Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

khái quát nét đẹp tranh dân gian đông hồ trong dạy học mỹ thuật cho học sinh phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.07 KB, 23 trang )

Mục lục
Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
Nội Dung
Chương I: Nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ.
1.1

Khái quát về tranh dân gian Đông Hồ.

1.1.1 Tranh Đông Hồ
1.1.2 Tranh Hàng Trống
1.2

Đặc trưng nghệ thuật tranh dân gian

1.3

Tính giáo dục của tranh dân gian

Chương II: Vận dụng nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học
mỹ thuật cho học sinh phổ thông.
2.1 Nội dung đề tài tranh dân gian Đông Hồ ảnh hưởng tới tình cảm, nhân
cách học sinh.
2.2 Nét tương đồng giữa đường nét trong tranh dân gian Đông Hồ với nét
vẽ của học sinh lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
2.3 Vai trò của người giáo viên trong dạy học mỹ thuật để phát huy sự sáng
tạo của học sinh.


Chương III. Kết luận kiếm nghị
3.1 Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

1


Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài :
Tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam ln gắn bó và in đậm dấu ấn trong cuộc
sống tình cảm của con người Việt Nam. Chủ đề tư tưởng cùng những đặc trưng
độc đáo riêng biệt của tranh dân gian là những yếu tố tạo nên giá trị nghệ thuật
thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của người xem.
Thừa kế những tinh hoa nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam. Ngày nay đã có
nhiều hoạ sĩ nghiên cứu, chuyên sâu vào lĩnh vực này đã tạo nên nhiều tác phẩm tranh
khắc đẹp được nhiều người u thích đồng thời đã góp phần khẳng định sức sống và giá
trị nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam một loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc văn
hoá dân tộc trong thế giới đa dạng về phong cách hội hoạ hiện đại.
Đặc trưng ngôn ngữ của tranh dân gian là giản dị, chân chất dễ hiểu nhưng
lại bao hàm một vẻ đẹp đầy ấn tượng đi vào lòng người nhất là đối với các em lứa
tuổi thiếu niên nhi đồng, bởi tính hồn nhiên, vui tươi, hóm hỉnh, mộc mạc, màu sắc
tự nhiên, đường nét hình khối đơn giản. Xem tranh dân gian các em như tìm thấy
một tiếng nói chung mang tính cội nguồn, tìm thấy một sự gần gũi dung dị, dễ tiếp
cận với mong ước được vẽ và vẽ đẹp.
Có thể nói, những đặc trưng độc đáo của tranh dân gian sẽ là con đường
ngắn và thuận lợi để giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Trên cơ sở từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp, cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, tranh dân
gian sẽ đóng góp một phần nhỏ vào cái chung trong việc giáo dục nâng cao nhận
thức thẩm mĩ nói chung và về hội hoạ nói riêng.

Xuất phát từ những suy nghĩ đó tơi mạnh dạn nghiên cứu khoá luận với đề
tài”khái quát nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học mỹ thuật cho học
sinh phổ thơng”.
Trong khn khổ một khố luận nghiên cứu nhỏ chưa thể đề cập sâu tới vấn
đề của tranh dân gian, mong muốn của người thực hiện khố luận là được đóng

2


góp một vài suy nghĩ từ nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ đối với việc giáo dục thị
hiếu thẩm mĩ cho học sinh ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
2.Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu nét đẹp trong tranh dân gian Đông Hồ.
- Vận dụng nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ vào dạy học mỹ thuật ở trường
phổ thông.
3. Đối tựơng và pham vi nghiên cứu:
* Đối tượng: Tìm hiểu nét đẹp của tranh dân gian Đơng Hồ.
* Pham vi: Tìm hiểu nét đẹp của tranh dân gian Đơng Hồ có sự so sánh đối
chiếu và liên hệ của một số tranh thiếu nhi.
4.Nhiêm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu nét đẹp của tranh dân gian:
+ Nội dung.
+ Bố cục.
+ Hình mảng.
+ Màu sắc.
- Đưa ra cách khai thác nét đẹp tranh dân gian trong việc giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh phổ thông.
5.Phương pháp nghiên cứu:
- Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu.
- Quan sát, liên hệ thực tế.

- Tổng hợp phân tích, so sánh đối chiếu.
Nội Dung
Chương I: Nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ.
1.1. Khái quát về tranh dân gian.
Tranh dân gian Việt Nam từ rất xa xưa đã tồn tại thực sự trong đời sống của
nhân dân. Trước cách mạng tháng tám năm 1945 việc chơi tranh trong ngày tết đã

3


trở thành một phong tục rất mực được tôn trọng, tranh được dùng để trang hồng
nhà cửa, tơn kính tổ tiên, cầu mong những điều tốt đẹp, để giới thiệu cho nhau về những
giá trị văn hoá và lịch sử dân tộc. Những tờ tranh ấy đã làm bừng sáng những căn nhà tối
thấp, đã mang theo tiếng cười vui đến với mọi nhà và nhất là giúp mọi người như cảm
giao với tinh thần, yên tâm có cuộc sống bình an và thịnh vượng.
Trong cả nước, từ Bắc vào Nam có nhiều nơi làm tranh dân gian như tranh
Đơng Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kim Hồng, tranh Làng Sình nhưng có hai vùng
nổi tiếng và có truyền thống lâu đời hơn cả là tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống.
Trong đề tài này tôi cũng xin đề cập đến hai dịng tranh chủ yếu này.
1.1.1.Tranh Đơng Hồ:
Tranh Đơng Hồ được sản xuất lẻ tẻ ở một số tỉnh Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh
Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên, Nghệ An, nhưng truy về gốc đều do người Đông Hồ
di cư mang theo nghề đến nơi mới. Nơi sản xuất tập trung là làng Đông Hồ(xã
Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Đây là một làng nhỏ nằm ven Sông
Đuống và trên đường giao thông nối xứ Bắc (Bắc Ninh) với xứ Đông (Hải
Dương), chỉ cách Hà Nội chừng 40 km. Vùng đất này trù phú,nơng nghiệp phát
triển, có nhiều nghề thủ cơng, đời sống văn hố cao, lễ hội nhiều và đặc sắc... tất cả
đã tạo nên cái nôi, là “Bà đỡ”cho một dòng tranh chân quê đậm đà chất dân tộc.
Gắn với sinh hoạt tết có Tranh - Pháo - Mã, người làng Đông Hồ làm cả
hàng mã Đông Hồ từ nhiều thế kỉ trước đã đi vào sử sách, và mười năm qua tưởng

