thì tỷ lệ cơ giảm. Giai đoạn mới sinh thớ cơ mỏng, do đó bó
cơ cũng như cấu trúc của thịt tốt, khi khối lượng cơ thể tăng theo tuổi thì sợi
cơ dày thêm và bó cơ trở lên lớn hơn. Tuy nhiên đến giai đoạn cuối từ 60 - 70
kg trở đi, khả năng tích luỹ cơ giảm dần, tốc độ tích luỹ mỡ tăng lên, mức độ
tăng này tuỳ thuộc vào tốc độ tích luỹ mỡ dưới da, vì lượng mỡ dưới da chiếm
2/3 tổng số mỡ trong cơ thể (Jurgens, 1993) [77].
Theo Pfeifer và cs (1984) [90] cùng với sự tăng lên về khối lượng thì tỷ lệ
vật chất khô và tỷ lệ mỡ cũng tăng lên, đồng thời tỷ lệ protein giảm nhẹ và tăng
protein cao nhất đạt được ở khối lượng 40 - 70 kg, sau đó giảm dần. Do vậy, ở
lợn đang lớn, quá trình tổng hợp protein tăng dẫn đến làm tăng sự tạo thành nạc.
12
Để theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng của vật nuôi cần định lượng
chúng định kỳ bằng cân, đo các cơ quan, bộ phận hay toàn cơ thể con vật.
Khoảng cách giữa các lần cân, đo này phụ thuộc vào loài vật nuôi và mục
đích theo dõi. Thông thường để đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn từ
giai đoạn sơ sinh đến 60 ngày tuổi thường đánh giá qua các chỉ tiêu: Khối
lượng sơ sinh/ổ (kg); Khối lượng 21 ngày/ổ (kg); Khối lượng cai sữa/ổ (kg);
Tăng trọng từ sơ sinh đến cai sữa (g); Tăng trọng từ cai sữa đến 60 ngày tuổi
(g). Đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn thịt thường dùng các chỉ tiêu:
Tuổi bắt đầu nuôi (ngày); Khối lượng bắt đầu nuôi (kg); Tuổi kết thúc nuôi
(ngày); Khối lượng kết thúc nuôi (kg); Tăng trọng/ngày nuôi (g); Tiêu tốn
thức ăn/ kg tăng trọng (kg).
Để đánh giá chất lượng thân thịt của lợn người ta sử dụng các chỉ tiêu
về thân thịt và chất lượng thịt. Đối với thân thịt, các chỉ tiêu quan trọng như tỷ
lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, chiều dài thân thịt, tỷ lệ nạc, độ dày mỡ lưng và diện
tích cơ thăn. Các chỉ tiêu chất lượng thịt bao gồm tỷ lệ mất nước, màu sắc
thịt, cấu trúc cơ, mỡ dắt, pH của cơ thăn ở 45 phút và 24 giờ sau khi giết thịt
(Reichart và cs, 2001) [92].
1.1.2.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng
Tính trạng về khả năng sinh trưởng và cho thịt của vật nuôi nói chung và
của lợn nói riêng được gọi chung là tính trạng sản xuất và chúng hầu hết là tính
trạng số lượng do đó nó chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền và ngoại cảnh.
* Ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền
Các giống khác nhau có quá trình sinh trưởng khác nhau, tiềm năng
di truyền của quá trình sinh trưởng của các gia súc được thể hiện thông qua
hệ số di truyền. Hệ số di truyền đối với tính trạng khối lượng sơ sinh và
sinh trưởng trong thời gian bú sữa dao động từ 0,05 - 0,21, hệ số di truyền
này thấp hơn so với hệ số di truyền của tính trạng này trong thời kỳ vỗ béo
(từ 25 - 95 kg).
13
Tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn có mối tương quan di truyền
nghịch và khá chặt chẽ đã được nhiều tác giả nghiên cứu kết luận, đó là: -0,51
đến -0,56 (Nguyễn Văn Đức và cs, 2001) [15]; - 0,715 (Nguyễn Quế Côi và
cs, 1996) [10].
