Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Đề cương HP: Thể loại và tác gia tiêu biểu Văn học trung đại Việt Nam (HNUE)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.94 KB, 50 trang )

CÂU 1: LÝ THUYẾT
Trình bày tiền đề của cảm hứng yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (trình
bày về chính trị xã hội kĩ hơn) (tính nhật kí thời đại, sự chuyển biến trong tư
tưởng trung quân); Trình bày tiền đề cảm hứng nhân đạo trong thơ văn Nguyễn
Du; Trình bày tiền đề của cảm hứng tơn giáo trong thơ văn Trần Nhân Tông.
Tiền đề cảm hứng yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang khiếm
khuyết về cơ thể mù lòa và gặp lúc biến loạn nhưng vẫn giữ được phẩm cách thanh
cao. Ơng khơng chỉ là người con có hiếu, người thầy thuốc mẫu mực mà còn là một
nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Ơng chủ trương dùng văn chương
biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ơng làm thơ
là để "chở đạo, sửa đời và dạy người". Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen
chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân u nước của ơng.
* Tiền đề chính trị - xã hội:
- Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn cơng nước ta, triều đình nhà Nguyễn vì lợi
ích của giai cấp mình mà từng bước đầu hàng quân giặc mặc cho những cuộc khởi
nghĩa của nhân dân nổ ra nhưng bị đàn áp hết sức dã man.
- Với lòng yêu nước, thương dân, NĐC đã sử dụng ngòi bút của mình để phê phán, tố
cáo, thể hiện lịng căm thù và khát khao đánh đuổi quân thù.
* Bản thân Nguyễn Đình Chiểu:
- Ơng sinh ra trong bối cảnh hết sức loạn lạc, chứng kiến cảnh triều đình loạn lạc và
trở thành nạn nhân của sự loạn lạc đó - người cha lỡ dở sự nghiệp, gia đình phải li tán,
để lại người mẹ và đàn con năm sáu đứa thơ dại ở Nam Định.
- Năm 1843, ông đỗ đầu trường thi Gia Định, nhà họ Nguyễn liền được họ nhà Võ kết
thông gia. Năm 1847, khi chuẩn bị thi Hương thì tai họa ập đến. Mẹ mất, ơng về chịu
tang mẹ, đường xa cùng với khí hậu khắc nghiệt, bệnh tật cùng nỗi đau thương đã
khiến mắt ông bị mù.
- Không chịu sự khuất phục của số phận, sau khi chịu tang mẹ ông mở trường dạy học,
vừa làm thuốc chữa bệnh cứu người vừa sáng tác thơ văn tun truyền đạo lý. Sau
đó ơng lập gia đình.
- Niềm vui với gia đình chưa được lâu, nỗi bất hạnh chung của đất nước đã ập đến.