chừng đã mai một thì giờ đây đang phục hồi và phát triển đáp ứng nhu cầu tâm linh
của đông đảo nhân dân, và cũng là một thứ nghệ thuật tạo hình dân gian, bổ sung
và làm hoàn chỉnh thêm cho mảng trannh tết.
Tranh tết cổ truyền của Đông Hồ là tranh điệp, từ giấy đến màu đều nhuần
chất dân tộc. Giấy để in tranh là giấy dó được sản xuất ở Đồng Cao( Bắc Ninh) và
Vùng Bưởi( Hà Nội), nó mỏng mịn và có vân óng ả như lụa, lại dai và co dãn khi
ẩm ướt. Để phát huy mặt tốt và khắc phục mặt yếu của giấy dó, nghệ nhân quét lên

4


nó một lớp điệp làm cho tờ giấy dày nuột, sáng trắng với những thớ sáng tối đan
xen song hành và lấp lánh ánh bạc, có khi con được lướt thêm nước hoa hoè vàng
chanh hay nước gỗ vàng đỏ cam, từ nền giấy đã toát ra vẻ vinh hiển. Trên nền giấy
ấy, nghệ nhân lần lượt in ván gỗ các mảng màu cạnh nhau và chồng nhau, sau cùng
in nét đen to mập, màu và nét phối hợp tạo ra những hình quen thuộc nhưng ln
mới. Bảng màu ở đây cũng là nhưng màu trắng Điệp -Vàng Hoe - Đỏ Vang, lại
thêm màu Xanh Chàm-Sỏi Son- Than Lá Tre, tồn những thứ có sẵn trong thiên
nhiên, bền trước ánh sáng và thân thuộc với mọi người. Bảng màu ấy khá đơn giản
nhưng do kỹ thuật pha chế “trăm hay không bằng tay quen” và nghệ thuật phối
màu đã tạo ra những hồ sắc phong phú và hài hồ.
Tranh Đơng Hồ phổ biến nhất, cũng đặc sắc nhất và mang đậm sắc dân
gian- dân tộc nhất, được nhân dân nhiều nước ưa thích và tuyển vào những bộ sưu
tập tranh quý của nhân loại.
1.1.2 Tranh Hàng Trống
Tranh Hàng Trống cũng có rất sớm, cho đến trước cách mạng tháng
tám năm 1945 đựơc bầy bán nhiều phố ở Hàng Trống và các phố lân cận như
Hàng Nón- Hàng Hịm- Hàng Quạt của Hà Nội. Tranh Hàng Trống cũng có
một số tranh tiêu biểu như tranh Đông Hồ, nhưng đi sâu vào những bộ tứ bình
về người đẹp (Tố Nữ) và cảnh đẹp (Tứ Quý), minh hoạ các tác phẩm văn học

lớn, nhưng đặc biệt đi sâu vào mảng tranh thờ ở các điện miếu, nhất là khai
thác các nhân vật trong đạo mẫu của bản địa( Tam Tồ, Tứ Phủ, Ơng Hồng,
Bà Chúa, Cậu Cơ). Tranh Hàng trống chủ yếu là tranh thờ, do đó được bày
bán quanh năm, tập trung vào một số dịp lễ tết.
Tranh Hàng Trống in trên giấy xuyến chỉ và sau này là giấy báo khổ
rộng, chỉ in nét cong tô màu bút lông, màu nhập ngoại là phẩm hố học tươi.
Do kỹ thuật tơ bằng tay mà tạo được sự đậm nhạt, vờn đẻ nổi khối nét thanh
mảnh và cong mềm và duyên dáng.

5


Đối tượng của tranh Hàng Trống là tầng lớp thị dân, những người khá giả
nên bên cạnh tranh thờ dán ở nơi tơn nghiêm, thì những tranh sinh hoạt thưịng
đựơc treo ở những phịng khách tạo một khơng khí sang trọng.
1.2. Đặc trưng nghệ thuật tranh dân gian
Tranh dân gian có lịch sử lau dài và thực sự là vốn tạo hình được các thế
hệ cả xưa và nay đều thích, nếu chỉ vì giá trị nội dung thì khi xã hội thay đổi nó
khơng thích hợp nữa, do đó phần quan trọng chính là giá trị nghệ thuật. Giá trị này
được biểu hiện ở bố cục, ở đường nét, ở bảng màu, ở quan niệm tỉ lệ giữa các hình.
Tranh dân gian xây dựng các hình ảnh khơng phụ thuộc vào mẫu trong tự
nhiên, mà cốt gây ấn tượng mạnh theo yêu cầu của chủ đề, vì thế cả ánh sáng,
không gian, con người và cảnh vật đều là ước lệ. Tờ tranh điệp với nền màu trắng
hay vàng đỏ đều thể hiện không gian rực sáng, trong trẻo và rộng rãi. Khơng gian
ước lệ ấy địi hỏi mọi hình ở trên cũng phải ước lệ làm đựơc nhiều nhất, vì thế
hình đựơc thể hiện nhìn từ nhiều góc độ, từ nhiều khoảng cách để có thể phơ diễn
được đầy đủ nhất, chẳng hạn con lợn muốn rõ nhất phải đựơc vẽ ở thế nhìn ngang,
nhưng mõm lại như nhìn từ phía trước, cảnh hứng cây dừa được thu nhỏ lại để
tương ứng với người trèo và người hứng hoặc cảnh trạng chuột vinh quy, sau khi
đỗ cao cưới vợ, chuột tiến sĩ cưỡi con ngựa cũng chỉ nhấp nhỉnh với nó mà thơi.