Hệ số di truyền về tiêu tốn thức ăn ở mức trung bình. Tuy nhiên, tiêu
tốn thức ăn có thể dễ dàng được cải thiện thông qua chọn lọc và nó thường
là một chỉ tiêu quan trọng trong chương trình cải tiến giống lợn. Tác giả
Kovalenko và Yaremenko (1990) [79] công bố con lai (DLW) D có mức
tiêu tốn thức ăn là 3,55 kg/kg tăng trọng, trong khi con lai LW chỉ tiêu này
đạt 2,5 kg/kg tăng trọng. Tính trạng này được quan tâm chọn lọc và có xu
hướng ngày càng giảm.
Đối với các chỉ tiêu giết thịt như tỷ lệ móc hàm, chiều dài thân thịt, tỷ
lệ nạc, độ dày mỡ lưng, diện tích cơ thăn có hệ số di truyền cao (h
2
= 0,3 -
0,35) (Sellier và cs, 1998) [96]. Đối với độ dày mỡ lưng, hệ số di truyền dao
động ở mức độ trung bình đến cao, từ 0,3 - 0,7 (Johnson và cs, 1999 [76]),
nên việc chọn lọc cải thiện tính trạng này có nhiều thuận lợi. Mc.Kay, 1990
[83] cho rằng việc chọn lọc nhằm tăng khả năng tăng khối lượng và giảm dày
mỡ lưng không làm ảnh hưởng đến chỉ tiêu số con sơ sinh trên ổ.
Tỷ lệ nạc là một tính trạng có hệ số di truyền cao, dao động từ 0,3 - 0,8.
Johnson (1985) đã công bố hệ số di truyền đối với tính trạng tỷ lệ nạc trên
8.234 lợn Landrace là 0,7 và trên 4.448 lợn Yorkshire là 0,81. Hovenier và cs
(1992) [73] khi nghiên cứu theo dõi trên lợn Duroc và Yorkshire cho biết hệ
số di truyền về tỷ lệ nạc là 0,63.
Đối với các chỉ tiêu thân thịt thì hệ số di truyền của tỷ lệ móc hàm là
thấp nhất (h
2
= 0,3 - 0,35) và chiều dài thân thịt là cao nhất (h
2
= 0,56 - 0,57).
Các chỉ tiêu về chất lượng thịt như tỷ lệ mất nước, màu sắc thịt, cấu trúc cơ,
thành phần hoá học của cơ, pH 45 phút, pH 24 giờ sau khi giết thịt có hệ số di
14
truyền từ 0,1 - 0,3 (Sellier và cs, 1998) [96]. Bên cạnh hệ số di truyền còn có
một mối tương quan giữa các tính trạng. Tương quan di truyền giữa một số
cặp tính trạng là thuận và chặt chẽ như tăng trọng và thu nhận thức ăn (r =
0,65) (Clutter và Brasscamp, 1998) [61], tỷ lệ nạc với diện tích cơ thăn (r =
0,65). Bên cạnh đó là các tương quan nghịch và chặt như tỷ lệ nạc với độ dày
mỡ lưng (r = - 0,87) tỷ lệ mất nước với pH 24 giờ (r = - 0,71) và với khả năng
giữ nước (r = - 0,94) (Sellier và cs, 1998) [96]. Ngoài ra, hàng loạt các thông
báo của nhiều nhà khoa học đã xác nhận các chỉ tiêu thân thịt như tỷ lệ móc
hàm, tỷ lệ nạc, độ dày mỡ lưng, chiều dài thân thịt và diện tích cơ thăn ở các
giống khác nhau là khác nhau. Chẳng hạn như ở lợn Landrace có chiều dài
thân thịt dài hơn so với ở lợn Large White là 1,5 cm; ngược lại, tỷ lệ móc hàm
ở Large White lại cao hơn so với Landrace (Hammell và cs, 1993) [69].
Về phương diện sinh trưởng và cho thịt ở lợn, mối quan tâm chủ yếu
tới nhân tố di truyền chính là việc tạo ra ưu thế lai. Chính vì vậy mà hầu hết
đàn lợn thương phẩm ở các nước là lợn lai. Con lai có ưu thế lai cao hơn bố
mẹ về tăng trọng 10% (Sellier và cs, 1998) [96].