1


1859, thực dân Pháp hạ thành Gia Định, ông phải chạy về Cần Giuoc. Cần Giuộc mất,
ông về Ba Tri hưởng ứng trong trào “địa tỵ” do Phan Văn Trị khởi xướng và sáng tác
văn chương cổ vũ kháng chiến, ai điếu các chiến sỹ hi sinh vì đất nước.
- Tóm lại, nhiều bất hạnh liên tiếp từ thuở ấu thơ cho đến tuổi thanh niên, từ cảnh gia
đình đến cảnh chung đất nước đối với NĐC thật giống như những ngọn lửa thử vàng
để minh chứng cho một nghị lực đáng quý. Con người mù lòa ấy đã sống thật ý nghĩa,
đã làm được những việc có ích nhiều hơn cả những người lành lặn khỏe mạnh: vừa
làm thuốc chữa bệnh, vừa dạy học và sáng tác văn chương giúp đời, cứu nước. Cuộc
đời khiêm nhường và sự nghiệp bình dị của ơng từ khi trưởng thành ln gắn liền với
những thăng trầm của cuộc kháng chiến giữ nước những ngày đầu ở Nam Bộ, cũng
như trái tim nhân hậu của ơng mãi gắn bó sắt son với vận mệnh đất nước.
Tiền đề cảm hứng nhân đạo trong thơ văn Nguyễn Du
* Chính trị - xã hội:
- Trịnh - Nguyễn phân tranh
- Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên miên
- Cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh
- Những cơn binh lửa đã khiến non sơng chìm trong cảnh tang thương. Chỉ trong 30
năm, giang sơn nhiều lần đổi chủ kéo theo sự phân hóa, thay đổi lớn trong đời sống
xã hội, sự thăng trầm của các danh gia vọng tộc như dòng họ Nguyễn Tiên Điền.
* Bản thân Nguyễn Du:
- Cuộc đời 55 năm của Nguyễn Du gắn với một thời đại lịch sử đầy dữ dội, chính bối
cảnh đó tác động rất lớn đối với Nguyễn Du. Cuộc đời của ơng trải qua nhiều thăng
trầm nhưng có thể coi cuộc đời của ông đầy những bất hạnh.
- Cuộc đời của ông trải qua 4 chặng:
+ 1765 – 1780: thơ ấu sống trong vàng son, nhung lụa
+ 1780 – 1786: cuộc sống yên ổn của Nguyễn Du trong gia đình người anh cả bị
xáo trộn bởi những biến cố lớn. Vì vụ án năm Canh Tý, Nguyễn Khản bị hạ gục. Năm

1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, chỗ dựa của Nguyễn Khản khơng cịn. Năm 1784 kiêu
binh nổi loạn, tìm giết Nguyễn Khản và phá nát cơ dinh của ông ở kinh thành. Nguyễn
Khản phải bỏ chạy, từ đây Nguyễn Du lâm vào cảnh thân thế trăm năm mặc cho gió
bụi, ăn nhờ hết miền, sơng đến miền biển.


+ 1786 – 1802: Nguyễn Huệ ra Bắc lần 1 tiêu diệt chúa Trịnh, lên ngơi hồng đế.
Năm 1789, Nguyễn Huệ ra Bắc lần 2 diệt quân Thanh, vua Lê bỏ chạy khỏi kinh thành,
triều Lê – Trịnh sụp đổ, chỗ dựa của họ Nguyễn Tiên Điền đã mất. Nguyễn Du đau
đớn và tìm cách khơi phục lại nhà Lê nhưng đều thất bại. Nhà thơ lâm vào tình cảnh
bế tắc.
+ 1802 – 1820: năm 1792, Nguyễn Huệ mất, triều Tây Sơn bị diệt vong và triều
Nguyễn được Gia Long tạo dựng, Nguyễn Du ra làm quan cho triều Nguyễn và được
trọng dụng. Năm 1813, ông được cử đi chánh sứ Trung Quốc nhưng tâm tư ông luôn
day dứt, mâu thuẫn. Năm 1820, ông lâm bệnh nặng rồi qua đời.
- Ông sinh ra trong gia đình danh gia vọng tộc nhưng phải sống cuộc sống như những
người dân bình thường, có giai đoạn cịn khổ đau hơn nên ơng hiều rõ nhân tình thế
thái, những sự khổ đau, bất hạnh…của nhân gian. Cảm hứng nhân đạo cất lên trong
thơ văn Nguyễn Du cũng chính là sự cảm thương cho chính bản thân mình.
Tiền đề cảm hứng tơn giáo trong thơ văn Trần Nhân Tơng
* Chính trị - xã hội:
- Thời nhà Trần dưới sự trị vì của Trần Nhân Tơng đã đánh tan hai lần xâm lược của
quân Mông – Ngun. Ơng được đánh giá là một vị vua có tinh thần thân dân, quan
tâm đến đời sống, quyền lợi, ý kiến của mn dân. Chính vì vậy, ơng đã ban hành rất
nhiều chính sách có lợi cho nhân dân như: miễn tô thuế, tạp dịch cho các địa phương
chịu thiệt hại nặng nề bởi chiến tranh. Ngồi ra, ơng cịn ban hành nhiều chính sách ổn
định kinh tế, xã hội. Nhờ vậy, đất nước mau chóng phục hồi, hưng thịnh sau sự tàn
phá của chiến tranh.
- Thời nhà Trần, ba hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo hết sức được chú trong phát triển
tạo điều kiện cho tam giáo đồng nguyên.