Tất cả các hình trong tranh đều được dàn ra chốn cả mặt tranh, chúng khơng che
khuất nhau mà cùng phơi bày rõ ràng. Từng hình trong tranh đựơc cường điệu có
khi đến”ngoa ngoắt”, song đều thu về những hình cơ bản. Ví như bé ơm gà như
hình quả trứng, con lơn như hình chữ nhật, các cặp. Đồ vật trong tranh đánh vật lại
chỗ hình tam giác, chỗ hình thang, chỗ nửa hình trịn, các nhân vật trong tranh
hứng dừa và đánh ghen vừa hài hước vừa táo tợn. Cái thế giới ở trong dân gian
gồm đủ cả ba tầng Trời-Trần và dưói Đất, chỉ cần vài chi tiết là gợi ra cái không
gian cần cho sự việc xảy ra, điều này được thể hiên rõ nét hơn trong tranh liên
hoàn về Thạch Sanh.

6


Với bố cục ấy, trừ tranh thờ thì các nhân vật thần, phật được vẽ to ở giữa,các
nhân vật phụ nhỏ hơn và ở hai bên, các người thường dân và sinh vật lại nhỏ nữa và ở
dưới. Tỷ lệ này phụ thuộc vào viễn cận xã hội, tuỳ theo địa vị của từng nhân vật để
phóng to hay thu nhỏ. Trái lại ở những tờ tranh tết thông thường,các nhân vật và cảnh
vật dù thực tế hết sức chênh lệch nhau, nhưng với quan điểm bình đẳng tất cả được
trình ra trên mặt tranh với một độ lớn tương đương nhau. Lỗi viễn cận phản ánh tư
tưởng bình quân của nông dân, tất cả đều được tôn trọng.
Về đường nét tranh dân gian dùng hình chủ yếu về đường nét được in, có
những bức in nét xong là hồn thành,nhiều tranh sau khi in nét đen mới dựa vào đó
mà tơ màu cho tươi và động. Cả những tranh được in màu kín thì nét đựơc in sau
nên rất rõ. Nét bao lấy các mảng màu khiến mảng nào cũng được tách bạch rõ
ràng, nét tuỳ từng dòng tranh mà có sự khác nhau. Nét ở tranh Đơng Hồ đậm chắc,
ít chi tiết vụn, nét ở tranh Hàng Trống mảnh mai, có phần “tham lam” nên hơi rối.
Cịn về bảng màu dù màu thuốc cái ở tranh điệp hay mùa hố học chất ở
nhiều dịng tranh khác nhau, thì cũng đều đằm thắm, chỉ rất ít màu, thiên về sáng,
hầu như không cần đến màu ghi trung gian. Những màu ấy dù in hay vẽ cũng thật
khiêm tốn, chỉ vài màu nhưng do cách chế biến kỹ thuật in chồng, in lệch lại tạo

thêm màu mới.
Ngày nay tranh dân gian khơng chỉ có giá trị lịch sử, vẫn hàm chứa đầy
đủ giá trị của một loại hình nghệ thuật đích thức... các hoạ sỹ khai thác tranh dân
gian ở các chất liệu và quan niệm thẩm mỹ, cho nó thăng hoa vào tác phẩm thì hồn
dân tộc và chất thời đại sẽ là lẽ sống trương tồn cùng thời gian.
1.3. Tính giáo dục của tranh Đơng Hồ.
Tranh vẽ của trẻ em rất gần gũi với tranh dân gian, nói cách khác tranh
dân gian phù hợp với tâm hồn trẻ thơ bởi tính hồn nhiên, vui tươi, hóm hỉnh, mộc
mạc, màu sắc tự nhiên, đưịng nét, hình khối, đơn giản, dễ hiểu làm cho trẻ yêu
thích. Tranh dân gian phản ánh mọi mặt của đời sống với cái nhìn lạc quan, tươi

7


sáng, từ xưa đến nay được mọi người ham chuộng. Với nội dung và hình thức độc
đáo tranh dân gian là một loại hình nghệ thuật được phổ biến sâu rộng trong nhân
dân. Tranh dân giản phản ánh đa dạng cuộc sống xã hội, song đối với đề tài trẻ em
và những con vật được trẻ em ưa thích đã được nghệ sỹ nhân gian gửi hồn mình
trong bức vẽ đó là: Em bé cưỡi trên mình nghé, đầu tre chiếc lọng lá sen, tay nâng
ống sáo kề miệng thổi,... là một hình tượng nghệ thuật đẹp yêu đời, yêu cuộc sống,
yêu lao động ngay từ tuổi thơ. Bức tranh bẩy em bé đu cành đào với những hoa và
qua tranh thất đồng làm người xem nức lòng với thế giới trẻ con bụ bẫm vô cùng
đáng yêu, hồ hởi với ước vọng con trẻ hạnh phúc, khoẻ mạnh. Những em bé ơm gà
hay vịt ở các tranh lễ trí, phú quý, vinh hoa... đều là những đứa trẻ khôi ngô mà
mọi người làm cha mẹ mong ước.
Những tranh về các cuộc vui chơi trong ngày hội, ngày tết như múa rồng,
múa lân, đánh vật,... càng thấy cuộc đời phơi phới đáng yêu cả đen những sinh vật
như gà đàn lợn ổ,... khi đi vào tranh cũng mang niềm vui hồn hậu đậm đà. Ngưòi
xem đã nhận ra ở con lợn nái có 5 con có cái mồn tủm tỉm như mới gặp được điều
gì lý thú. Gà mái mỏ cịn ngậm mồi đang “túc...túc...”gọi đàn con xúm xít chia