Bên cạnh giống và ưu thế lai, các tính trạng nuôi vỗ béo, thân thịt và
chất lượng thịt cũng bị chi phối bởi một số gen như gen halothan, tính nhạy
cảm stress với halothan chủ yếu làm giảm nhanh pH trong cơ sau khi giết thịt.
Điều này làm tăng thịt PSE ở các lợn mắc hội chứng stress.
* Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh
Ngoài các yếu tố di truyền, các yếu tố môi trường cũng ảnh hưởng rất
lớn đến các tính trạng sinh trưởng và cho thịt của lợn.
+ Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng
Dinh dưỡng là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong các nhân
tố ngoại cảnh, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và cho thịt ở lợn.
Trong chăn nuôi chi phí cho thức ăn chiếm 70 - 80% giá thành sản phẩm, do
15
đó chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh
tế sẽ cao và ngược lại, qua nghiên cứu và thực tế cho thấy vật nuôi có khả
năng sinh trưởng tốt do khả năng đồng hóa cao, hiệu quả sử dụng thức ăn cao
thì tiêu tốn thức ăn thấp, do đó thời gian nuôi sẽ được rút ngắn tăng số lứa
đẻ/nái/năm. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng chính là tỷ lệ chuyển hóa
thức ăn của cơ thể. Chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn và tăng khối lượng có mối
tương quan nghịch do đó khi nâng cao khả năng tăng khối lượng có thể sẽ
giảm chi phí thức ăn.
Mối quan hệ giữa năng lượng và protein trong khẩu phần là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng khối lượng. Đảm bảo cân đối dinh dưỡng thì
con vật mới phát huy được tiềm năng di truyền của nó. Thức ăn và giá trị dinh
dưỡng là các nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất và chất lượng thịt
của con vật.
Ngoài ra, phương thức nuôi dưỡng cũng có ảnh hưởng đến khả năng
sản xuất của con vật. Khi cho lợn ăn khẩu phần ăn tự do, khả năng tăng khối
lượng nhanh hơn, tiêu tốn thức ăn thấp hơn nhưng dày mỡ lưng lại cao hơn
khi lợn được ăn khẩu phần ăn hạn chế. Lợn cho ăn khẩu phần thức ăn hạn chế
có tỷ lệ nạc cao hơn lợn cho ăn khẩu phần thức ăn tự do (Nguyễn Nghi và Bùi
Thị Gợi, 1995 [27]).
+ Ảnh hưởng của tính biệt
Lợn cái, lợn đực hay lợn đực thiến đều có tốc độ phát triển và cấu thành
của cơ thể khác nhau. Lợn đực có khối lượng nạc cao hơn lợn cái và đực
thiến. Tuy nhiên, nhu cầu về năng lượng cho duy trì của lợn đực cũng cao hơn
lợn cái và lợn đực thiến. Một số công trình nghiên cứu khác lại cho rằng lợn
đực thiến có mức độ tăng khối lượng cao hơn, tiêu tốn thức ăn thấp hơn
(Campell và cs, 1985 [60]).
16
+ Ảnh hưởng của chuồng trại
Cơ sở chăn nuôi và chuồng trại cũng ảnh hưởng đến khả năng sản xuất
và chất lượng thịt. Cơ sở chăn nuôi biểu thị tổng hợp chế độ quản lý, chăm
sóc nuôi dưỡng đàn lợn. Thông thường, lợn bị nuôi chật hẹp thì khả năng tăng
khối lượng thấp hơn lợn được nuôi trong điều kiện chuồng trại rộng rãi.