* Bản thân: chất thiền
- Mặc dù là người hồng tộc nhưng ơng ln có chí hướng xuất gia theo Phật. Ơng
đã nhiều lần xin nhường ngơi thái tử cho em nhưng khơng được chấp thuận. Có lần
ơng còn nhân đêm khuya vượt thành đi vào núi Yên Tử ẩn tu.
- Thơ của ông đang đậm chất thiền. TNT vừa là bậc đế vương, vừa là thiền sư nên tp
của ơng vừa có phần đời, vừa có phần đạo. Là một vị vua làm thơ, sáng tác của TNT
thẫm đẫm nỗi lo nước, lo đời. Ở cương vị 1 thiền sư, thơ của ông chứa đựng những tư

3


tưởng Phật học sâu sắc. cảm hứng yêu nước, cảm hứng thiên nhiên, cảm hứng tôn giáo
là những cảm hứng chính trong thơ văn TNT
- TNT là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được gọi là Phật Hoàng, là tổ
thứ nhất (Pháp Loa nhị tổ, Huyền Quang tam tổ). Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đề cao
sự tự giác ngộ và nỗ lực rèn luyện của mỗi cá nhân. Dù xuất gia tu hành hay tu tại gia,
sống trong chùa hay ở giữa cõi đời, chỉ cần tâm hướng Phật, cởi bỏ lòng tham, dục
vọng mọi nười đều có thể đi đến con đường giác ngộ.
- Bản thân TNT: đi thuyết pháp khắp nơi, khuyên răn bỏ những hủ tục, mê tín và
thực hành giáo lý Thập thiện. Ông đến tận Chăm pa để tạo lập quan hệ ngoại giao,
đặt cơ sở cho việc châu Ô, Lý trở thành một bộ phận của Đại Việt sau đó.
Đặc điểm/ biểu hiện của cảm hứng nhân đạo, thế sự, yêu nước (chỉ ra biểu hiện
của cảm hứng trong bài thơ đó) ; (đọc bài thơ “Cái tử” của Cao Bá Quát).
Cảm hứng nhân đạo.
* Khái niệm:
- Nhân đạo là tình cảm thương xót hướng đến con người nhỏ bé, bất hạnh.
- Nhân đạo gắn liền với chủ nghĩa bác ái, nhấn mạnh tình yêu thương con người, đặc
biệt là những con người bé nhỏ, bất hạnh mà không phân biệt giới tính, giai cấp, dân
tộc…
* Đặc điểm: Đối tượng hướng đến là con người, đặc biệt là những con người có số

phận bất hạnh, những con người nhỏ bé trong xã hội.
* Biểu hiện:
- Cảm thơng, thương xót, thấu hiểu, chia sẻ với nỗi đau (vật chất và tinh thần) của
con người.
+ Cảm thông, chia sẻ với nỗi đau khổ, bất hạnh của con người: con người trong
chiến tranh, người phụ nữ trong xã hội phụ quyền, người tri thức trong xã hội loạn
lưu, nỗi đau khổ của con người nói chung trong xã hội có khn khổ cứng ngắc.
+ Chiến tranh là một tai họa khủng khiếp đối với con người, đặc biệt là đối với những
người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn
đã tái hiện cuộc sống cô đơn, buồn tủi, tâm trạng bi thương, sầu cảm của người phụ nữ
có chồng đi chinh chiến nơi biên ải xa xơi “Sầu lên ngọn ải, ốn ra cửa phịng”. Qua
đó, Nguyễn Du đã bay tỏ bao nỗi thương cảm, xót xa cho nỗi đau, nỗi nhớ, nỗi sầu, nỗi