mồi. Gà trống dướn cao cổ đầy khí phách che chở cho gà mẹ gà con. Trong tranh
dân gian con người dù trong lao động vui chơi đều rất thoải mái. Chẳng những vui
khi múa rồng, múa lân ... mà vui ngay cả lúc đi cày, khi xông trận. Bà Trưng, Bà
Triệu mỉm cười đánh giặc. Anh đô vật hứng khởi trong cuộc đáu khơng hề có ý
được thua. Ngay cả những bức tranh thờ như Ngũ Hổ tứ pháp... các nghệ nhân dân
gian với cảm quan nghệ thuật và thẩm mỹ trong sáng bắt nguồn từ đời sống,
những bức tranh như trình bày ở trên tưởng như các nghệ sỹ dân gian vẽ riêng cho
trẻ em vậy. Trong tranh dân gian, một bộ phận khá lớn đã đi vào đề tài lịch sử,
phản ánh những anh hùng cứu nước và giữ nước của dân tộc, những chiến công lẫy
lừng trong nhiều thời kỳ lịch sử được trẻ thơ ưa thích khơng chỉ về nội dung tích
truyện mà cả về nghệ thuật thể hiên giản dị, tự nhiên mang đầy sức biểu cảm. Bắt

8


gặp ở đây những Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, Trương Vương trừ giặc
Hán,Triệu Ẩn đánh Quân Ngô, Ngô Quyền đánh giặc Hán, Trần Hưng Đạo đánh
quân Nguyên, Lê Thái Tổ quét sạch quân Minh, Bắc Bình Vương đánh tan quân
Thanh ... Đinh Tiên Hoàng tập trận với trẻ Mục Đồng, trong tranh Phù Đổng Thiên
Vương đánh phá giặc Ân, Cậu bé làng gióng cưỡi trên con ngựa hồng đang băng
băng phi nước đại hay tay quay tít những cây tre ngà, tung hoành giữa đám giặc
Ân đang rối loạn vứt giáo mộc,đứa ngã lăn ra đất đứa co cẳng chạy thục
mang...đằng sau Phù Đổng Thiên Vương biểu tượng tổ quốc là núi non trung điệp,
hùng vĩ, dưới ngọn cờ hồng,cả hang quân chỉnh tề vũ khí ra quân tiếp sức như kéo
giài vô tận.tất cả những tranh anh hùng ấy với lòng yêu nước,yêu dân đã làm xúc
động tâm hồn các nghệ sĩ dân gian,rồi qua bàn tay trân trọng của nghệ nhân,được
hiện ra trên giấy dó,dẫn dắt tuổi thơ ngược dòng lịch sử về với cuội nguồn xa xưa
đến tận nguồng của truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc.
Chương 2:
Vận dụng nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học mỹ thuật cho học

sinh phổ thông
2.1. Nội dung đề tài tranh dân gian Đơng Hồ ảnh hưởng tới tình cảm,
nhân cách học sinh.
Sức sống của tranh dân gian Đông Hồ tồn tại qua thời gian, giữ được vị trí
trong cảm xúc thẩm mỹ của mọi người với giá trị tư tưởng, vẻ đẹp hài hồ của nó bắt
nguồn từ cách nhìn, cách nghĩ của người nghệ sĩ, từ quan niệm thẩm mỹ của nhân dân
lao động. phần lớn nghệ nhân làm tranh dân gian Đông Hồ là nhưng người nông dân
thực thụ, họ am hiểu tình cảm và con người của xã hội nông nghiệp, họ sống cuộc sống
của người lao động nên hiểu rõ cái mà họ vẽ ra, họ khơng chỉ nấm chắc ngoại hình mà
cịn tường tân cả nội tâm nữa. Các nghệ nhân nắm bắt được cuộc sống của nhân vật để
rồi tái tạo không phải sao chép lại thực tế, mà bằng lối tạo hình, gạn lọc, sắp xếp lại
cho thuận mắt và nâng lên ở trạng thái nghệ thuật.

9


Với những đề tài phong phú mn hình, mn vẻ của cuộc sống mà tranh dân
gian Đông Hồ phản ánh đã phần nào tái tạo lại cuộc sống sinh hoạt của ông cha ta. Để
gợi lại những sự kiên lịch sử oai hùng của dân tộc, những chiến công oanh liệt chống
ngoại xâm, xây nền độc lập tự chủ của các anh hùng dân tộc thủa trước, các nghệ nhân
đã khắc hoạ những hình ảnh như Đinh Tiên Hồng cờ lau tập trận, Bà Trưng, Bà Triệu
thúc quân diệt giặc, Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên, Mông.
Khi tiếp xúc vơi thể loại lịch sử đó các em như được ngược dòng lịch sử
về với cội nguồn xa xưa đến tân nguồn của truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ
vang của dân tộc. Mặc dù các em đã từng được đọc, được học qua nhưng bài
giảng, những trang sách nhưng khi nhìn thấy hình ảnh được phản ánh qua dân gian
Đơng Hồ miêu tả với khí phách hiên ngang dũng mãnh trước quân thù của cách vị
anh hùng đã để lại trong các em những ấn tượng tốt đẹp, niềm tự hào dân tộc.
Xem tranh”Gà Đàn”, “Lợn Đàn” của tranh dân gian Đồng Hồ chúng ta
thấy đều nhằm nói lên ước mơ của người nông dân đồng thời cũng là để chúc

tụng nhau khi chào đón một năm mới. song trước khi chuyển sang chúc tụng thì nó
đã là những phản ánh, mô tả sinh hoạt hàng ngày trong đời sống nông nghiệp của
nhân dân. Quanh năm ngày tháng lao động để mưu sinh. Họ chỉ ước mong sao có
“Cơm ăn đủ no, áo đủ mặc, gà đầy sân, lợn đầy chuồng” đó là những ước mơ hồi
bão chính đáng mà rất giản dị, mộc mạc.