Nghiên cứu của Brumm và Miller (1996) [59] cho thấy diện tích
chuồng nuôi 0,56m
2
/con thì lợn ăn ít hơn và tăng khối lượng cũng chậm hơn so
với lợn được nuôi với diện tích 0,78 m
2
/con, năng suất của lợn đực thiến đạt tối
đa khi nuôi ở diện tích 0,84 - 1m
2
. Nielsen và cs (1995) [85] cho biết lợn nuôi
đàn thì ăn nhanh hơn, lượng thức ăn trong một bữa được nhiều hơn nhưng số
bữa ăn trong ngày lại giảm và lượng thức ăn thu nhận hàng ngày lại ít hơn so
với lợn nuôi nhốt riêng từng ô chuồng.
Các tác nhân stress có ảnh hưởng xấu đến quá trình trao đổi chất và sức
sản xuất của lợn, đó là điều kiện chuồng nuôi, khẩu phần ăn không được đảm
bảo, chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc kém, vận chuyển, phân đàn, tiêm phòng,
điều trị, thay đổi khẩu phần ăn (Wood, 1986 [101]).
+ Ảnh hưởng của tuổi và khối lượng giết mổ
Khả năng sản xuất và chất lượng thịt cũng phụ thuộc vào tuổi và khối
lượng lúc giết thịt. Giết thịt ở độ tuổi lớn hơn thì chất lượng thịt sẽ tốt hơn do
sự tăng lên của các mô trong giai đoạn cuối của thời kỳ trưởng thành. Song
không nên giết thịt ở độ tuổi quá cao vì lợn sau 6 tháng tuổi khả năng tích luỹ
mỡ lớn, dẫn đến tỷ lệ nạc thấp và hiệu quả kinh tế kém.
Chất lượng thịt lợn cũng thay đổi theo tuổi giết thịt là do thành phần cơ
thể phát triển khác nhau ở từng giai đoạn. Mô cơ phát triển rất mạnh ngay từ
khi còn rất nhỏ nhưng tốc độ giảm dần, còn mô mỡ tốc độ tích luỹ ngày càng
tăng. Tính từ khi sinh ra đến 7 tháng tuổi khối lượng lợn tăng khoảng 100 lần,
trong đó mô xương chỉ tăng khoảng 30 lần, mô cơ tăng 81lần còn mô mỡ tăng
tới 675 lần (Perez, Desmoulin, 1975) [89].
17
1.1.3. Đặc điểm sinh sản của lợn nái
1.1.3.1. Một số đặc điểm của cơ quan sinh dục và sinh lý sinh dục lợn cái
Sinh sản của gia súc là một tiêu chuẩn để xác định giá trị của con vật. Khả
năng sinh sản biểu hiện qua nhiều chỉ tiêu: đẻ nhiều con, nhiều lứa, tỷ lệ nuôi
sống sau đẻ, sau khi cai sữa, tỷ lệ còi cọc, tỷ lệ dị hình, khuyết tật. Khả năng sinh
sản cũng liên quan đến các chỉ tiêu sớm thành thục, thời gian mang thai, số lần
thụ tinh đạt kết quả. Sau khi gia súc được sinh ra đến một giai đoạn nào đó cơ
thể có những biến đổi chuẩn bị cho việc sinh sản, thời kỳ này gọi là thành thục
về tính. Trong điều kiện bình thường sự thành thục về tính xuất hiện lúc 6 - 7
tháng tuổi đối với lợn ngoại. Tuổi thành thục về tính chịu ảnh hưởng của điều
kiện tự nhiên, thời gian chiếu sáng, chế độ dinh dưỡng, giống, tuổi gia súc
Theo Hoàng Văn Tiến và cs (1995) [45], cơ quan sinh dục cái gồm có
buồng trứng, tử cung, âm đạo và các cơ quan sinh dục bên ngoài. Cơ quan
sinh dục bên trong được đỡ bằng dây chằng rộng. Dây chằng này gồm những
màng treo buồng trứng (đỡ buồng trứng), màng treo ống dẫn trứng (đỡ ống
dẫn trứng) và màng treo tử cung (đỡ tử cung).
Buồng trứng khác với dịch hoàn, nó nằm lưu lại trong xoang bụng, thực
hiện cả 2 chức năng: ngoại tiết (bài noãn) và nội tiết (sinh sản ra Steroit). Tất
cả các tế bào trứng phát triển từ đám tế bào mầm đầu tiên của mào sinh dục.