lo của người thiếu phụ đợi chồng.
+ Niềm cảm thương, nỗi đau trước cuộc sống khổ đau, bế tắc của nhân dân giữa buổi
khó khăn, tao loạn được thể hiện trong tác phẩm “Chạy giặc” – Nguyễn Đình Chiểu.
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay”
+ Hay trong truyện “Từ thức lấy vợ tiên” đã phản ánh bi kịch của người tri thức: Từ
Thức đại diện cho mẫu hình kẻ sĩ khơng thích nghi được với thời cuộc, không chấp
nhận thực tại thối nát, bỏ quan quy ẩn, tìm kiếm tự do nhưng khơng thốt li khỏi hiện
thực, khơng cắt đứt được với những ràng buộc của cõi nhân sinh. Quay trở về quê cũ,
chàng một lần nữa phải dứt áo ra đi đã thể hiện nỗi cô độc, sự bế tắc trên con đường
tìm kiếm hạnh phúc
- Trân trọng, đề cao vẻ đẹp, giá trị con người: vẻ đẹp hình thức, tâm hồn, trí tuệ, tài
năng, ý thức, khát vọng, …
+ Vẻ đẹp con người được khám phá, phát hiện ở những tầng bậc mới, sâu sắc và

nhân bản hơn: phẩm chất, đạo đức, tài năng (cống hiến cho cộng đồng) + hình thể, tài
năng và ý thức cá nhân, khát vọng mưu cầu hạnh phúc. Con người cá nhân được ý thức
như một thực thể hiện tồn, cuộc sống trần tục được coi trọng, đề cao → mẫu hình con
người lí tưởng, trung tâm của văn học: con người phàm trần (trong tương quan với
mẫu hình con người thánh nhân quân tử ở các giai đoạn trước). (TK XVIII – đầu TK
XIX)
+ Nguyễn Du đã dành cho những “đấng tài hoa” tất cả tấm lịng chân trọng và cái
nhìn “biệt nhỡn liên tài” hiếm có. Qua ngịi bút của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên
với con người tài sắc vẹn toàn:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Tuy nhiên con người với tất cả những vẻ đẹp tài sắc lại chịu kiếp tai họa:

5


“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
- Khẳng định, bảo vệ những khát vọng chính đáng của con người: khát vọng khẳng
định bản thân, khát vọng tình yêu, khát vọng mưu cầu hạnh phúc, khát vọng tự
do, …
+ Phát hiện và khẳng định những khao khát nhân bản của con người: khao khát
yêu thương, khao khát hạnh phúc. (lần đầu tiên trong văn học khát khao yêu thương,
hp của con người được đề cập công khai; Nguyễn Dữ quan tâm đến con người trong
truyện là số phận con người cá nhân) (TK XV – XVII)
+ Hay trong “Truyện Từ Thức lấy vợ tiên”, Nguyễn Dữ đã đề cập đến vấn đề khát
khao hạnh phúc của con người mà nhất là người phụ nữ. Dù ở trong thời đại nào, là
người hay tiên, họ đều hiện lên với những khát khao nhân bản nhất. Ngoài ra, thông

qua nhân vật Từ Thức, tác giả đề cập đến khát khao tự do, khát khao được giải thoát ra
khỏi thế giới thực tại tù túng, ngột ngạt, khát vọng về một thế giới thanh sạch cho người
trí thức có nhân cách và khát khao về một cuộc sống hạnh phúc.
- Phê phán và đấu tranh chống lại những thế lực chà đạp lên con người.
+ Đồng thời với việc khẳng định con người với tất cả những vẻ đẹp giá trị, các tác
giả còn phê phán thế lực chà đạp lên con người, đấu tranh cho quyền sống, quyền
hạnh phúc của con người.
+ Trong tác phẩm “Sở kiến hành” của Nguyễn Du, ngồi việc cảm thơng cho số
phận của những người phụ nữ mà ở đây là người phụ nữ và những đứa con ăn xin nơi
đầu đường xó chợ hết sức đau khổ. Trái với khung cảnh bi thương ấy, tác giả phác họa
ở trong một quán xá nào đó, quan lại chè chén lu bù, những thức ăn quan lại không
đụng đũa, tùy tùng chỉ nếm qua rồi vứt cho chó, nhưng đến cả chó cũng khơng thèm
ăn. Qua đó, Nguyễn Du phê phán tầng lớp quan lại không chăm lo đến đời sống của
nhân dân mà chỉ lo ăn uống tiệc tùng, xa hoa, lãng phí, bóc lột cơng sức lao động của
người dân, …