10


Hơn
thế

nữa
cùng

lúc với nhiệm vụ mô tả và phản ánh ước vọng cuộc sống, người nghệ sỹ dân gian
Việt Nam còn chứa trang sức quyến rũ của tờ tranh những tư tưởng và tình cảm đã
đựơc nâng lên. Đây là những lợn mẹ, lợn con mang đầy đủ tình cảm mẫu tử trong
tư thế đùm bọc, quấn quýt với đôi mắt lim dim hiền từ. Đặc biệt các chi tiết gà mẹ
ngậm con mồi rất nhẹ nhàng nhưng con mồi không thể thốt được và địng thờ
cũng khơng bị dập nát để các chú gà con được một miếng mồi ngon. Tình mẹ con
ở đây phải chăng đã đựơc người nghệ sỹ dân gian nhân cách hố và tấm lịng mẹ
chắt chiu nuôi dưỡng con cái, nhịn miếng ăn để dành, cho con những miếng mồi
ngon lành nhất. Đó cũng là đạo lý thơng thường trong tình cảm mẹ con đã ăn sâu
vào tâm hồn chúng ta, đã đựơc coi là một hình ảnh đẹp, là một rung cảm nghệ
thuật phong phú, một hình tượng vừa có chân, có thiện, có mỹ.
Tấm lòng bà mẹ Việt Nam đã ăn sâu vào tâm hồn người nghệ sỹ dân gian
Việt Nam. Tấm lòng người mẹ đã chắt chiu, dành dụm tần tảo nuôi con, lấy hạnh
phúc của con làm hạnh phúc của mình, con vui là mẹ vui, con no là mẹ no, con
sung sướng là mẹ sung sướng, nó trở thành một tình cảm như vốn sẵn có. một bản

năng trong tư duy sáng tạo vốn tiềm tàng trong xương máu tâm hồn nghệ nhân, rồi

11


từ đó tờ tranh quay trở lại có tác dụng xây dựng tâm hồn cho người xem qua nhiều
thế hệ nối tiếp và đối với các em học sinh ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng, nó làm
nảy sinh, ni dưỡng tinh thần, tình u thương kính trọng cha mẹ, anh em, bạn bè
và đồng loại, từ đó hình thành ý thức, nhân cách học sinh trong thời đại mới.
Với nội dung phong phú của tranh dân gian Đông Hồ đã tác động tới cảm
xúc thẩm mỹ trong các em. Các em biết trân trọng cái đẹp, yêu thiên nhiên cây cỏ hoa
lá, những con vật bé nhỏ mà gần gũi với cuộc sống hàng ngày của các em, cũng từ đó
biết giữ gìn và có ý thức làm cho môi trường xung quanh sạch và đẹp hơn.
2.2.Nét tương đồng giữ đường nét trong tranh dân gian Đông Hồ với
nét vẽ của học sinh lứa tuổi Thiếu Niên Nhi Đồng.
Cách sử dụng đưòng nét, màu sắc là hai yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp
của tranh, vì vậy hầu hết tranh dân gian Đông Hồ rất chú trọng tới đường nét và
màu sắc. Dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân, đường nét tạo nên sự nhất
quán giữa hình và màu, diễn tả một tình cảm tính cách nhân vật bằng những nét
đường to, nhỏ, đậm đà dứt khốt, khoẻ nhưng khơng khơ cứng, chắc nhưng mềm
mại uyển chuyển mà cũng rất thanh thoát tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của
tranh dân gian Đông Hồ.
Hầu hết tranh thiếu nhi không hẳn các em đều vẽ nét bo, lấy hình mảng
mà nhiều khi chỉ là những mảng màu đặt cạnh nhau, tuy nhiên phần nhiều các em
cũng thường sử dụng nét để viền lấy hình.
Khi tiếp cận với đường nét trong tranh dân gian không phải các em bắt
chước các nét vẽ đó mà qua đó các em như đựơc định hình một phong cách, khơng
dị dẫm, không lệ thuộc. Qua tranh dân gian Đông Hồ các em như được mở rộng
hơn tầm mắt vào thế giới tự nhiên, mn màu mn vẻ, được khuyến khích và
khích lệ vẽ. Với những em học sinh có năng khiếu các em có sự hứng thú và hào

hứng vẽ một cách say mê. Ngược lại, với các em học sinh năng khiêu hạn chế cũng

12


cảm thấy tự tin hơn khi thực hành, cảm giác vẽ khơng cịn khó khơng cịn thấy sợ
mơn mỹ thuật.
Qua tranh thiếu nhi chúng ta thấy các em thường thích gì vẽ đấy, khơng
đắn đo, do dự hoạc tính tốn một cách kỹ lưỡng. Với phong cách tự do suy nghĩ, tự
do sáng tạo về những chủ đề đã được nghe, được thấy và thông thường , các em ở
nơi nào thì hay vẽ cảnh vật nơi đó. Các em vẽ theo cảm xúc tự nhiên vốn có, nên
hình ở trong tranh của các em rất ngộ nghĩnh, ngây thơ, hơng nhiên, trong sáng
như chính tâm hồn các em vậy.
Xem tranh “Chọi Gà”.hai chú gà ngộ nghĩnh xung quanh là những người
xem cổ vũ nhiệt tình, màu sắc trong tranh tươi tắn bố cục đơn giản thể hiện được
nội dung thật giản dị mộc mạc hồn nhiên ngay thơ trong sáng của lứa tuổi học trò.