Những tế bào nang trứng bọc quanh tế bào sơ cấp, phát triển từ biểu mô mầm,
tạo nên những nang trứng đầu tiên. Ban đầu những nang trứng này nằm rải
rác khắp buồng trứng, nhưng ngay sau đó chúng khu trú trong vùng vỏ ngoại
vi, dưới màng liên kết trứng. Hình dáng và kích thước buồng trứng biến đổi
tùy thuộc loài, tùy thuộc vào giai đoạn của chu kỳ sinh dục. Buồng trứng của
lợn giống như một chùm nho, có khối lượng 3 - 7g, số nang thành thục: 10 -
25, đường kính của nang 8 - 12 mm. Đường kính của trứng không có vòng
trong suốt là 8 - 12 micro. Thể vàng thành thục có hình cầu hoặc hình trứng,
đường kính 10 - 15 mm (Hoàng Văn Tiến và cs (1995) [45].
18
Ống dẫn trứng có thể chia thành 4 đoạn chức năng: Tua diềm: có hình
giống như tua, diềm; Phễu: có hình phễu, miệng phễu nằm gần buồng trứng;
Phồng ống dẫn trứng: là đoạn ống dẫn rộng xa tâm; Eo: là đoạn hẹp gần tâm,
nối ống dẫn trứng với xoang tử cung; Phồng ống dẫn trứng gồm một nửa
chiều dài của ống dẫn trứng, hòa vào phần co thắt eo của ống dẫn trứng. Ống
dẫn trứng có chức năng duy nhất là vận chuyển trứng và tinh trùng theo
hướng ngược chiều nhau. Trứng được vận chuyển qua lớp nhầy, đi đến phần
phồng của ống dẫn trứng, ống dẫn trứng cung cấp một ngoại cảnh thuận lợi
nhất cho sự hợp nhất của tinh trùng và trứng [45].
Tử cung gồm: 2 sừng tử cung, thân và cổ tử cung. Ở lợn tử cung thuộc
loại hai sừng, các sừng gấp nếp hoặc quấn lại và có thể dài đến 1m, trong khi
đó thân tử cung lại ngắn. Độ dài của sừng tử cung thích hợp cho việc mang
nhiều thai. Ở lợn trung bình sừng tử cung dài 40 - 65cm, chiều dài thân tử
cung: 5cm, cổ tử cung có chiều dài 10 cm, đường kính ngoài từ 2 - 3cm [45].
Chu kỳ tính dục: Ở gia súc, việc giao phối bị hạn chế trong khoảng thời
gian chịu đực, trùng hợp với thời gian rụng trứng, vì vậy việc nghiên cứu chu
kỳ tính dục sẽ giúp cho chúng ta xác định được thời điểm phối giống thích
hợp, nâng cao được năng suất sinh sản của con cái. Trung bình ở lợn chu kỳ
động đực: 19 - 20 ngày, thời gian chịu đực: 48 - 72 giờ, thời điểm rụng trứng:
35 - 45 giờ kể từ khi bắt đầu chịu đực. Cho phối giống quá sớm hay quá
muộn, đều ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ thụ thai và số con sinh ra/ổ [45].
Đối với lợn nái có thể cho phối kép, tức là phối hai lần với hai lợn đực
giống khác nhau, khoảng cách giữa hai lần phối giống từ 12 - 14 giờ đối với lợn
nái cơ bản. Đối với lợn nái hậu bị thì thời gian giữa hai lần phối là 10 - 12 giờ.
1.1.3.2. Các tính trạng năng suất sinh sản của lợn nái
Để đánh giá một cách đúng đắn năng suất sinh sản của lợn cái cần phải
xác định được các chỉ tiêu cơ bản, quan trọng, lấy đó làm cơ sở, thước đo để
19
định ra thời gian sử dụng lợn cái hiệu quả. Các chỉ tiêu này cần phải được tính
chung trong toàn bộ thời gian sử dụng lợn cái từ lứa đẻ đầu tiên đến lứa đẻ
cuối cùng.