Cảm hứng thế sự.
* Khái niệm: Cảm hứng thế sự là những tác phẩm đề cập đến các vấn đề nhân sinh,
xã hội có tính chất đời thường, thế tục và thể hiện qua niệm, thái độ, cách đánh giá,
phân tích, phê bình, lí giải của tác giả.
* Đặc điểm:
- Đối tượng phản ánh: những vấn đề nhân sinh xã hội có tính chất đời thường.
- Quan điểm, thái độ của tác giả: phân tích, đánh giá, luận bàn, nghiêng về phê
phán, phủ nhận.
- Vị trí trong nền văn học trung đại VN: Là một trong những nguồn cảm hứng chủ
đạo, có mặt ở tất cả các giai đoạn của văn học trung đại VN. Vai trò của cảm hứng thế
sự đặc biệt được khẳng định trong văn chương của các nhà nho.
- Lực lượng sáng tác: chủ yếu là các nhà nho. Mối quan tâm lớn nhất của các nhà
nho là vấn đề nhân sinh xã hội hay còn là nỗi lo đời, thương đời. Quan niệm về giá trị

của các nhà nho: xu hướng đối lập lí tưởng nhân nghĩa với lợi ích, vật chất, tiền tài,
danh vọng.
- Quan niệm văn học: coi trọng chức năng giáo huấn, gắn văn chương với nhiệm
vụ chính trị, xã hội
* Biểu hiện:
Về nội dung:
- Suy tư, triết lí về nhân tình thế thái: sự phức tạp của mối quan hệ nhân sinh; sự tha
hóa của đạo đức con người; đồng tiền chi phối mối quan hệ giữa người với người, các
giá trị đảo lộn. Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói
đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của
người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được
ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó
phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực.
+ Trong “Tự thuật 9”, Nguyễn Trãi đã phơi bày và tố cáo, phê phán bản chất thối
nát của xã hội lúc bấy giờ. Một xã hội mà ở đó, các giá trị bị đảo lộn một cách trắng
trợn, kệch cỡm. Người có tài năng thì khơng được chân trọng, bị coi khinh, coi rẻ còn
những thứ phi giá trị lại giữ vị thế quan trọng. Qua đó ông thể hiện suy tư, lo âu trước
sự tha hóa của con người, của xã hội.

7


“Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thì hay héo cỏ thường tươi”
+ Hay trong tác phẩm “Vịnh nhân tình thế thái”, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện sự
suy tư trước xã hội bị đồng tiền chi phối, trước sức mạnh ghê gớm của đồng tiền, nó
làm đạo đức suy đồi, làm đổi trắng thay đen, thay đổi bản chất của con người.
“Hễ khơng điều lợi, khơn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay”
- Phản ánh bức tranh đời sống xã hội, chính trị đương thời: giai cấp thống trị suy