Tranh “Chọi Gà” Cầm Thị Trúc Linh - Lớp 7A Trường THCS DTNTThường Xuân
Sự mộc mạc giản dị rất trẻ thơ còn thể hiện qua tranh “Thả Diều”. với
những mảng màu đơn giản, chắc đậm mang đậm nét dân gian, hình dáng nhân
vật cịn chưa đúng về giải phẫu, nhưng cũng chưa đủ để nêu một sự sống động
của một vùng quê. Đây chính là những yếu tố tạo nên sự tương đồng giữa tranh
của các em với tranh dân gian.
13


Tranh “Thả Diều” Vi Nguyễn Thuỳ Linh - lớp 8A
Trường THCS DTNT- Thường Xuân
Với nghệ thuật sử dụng đường nét, các nghệ nhân làm tranh dân gian Đông
Hồ đã xây dựng được những hình tượng điển hình, tinh giản, phối hợp các đường

cong và đường thẳng, chưa cần đến màu mà đã tạo nên dáng chung của tờ tranh có
cái đẹp đại thể và đúng chất của đối tượng miêu tả.
Khi tiếp cận với tranh dân gian Đông Hồ, đặc biệt là với đường nét trong
tranh, các em như cảm nhân thấy một cái gì đó rất gần gũi, đồng cảm, như tìm thấy
một chỗ dựa vững chắc, một ngưịi bạn thân thiện trong nét vẽ của mình. Mặc dù
giữa nét vẽ của tranh dân gian Đông Hồ và nét vẽ trong tranh của các em thiếu nhi
có tiếng nói và những đặc trưng riêng song về một khía cạnh nào đó có những đặc
điểm chung. Cái chung ở đây là nét tạo nên hình tưọng nhân vật ngộ nghĩnh, hồn
nhiên, vô tư trong sáng. Các nhân vật trong tranh ln ở thế động, khơng bị gị ép tạo
cho tranh ln có nhịp điệu mang đầy tính trang trí.
Tranh dân gian Đông Hồ với những bảng màu nguyên chất lấy từ thảo mộc
hay khống sản sẵn có trong thiên nhiên, với những kỹ năng phối màu rất tài tình,
các nghệ nhân đã tạo mỗi tranh mỗi vẻ đẹp. Thụ cảm trước màu sắc của thiên
nhiên, của tâm lý dân tộc các nghệ nhân đã đưa lên mặt tranh dân gian Đông Hồ
một cách rất sáng tạo.
14


Với đường nét màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ chúng ta thấy được
cái chân chất, thật thà của tình cảm và “ Tranh dân gian Việt Nam hiền lành như
hạt lúa, củ khoai, vừa thông minh tươi tắn, đắn đo, thân trọng, lại vừa dẽ dàng
thoải mái, sinh động và linh hoạt khiến nhìn vào như múa hát. vơi bảng màu
bình dị khơng những làm vui con mắt mà làm tươi sáng cả không gian thay đổi
cả về nhân sinh quan, chuyển buồn sang vui, đang cực khổ gợi lên niềm tin hứa
hẹn” (Nguyễn Đức Nùng - Cái đẹp của tranh dân gian)
Trong tranh “Em cho gà ăn”.có thể thấy cách quan sát, nhân xét của tranh
thiếu nhi thật tinh tế, sát với thực tế. đàn gà, hoa ,ong bướm ngơi nhà ơng mặt trời
câycối nói lên cái thực tế ở trong cuộc sống đời thường của cảc em, tuy hình hài
chưa đúng nhưng cũng nói lên được nội dung và ý đồ của bức tranh.


Tranh “Em cho Gà ăn” Đỗ Thị Sang
Lớp 6A Trường THCS DTNT- Thường Xn
Tranh thiêu nhi các em ln có cái nhìn hồn nhiên, tươi sáng , âu yếm và
chân thật với cách dùng màu sác luôn rực rỡ, đậm đà và mạnh mẽ. Ở tranh thiếu
nhi, các em luôn vẽ theo sự cảm nhận tự nhiên vốn có, khơng bị lệ thuộc khung
cảnh, màu sắc hiện thực, vẽ theo sự cảm thụ, suy nghĩ của mình.

15


Tranh “ Chăn Trâu” Lò Thị Linh Chi
Lớp 8B Trường THCS DTNT- Thường Xuân

Tranh “Đại Duơng” Cầm Bá Vượt
Lớp 7B Trường THCS DTNT- Thường Xuân
Sự vui tươi, hóm hỉnh, mang tính cách điệu cao được thể hiện rõ ở hai bức
tranh “Chọi Gà”, “Đại Dương”. ở “Đại Dương”chỉ cần hai hình ảnh: rong rêu và
san hơ tạo cho người xem đã thấy một Đại Dương mênh mông, xanh biếc. Cách
chọn hình ảnh thật khéo, nó giống như bức bình phong trong tranh “Đánh Ghen”tranh dân gian Đông Hồ. Những chú cá đủ màu sắc, hoa văn bơi lội tung tăng, hình
16


ảnhđược khái quát và cách điệu đó là phong cách của “Gà Đàn”, “Lợn Đàn”,
những mảng màu nguyên chất, tươi rói trên mình cá thể hiện sự sống động, đó là
bản chất của tranh dân gian Đông Hồ. Ta thấy mặc dù những hình tượng cịn
ngượng ngập,sai sót về tỉ lệ,màu khơng giống thực,nhưng chính vì thế lại tạo nên
một cái rất duyên dáng và rất riêng.
Qua màu sắc trong tranh dan gian Đông Hồ và tranh thiếu nhi
chúng ta thấy như có sự gần gũi,có sự ảnh hưởng lẫn nhau.các nghệ nhân
cũng như các em thiếu nhi thường sử đụng các màu sắc tươi sáng,các mảng