Theo Nguyễn Thiện và cs (2005) [39] cho rằng khi khảo sát và đánh giá
năng suất sinh sản của lợn nái cần chú ý các chỉ tiêu: tuổi thành thục sinh dục,
chu kỳ động dục, tuổi có khả năng sinh sản, thời gian mang thai và số con đẻ
ra/lứa. Tuy nhiên, Nguyễn Thiện, Hoàng Kim Giao (1996) [36] cho rằng số
lợn con cai sữa/nái/năm là chỉ tiêu thể hiện sự đánh giá đúng đắn và chính xác
nhất về năng suất sinh sản của lợn nái. Cũng theo Legault, các chỉ tiêu ảnh
hưởng đến số lợn con cai sữa/nái/năm bao gồm: số con đẻ ra, tỷ lệ chết của
lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, thời gian bú sữa, tuổi đẻ lứa đầu, thời gian từ
cai sữa đến khi thụ thai lứa sau.
Qua nghiên cứu của Harmond (1994) (trích theo Đỗ Thị Thoa, 1998)
[41] cho thấy các chỉ tiêu quan trọng với lợn nái sinh sản gồm: tuổi đẻ lứa đầu,
số con đẻ ra còn sống/ổ, khoảng cách lứa đẻ, thời gian cai sữa. Kết quả đó cũng
cho thấy số con cai sữa/nái/năm của lợn Large white là 21,2 con và của lợn
Landrace Bỉ nuôi tại Pháp là 17,9 con.
Ở Việt Nam vào những giai đoạn khác nhau, đã có những tiêu chuẩn
khác nhau để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái như: số con đẻ ra còn
sống/lứa, khối lượng cai sữa/lứa, tuổi đẻ lứa đầu với nái đẻ lứa 1 hoặc khoảng
cách giữa 2 lứa đẻ với lợn đẻ từ lứa thứ 2 trở đi (theo TCVN 1647- 82, TCVN
3666 - 89 hoặc TCVN 1280 - 81, TCVN 1282- 81). Trong điều kiện chăn
nuôi hiện nay dù là chăn nuôi lợn nái ở bất cứ khu vực nào thì thời gian cho
con bú của lợn nái cũng thấp hơn 60 ngày, thậm chí có những trang trại chăn
nuôi với quy mô trung bình và nhỏ cũng đã thực hiện được việc tách con vào
21 ngày tuổi. Đó cũng là một giải pháp góp phần tăng năng suất sinh sản của
lợn nái.
20
Theo Nguyễn Khắc Tích (2002) [44], khả năng sản xuất của lợn nái chủ
yếu được đánh giá dựa vào chỉ tiêu số lợn con cai sữa/nái/năm. Từ đó cho
thấy số lợn con cai sữa/nái/năm phụ thuộc vào 2 yếu tố là số con đẻ ra và số
lứa đẻ/nái/năm.
Ngoài các chỉ tiêu quan trọng trên thì chỉ tiêu về số con đẻ ra còn sống
cũng là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng trong chăn nuôi lợn nái. Chỉ tiêu
này được tính cho số con còn sống sau khi lợn mẹ đẻ xong con cuối cùng,
không tính những con có khối lượng dưới 0,2 kg đối với lợn nội; 0,5 kg đối
với lợn lai và lợn ngoại. Chỉ tiêu này cho biết khả năng đẻ nhiều hay ít con
của lợn nái, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái chửa, kỹ thuật thụ tinh
nhân tạo và chất lượng tinh dịch của lợn đực giống.
Tỷ lệ sống đến 24 giờ sau đẻ: tỷ lệ này không đảm bảo đạt 100% do
nhiều nguyên nhân khác nhau như lợn con chết ngay khi đẻ ra, thai gỗ, thai non.