đồi, chiến tranh loạn lạc, cuộc sống người dân đói khổ, bế tắc, …
+ Ta có thể thấy điều này rõ nét thông qua tác phẩm “Đùa ông Phủ” của Trần Tế
Xương:
“Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình n
Chữ y chữ chiểu khơng phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ tiền”
+ Hai tiếng "nhờ trời" với ba chữ "cũng bình yên" là một cách nói chế giễu, châm
biếm; ơng phủ được làm quan nhờ một nơi "bình yên", đám dân đen dễ bảo, dễ đèo đầu
cưỡi cổ, bổng lộc ấy là "nhờ trời", được trời ban cho. Việc quan, mọi công văn giấy tờ,
ông phủ chỉ làm qua loa, chiếu lệ, thậm chí khơng ngó ngàng đến, "khơng phê đến.
Trái lại, "một chữ tiền" tri phủ lại "quen phê". Ba chữ "chỉ quen phê" đã làm nổi bật
một thói quen, một sở trường, một niềm đam mê lớn của "quan phụ mẫu" này! Những
dân đen "khốn nạn" đâm đầu vào cửa quan sẽ trở thành con mồi cho tri phủ. "Một chữ
tiền" đặt cuối bài thơ là một cú đánh hiểm của Tú Xương đối với bọn tham quan ô lại
thời bấy giờ.
Bài thơ trên là một sự đả kích, châm biếm một cách sâu cay thói tham nhũng, đục
khoét dân của tri phủ Xuân Trường, đồng thời cũng của bọn quan lại gian tham trong
xã hội thực dân nửa phong kiến.
+ Hay trong truyện Hà Ơ Lơi phản ánh những nếp sống hư đốn đời Trần Dụ Tôn,
tố cáo cuộc sống bê tha trụy lạc của các vua chúa ngày xưa, sự dâm ô của họ không
kiêng nể một ai và sẵn sàng bênh vực cho tội lỗi. Cảnh sống giả dối của bà góa cũng


được phơi bày bằng những nét thô bạo. Cả một xã hội suy tàn được trưng ra với tất cả
những cái xấu xa, bỉ ổi. (Lĩnh Nam chích quái – Trần Thế Pháp)
- Phản ánh cuộc sống sinh hoạt thường nhật của con người: những phong tục tập
quán, những sinh hoạt đời thường: thi cử, lễ hội, hôn nhân, lao động sản xuất, … những
mối quan hệ gia đình, xã hội: quan hệ quân thần, phụ nữ, bằng hữu, huynh đệ, phu thê,
quan hệ giữa giai cấp thống trị và người bị trị, giữa kẻ giàu và người nghèo, …

+ Truyện Trầu Cau giải thích tục lệ ăn trầu và cưới xin của ta. Đó là truyện của hai
người anh em đang ở thuận hịa với nhau thì bỗng nhiên một người con gái đến làm
cho hạnh phúc của họ tan vỡ. Người em buồn bã đi lang thang rồi chết hóa thành cây.
Người anh về sau cũng gục chết hóa thành một tảng đá. Người vợ thương chồng đi tìm
rồi cũng lại chết hóa thành cây trầu. Sau đấy Hùng Vương biết chuyện và tình cờ khám
phá ra cái thú ăn trầu. Đó là một cách nói bóng bẩy để nói đến căn bản của hơn nhân
Việt Nam là ái tình. (Lĩnh Nam chích qi – Trần Thế Pháp)
+ Truyện Bánh Chưng Bánh Giầy kể lại sự quý trọng của người VN đối với bánh
dày và bánh trưng. Nguồn gốc của hai thứ bánh ấy có tính thần thánh vì chính thần
thánh đã báo mộng cho Lang Liêu biết cách làm bánh. Bánh dày hình trịn tượng trưng
cho trời, bánh trưng hình vng tượng trưng cho đất, thể hiện quan niệm về triết lí âm
dương và tín ngưỡng phồn thực (sinh sản). (Lĩnh Nam chích quái – Trần Thế Pháp)
Về hình thức:
- Về thể loại: Cảm hứng thế sự có mặt ở nhiều thể loại của văn học trung đại, hầu hết
là thể loại văn học nghệ thuật: Thơ Đường luật chữ Hán, chữ Nôm, truyện Nôm, ngâm
khúc, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi, ...
- Ngơn ngữ: sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm; khuynh hướng sử dụng ngơn ngữ
đời thường.
- Hình tượng: bên cạnh những hình tượng mang tính tượng trưng, ước lệ, xuất hiện
nhiều hình tượng có nguồn gốc từ đời sống (người dân bé nhỏ, người ăn mày, kẻ tha
hương, tiến sĩ giấy, mẹ Mốc, ơng phỗng đá, anh khóa hỏng thi, …)

9


Cảm hứng yêu nước
* Khái niệm: Yêu nước theo nghĩa hẹp là tình cảm u thương, gắn bó một cách tự
nhiên, không vụ lợi với nơi sinh ra, lớn lên hoặc sinh sống. Yêu nước theo nghĩa rộng
là yêu gia đình, quê hương, giang sơn đất nước, dân tộc, đồng bào, …
* Đặc điểm:

- Cảm hứng yêu nước là cảm hứng xuyên suốt văn học trung đại VN.
- Cảm hứng yêu nước giữ vai trò chủ đạo trong những giai đoạn nhất định.
- Cảm hứng yêu nước thời kì chống ngoại xâm có những biểu hiện khác biệt rõ nét
so với thời kì xây dựng triều đại phong kiến.
* Biểu hiện:
- Khẳng định độc lập, chủ quyền của đất nước:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Bài thơ đã khẳng định một cách dõng dạc, chắc nịch về độc lập, chủ quyền của đất
nước ta: Đại Việt ta là một quốc gia độc lập, có lãnh thổ riêng, được trời đất, thần linh
phân định tại sách trời. Từ đó, Lý Thường Kiệt kết lại bài thơ bằng lời cảnh báo đầy
đanh thép đối với hành động ngơn cuồng, phi lí của qn xâm lược: đó là kết cục thất
bại thảm hại của chúng khi xâm phạm bờ cõi nước Nam bởi chúng đã đi ngược lại với
lẽ trời.
- Căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước:
Trong “Hịch tướng sĩ”, Trần Quốc Tuấn đã trực tiếp bộc bạch nỗi lòng căm thù
giặc sâu sắc đến mức quên ăn quên ngủ, đau đớn tột cùng “Ta thường đến bữa quên ăn,
nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi đau, nỗi uất hận ấy đã hoá
thành hành động “muốn xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù” và cao hơn nữa là
ước nguyện sẵn sàng xả thân vì nước “dẫu cho trăm thần này phơi ngồi nội cỏ. nghìn
xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”
- Tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc, về những chiến công vang


dội của thời đại, về thành tựu của quốc gia, dân tộc, về sức mạnh của con người và
vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, …
“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã
Cũng là bãi đất xưa, thưở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”

“Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu là bài ca hào hùng của thời đại đã
thể hiện được khí thế mạnh mẽ của dân tộc ta. Với tác giả, Bạch Đằng giang không
đơn giản chỉ là địa danh, là thẳng cảnh nổi tiếng mà còn là chiến địa lừng danh với
những chiến công lẫy lừng đã đi vào lịch sử của qn dân ta.
- Khát vọng hịa bình cho đất nước, khát vọng xây dựng quốc gia phồn thịnh, vững
bền.
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước vẫn nghìn thu”
Trần Quang Khải đã tái hiện lại khơng khí hồnh tráng, khí thế chiến thắng vang
dội của quân dân nhà Trần qua bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”. Bài thơ vừa là tổng
kết một chặng đường kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược với những
chiến công oanh liệt; vừa xác định ý thức trách nhiệm lớn lao của mỗi người trong việc
bảo vệ, xây dựng đất nước thanh bình, bền vững, dài lâu.
- Lịng yêu thương, gắn bó với quê hương (đặc biệt trong thơ đi sứ)
Ta có thể thấy tình u q hương sâu sắc trong bài “Quy cố trạch” của Cao Bá
Quát:
“Xóm chợ người đông đúc
Tre làng xanh một màu
Ngõ sâu tiếp đường cái
Cổng tre lên tiếng chào”
=> Quê hương được ông tái hiện lên với những hình ảnh bình dị, quen thuộc, trở đi trở
lại. Đó là cây gạo đầu làng, xóm chợ, đường làng, cái cổng tre, … rất xúc động. Điều
này cho thấy tình yêu quê hương đất nước luôn nồng nàn trong tâm hồn Cao Bá Quát.