màu đặt cạnh nhau theo với “Chọi Gà” ta lại thấy một bố cục quen mà không
quen, đối xứng mà không đối xứng, không trang trí mà rất trang trí. Phải
chăng “Chọi Gà” là “Đ ấu Vật”
Với cách lựa chọn chủ đề,xây dựng hình tượng sấp xếp bố
cục,đường nét và màu sắc,cùng với cách diễn đạt cảm xúc nhiều vẻ khác
nhau,xem tranh thiếu nhi lối tự nhiên thoải mải,không hề do dự và thường là
những màu nguyên chất ít pha trộn.Những bức tranh đưa người xem đến với
một thế giới tự nhiên vô cùng phong phú về màu sắc ,tạo cho người xem luôn
cảm thấy cuộc sống đầy, niềm vui và tiếng cười khiến người ta quên đi những
lo toan vất vả đời thường, đường nét và màu sắc tranh dân gian Đông Hồ
được các nghệ nhân bố trí và phân bố trong các hình tượng ở tồn bộ bức
tranh,theo suy nghĩ “Lấy con mắt làm thước đo” và “đẹp mắt ta ra mắt
người”,cái đẹp đó sẽ được người ta chấp nhận.
Tranh dân gian Đơng Hồ khơng có ý tả hình ,gây ấn tượng như cảnh
thật mà chỉ lấy hình để gợi ý,đi thẳng vào những yêu cầu của chủ đề. Ở đây
không gian,ánh sáng,con người và cảnh vật đều được ước lệ hoá và bố cục
cũng theo phối cảnh ước lệ. Tranh Lễ Hội Cồng Chiêng Uống Rượu Cần của
đồng bào dân tộc thể hiện độc đáo trong tranh cảm xúc của tuổi thơ về nhiều
thể loại và lối vẽ

17


Tranh “ Lễ hội công chiêng” Lục Văn Linh
Lớp 7A Trường THCS DTNT- Thường Xuân
Thí dụ: Trong tranh “Lợn ăn cây Dáy” thân thì vẽ nằm ngang, đầu thì
ngiêng, mũi thì thẳng theo hướng của thân.
Với cách vẽ này đã diễn tả đựơc đặc điểm, đặc trưng của con lợn. Dù là
vơ tình hay hữu ý, chắc chắn nghệ nhân tranh dân gian Đơng Hồ đã có cân nhắc và
suy nghĩ kỹ trong khi tạo hình. Đối với tranh thiếu nhi vẽ người thì phải có đầy đủ

mắt, mũi, miệng. dù vẽ khn mặt. Vẽ bàn ghế thì phải có đầy đủ bốn chân, hoặc
vẽ cái ấm dù đặt nghiêng khơng nhìn thấy vịi các em vẫn vẽ có cả vòi ấm.

Tranh “Lợn ăn cây Dáy”
18


Tranh “ Vào Mùa” Hà Thị Chinh Lớp 9A Trường THCS DTNTThường Xuân
Xem tranh “”Qua cách diễn tả cảnh, tả người rất hợp tình. Một mùa hè xanh
tươi đầy hoa, lá một cuộc sông gần gũi với thiên nhiên tươi đẹp: lá thật xanh, thật vàng
như ta nhìn thâý màu của đá sỏi tán mịn, màu vàng của hoa dành dành. Nhân vật thân
nghiêng, mặt chính diện, nét viền to khoẻ, chắc, đậm, nhưng lại rất trẻ thơ. Xem tranh
thấy niềm vui, mỉm cười ngẵm mãi không biết chán. Qua tranh dân gian Đơng Hồ cịn
giáo dục cho thiếu nhi tình cảm gia đình. Điều đó được thể hiện qua tranh

Tranh “Đón Tết”

19


Trong tranh thiếu nhi không hẳn các em đều vẽ nét bo lấy hình mảng mà
nhiều khi chỉ là những mảng màu đặt cạnh nhau. Song phần nhiều các em đều đã
biết sử dụng nét để viền lấy hình. Khi tiếp cận với đường nét trong tranh dân gian
Đông Hồ giáo viên giúp cho các em học tập phong cách sử dụng nét trong tranh
dân gian Đơng Hồ phóng khống, khơng gị bó, khơng lệ thuộc.Thưởng thức tranh
dân gian Đơng Hồ các em như được mở rộng thêm tầm mắt về thế giới tự nhiên
mn hình, mn vẻ, được khuyến khích và giúp các em vẽ tốt hơn.
Khi tiếp cận với đường nét, hình mảng trong tranh dân gian Đơng Hồ,
các em như cảm thấy rất gần gũi, đồng cảm như tìm thấy một chỗ dựa vững chắc,
một người bạn thân thiết trong cách vẽ của mình.

Tranh thiếu nhi ln có cái nhìn hồn nhiên, tươi sáng, âu yếm và chân
thật do đó những mảng mầu của các em ln đậm đà và mạnh mẽ. Ở tranh thiếu
nhi, các em ln vẽ theo sự cảm nhân tự nhiên vốn có không bị lệ thuộc khung
cảnh, màu sắc tự nhiên và vẽ theo sự cảm thụ, suy nghĩ của mình.
Tranh dân gian Đơng Hồ, một giá trị văn hố dân tộc tồn tại bao đời
nay vẫn cịn có những đóng góp nhất định cho việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
cho học sinh lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng. Đồng thời gợi cho các em tình yêu
quê hương đất nước, biết nâng niu quý trọng và bảo tồn di sản văn hố dân
tộc. đường nét hình mảng trong tranh dân gian Đơng Hồ đã có những tác
động tích cực khích lệ lòng ham mê nghệ thuật, mong muốn được vẽ, vẽ đẹp
và vẽ một cách tự ti hơn. Tranh dan gian Đông Hồ định hướng cho các em
một phong cách vẽ thoải mái, phóng khống, đơn giản sẽ tạo nguồn cảm hứng
và giúp các em có lịng say mê với bộ môn mỹ thuật. Biết cảm nhận về cái
đẹp là một trong những yếu tố quan trọng giúp học sinh phát triển tồn diện
về: Đức- Trí- Thể- Mỹ và lao động.
2.3. Vai trò của người giáo viên trong dạy học mĩ thuật để phát
huy sự sáng tạo của học sinh.