Số lợn con cai sữa/lứa: đây là chỉ tiêu rất quan trọng thể hiện trình độ
chăn nuôi lợn nái sinh sản. Nó quyết định năng suất và ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả kinh tế của quá trình chăn nuôi lợn nái. Thời gian cai sữa tuỳ thuộc vào
trình độ chăn nuôi bao gồm kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh thú y, phòng
chống dịch bệnh. Số lợn con cai sữa/lứa đẻ tuỳ thuộc kỹ thuật chăn nuôi lợn cái
nuôi con, kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ cũng như khả năng tiết sữa của
lợn mẹ và sức đề kháng và khả năng phòng chống bệnh của lợn con (Vũ Đình
Tôn, Võ Trọng Thành, (2006) [46] .
Mặt khác số con cai sữa/lứa phụ thuộc vào số con để nuôi. Người ta có
thể tiêu chuẩn hoá số con để nuôi/lứa là từ 8 - 10 con. Nếu số con nhiều hoặc
ít hơn cần có sự điều phối giữa các lợn nái và phải làm muộn nhất là 48 giờ
sau khi đẻ. Đơn giản nhất là chuyển lợn từ ổ đông con sang ổ ít hơn 8 con,
cần ghi rõ số hiệu của mẹ nuôi. Khi lợn đạt 21 ngày tuổi cần ghi chép số con
nuôi sống/ổ, khối lượng toàn ổ kể cả những con nuôi ghép. Việc “chuẩn hoá”
21
số con cho mỗi nái có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá lợn nái sinh sản.
Số lượng lợn con/ổ có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chính các con đó
sau này. Những lợn nái từng được nuôi trong ổ đông con sau này sẽ đẻ ra
những con cái nhẹ cân hơn, ảnh hưởng này có ý nghĩa kinh tế lớn hơn các ổ
đẻ trên 10 con. Việc tiêu chuẩn hoá số con đẻ ra/ổ là 8 - 10 con sẽ giảm bớt
ảnh hưởng tiêu cực đó, giúp cho việc xác định giá trị giống chính xác hơn, vì
sau khi được chuẩn hoá và được nuôi dưỡng trong cùng một môi trường nên
khả năng làm mẹ, tiết sữa nuôi con của lợn nái được đánh giá chính xác hơn
qua khối lượng của lợn con lúc 21 ngày tuổi.
Số con cai sữa/lứa phụ thuộc tỷ lệ nuôi sống: tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh
đến cai sữa chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như ỉa chảy 10,8%; bệnh đã
biết 9,8%; bệnh chưa biết 13,1%; bị đói 19,9%; bị mẹ đè 43,2%; nguyên nhân
khác 3,2%. Lợn con trước cai sữa thường bị chết với các nguyên nhân và tỷ lệ
khác nhau như di truyền 4,5%; nhiễm khuẩn 11,1%; mẹ đè, thiếu sữa 50%;
dinh dưỡng kém 8%; nguyên nhân khác 26,4%. Theo Nguyễn Khắc Tích
(2002) [44] tỷ lệ lợn con chết sau khi sinh ở mỗi giai đoạn có sự khác nhau:
ngày 1 là 28%; ngày 2: 24%; ngày 3: 11%; từ ngày 4 - 7: 10%; từ ngày 8 - 14:
15%; từ ngày 15 - 21: 6%; từ ngày 22 trở đi: 6%.
Số con đẻ/nái/năm: chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng rất nhiều vào thời gian
nuôi con và số ngày bị hao hụt (thời gian chờ phối, mang thai, sảy thai, chết
thai ). Trước kia ở Việt Nam thời gian lợn nái nuôi con trung bình 60 ngày,
hiện nay tuỳ điều kiện cụ thể số ngày cho con bú đã rút ngắn còn từ 21 - 45 ngày.
Thực tế nên cai sữa lợn con vào 21, 28, 35, 45 ngày tuổi thì các bệnh đã biết
gây chết 9,8% lợn trước cai sữa; bệnh chưa biết gây chết 13,1% và bệnh ỉa
chảy lợn con gây chết 10,8%. Những tỷ lệ này thường ít xảy ra ở lợn dưới 21
ngày tuổi. Nếu cai sữa trước 22 ngày tuổi sẽ khắc phục được những nguyên
nhân trên đến 33,35% số lợn con chết trước cai sữa (Nguyễn Khắc Tích,
22