20


Xem tranh của thiếu nhi, những ngẫu hứng tự nhiên bất ngờ, thú vị hết
sức đáng yêu trong tranh của các em là một sự sáng tạo ra cái đẹp. Như chúng ta
đã biết trẻ em rất thích vẽ, vẽ đối với trẻ em như một trò chơi và trẻ khi mới bắt
đầu vẽ thường là những đường thẳng, đường cong rồi đến những hình mang tính
khái qt. Biểu lộ những cố gắng, những tình cảm, ước mơ lớn lao qua nét vẽ của
mình. (Đó là qúa trình trưởng thành hồn thiện trong tư duy vẽ của các em). thơng
qua đó chúng ta biết được sự nhận thức của các em để giáo dục cho phù hợp. Trẻ
vẽ để lý giải cuộc sống, bộc lộ tâm tư tình cảm về thế giới xung quanh. Qua tranh
của các em, chúng ta cảm nhận được những tư tưởng, tình cảm, thị hiếu của các

em, từ đó có thể đơng viên khuyến khích, uốn nắn các em đi đúng hướng với
những suy nghĩ, tình cảm lành mạnh đối với cuộc sống.
Để phát huy nét độc đáo về bó cục hình mảng trong tranh thiếu nhi người
giáo viên cần có những hiểu biết nhất định về năng lực về chuyên môn và nghiệp
vụ để tạo cho các em một tâm lý học tập thoải mái, hứng thú trong giờ học, tạo
điều kiện cho các em được thể hiên năng lực của mình một cách hiệu quả nhất về
bố cục, hình mảng, màu sắc sẽ được cảm nhận từ từ , có hệ thống được thể hiên
bằng sự tiến bộ qua từng bài vẽ, cần có sự tích hợp giữa các mơn học như văn thơ,
sử, địa, lồng ghép trong tiế học mỹ thuật.
Qua đó các em thấy cánh cò bay lả bay la với những cánh đồng thẳng cánh
cò bay, màu xanh bát ngát chân trời giúp cảm nhận và thể hiện màu sắc. Sự dẫn dắt
tinh tế,khéo léo của người giáo viên sẽ giúp học sinh có một tâm hồn phong phú,
trí tưởng tượng bay bổng. Chắc chắn thành quả sẽ là những bức tranh đầy màu sắc,
rực rỡ và giàu cảm xúc.
Nói tóm lại, vai trị của người giáo viên trong dạy mỹ thuật để phát huy sự
sáng tạo của người học sinh, là sự chủ động, sáng tạo và đổi mới phương pháp dạy
học, người giáo viên cũng là một người nghệ sĩ, sự tài hoa của người nghệ sĩ sẽ
được đơm hoa kết trái bằng thành quả học tập của các em, đó là cảm nhận về cái

21


đẹp, giá trị thẩm mỹ, từ dó bồi dưỡng tình cảm và khả năng thẩm mỹ thông qua
ngôn ngữ tạo hình với những bố cục, hình mảng, màu sắc đường nét sống động và
đa dạng, đẹp hơn hết như tâm hồn của các em.

Kết Luận
Tranh dân gian đã từng là nhu cầu không thể thiếu của nhân dân là một
giá trị văn hoá của dân tộc.
Tranh dân gian gần gũi, không cầu kỳ, dễ hiểu đối với trẻ em, phản

ánh tâm hồn trẻ thơ, được trẻ em u thích. Vì vậy giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ em thiết nghĩ không phải đem đến cho trẻ những cái gì mới lạ mới tốt
mà trước hết là phải biết khai thác, phát huy những giá trị văn hóa nghệ
thuật của dân tộc, giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp, sự hấp dẫn
của tranh dân gian bằng hình tượng, đường nét, màu sắc, qua đó bồi dưỡng,
nhen lên trong tâm hồn trẻ thơ tình cảm u thương ơng bà, cha mẹ, người
thân , bạn bè, tình yêu tổ quốc, yêu thiên nhiên đất nước, biết quý trọng
những thành quả lao động của ơng cha để lại, thắp lên tình cảm yêu nước
thiết tha, tự hào với truyền thống, lịch sự vẻ vang của đất nước, quê hương
để gắng công rèn đức, rèn tài mai sau đem tài năng, trí lực của mình góp
phần làm rạng rỡ non sơng Đất Việt.
Trong thời đại cơng nghiệp hố, hiên đại hố hiên nay, thiết nghĩ,
bên cạnh những tri thức về khoa học công nghệ hiên đại, việc giáo dục cho
các em- những chủ nhân tương lai của đất nước về những nét đẹp văn hoá của
truyền thống dân tộc là rất cần thiết. Với lẽ đó chính là bồi dưỡng cho các em
những tình cảm, đạo đức, lối sống... từ đó xây dựng cho các em một nhân
cách toàn diện trong xu thế hội nhập, tạo cho các em có một nền móng vững
chắc, tự tin vững bước trong tương lai và sánh vai cùng các cường quốc.

22


Tài liệu tham khảo
1.“Làng tranh Đông Hồ”- Nguyễn Thái Lai,Nhà xuất bản mỹ thuật Hà
Nội 2002.
2.“Một số đặc điểm dân tộc của tranh dân gian”- Nguyễn Trân- Nhà xuất
bản Văn hố-Hà Nội 1973.
3.Tranh khắc gỗ Việt Nam- Phạm Văn Đơn- Nhà xuất bản Văn hoá- Hà
Nội 1973.
4. Phương pháp giảng dạy mỹ thuật - Nguyễn Quốc Toản- Nhà xuất bản

giáo dục 1999.
5.Vẻ đẹp của một số tranh khắc gỗ Việt Nam qua các thời đại - văn hoá
nghệ thuật 1972.
6. Giáo trình đồ hoạ- trường đại học mỹ thuật Hà Nội- Hà Nội 1991.
7. Sách giáo khoa- sách giáo viên mỹ thuật trung học cơ sở

23



×