11


Sự giao thoa: trình bày sự giao thoa giữa cảm hứng nhân đạo và thế sự, nhân đạo

và tôn giáo, yêu nước với thiên nhiên. (trong toàn bộ văn học trung đại, lấy 3 dẫn
chứng).
Cảm hứng nhân đạo – thế sự
Trong cuộc đời cầm bút của mình, các tác giả khơng bao giờ đóng khung bản thân
trong một cảm hứng sáng tác nhất định. Bởi các cảm hứng sáng tác ln có sự gặp gỡ,
giao thoa nhau, cùng gây dựng lên ý nghĩa cho tác phẩm. Ta có thể bắt gặp sự giao
thoa giữa cảm hứng thế sự và cảm hứng nhân đạo khi nghiền ngẫm những tác phẩm
văn học trung đại. Họ lấy chất liệu từ đời sống dân gian, từ cuộc sống thường nhật của
nhân dân hay những câu chuyện chốn kinh thành xa xôi, nơi cung cấm của vua chúa,
quan lại, ... Bằng sự tinh tế, nhạy bén của bản thân, các tác giả văn học trung đại có thể
bóc tách, lột trần lớp vỏ bọc bên ngoài để thấy được những vấn đề thực sự đằng sau nó.
Từ đó, người nghệ sĩ bày tỏ thái độ lên án, châm biếm sâu cay trước những chuyện đời
“chướng tai gai mắt”; sự cảm thơng, xót xa trước số phận bất hạnh của con người; cái
nhìn trân trọng, ngưỡng mộ nhân cách cao đẹp của một con người tài hoa hay những
chiêm nghiệm, lý giải về những vấn đề xoay quanh cuộc sống. Đó chính là cách các
tác giả trung đại thể hiện tấm lòng nhân đạo của bản thân trước thế sự họ trải qua hoặc
chứng kiến.
- Sự giao thoa giữa cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự được thể hiện ở 2 luận
điểm sau:
+ Phản ánh cuộc sống khổ đau, bất hạnh của con người cùng các căn nguyên:
chiến tranh, thiên tai, nhân họa, …
+ Phê phán, tố cáo tội ác của giai cấp cầm quyền, của những thế lực tàn bạo gây
nên nỗi khổ cho con người.

* Chứng minh:
- Tác phẩm “Mẹ Mốc” – Nguyễn Khuyến: (Ca ngợi người phụ nữ > Nhân đạo)
+ Trong tác phẩm “Mẹ Mốc”, Nguyễn Khuyến đã phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh
của người phụ nữ có nhan sắc tuyệt trần phải giả vờ điên dại để danh trọn tâm tư
cho chồng con đang ở xa.
+ Cùng với niềm cảm thơng sâu sắc đó, Nguyễn Khuyến phê phán xã hội rối ren,



xoay vòng bế tắc, những con người “phàm phu tục tử” trong xã hội với những mưu
tính xấu xa với thân thể của người phụ nữ mà từ đó cảm khái xã hội đạo đức.
+ Tác phẩm “Mẹ Mốc” của Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh người phụ nữ bé
nhỏ trong xã hội phong kiến để bày tỏ nỗi lòng của một nhà thơ “ưu thời mẫn thế”. Sự
bày tỏ niềm thương xót trước số phận của người phụ nữ giả điên để dành trọn tâm tư
cho chồng con là cảm hứng nhân đạo nhưng sự phát hiện về hành động của nhân vật
lại trở thành cảm hứng thế sự. Nỗi băn khoăn, dằn vặt của nhà thơ trước tình cảnh loạn
lạc của xã hội là cảm hứng thế sự nhưng tấm lịng xót xa của nhà thơ trước hồn cảnh
ấy lại là cảm hứng nhân đạo. Tấm lòng nhân đạo ấy sẽ ln cịn mãi trong tư tưởng của
Nguyễn Khuyến, ngay cả khi chết đi cũng không thể nào nguôi ngoai “Cho đến lúc
thành tro mà lệ vẫn chưa khô”.
- Tác phẩm “Sở kiến hành” của Nguyễn Du: (Nhân đạo)
+ Nguyễn Du phản ánh cuộc sống đói khổ của con người trong xã hội phong kiến:
mẹ con người hành khất xin ăn dọc đường cịn bọn quan lại thì rượu thịt thừa mứa
“người thừa cứ đổ xuống sông, người chết đói mị ăn khơng được”.
+ Qua đó, Nguyễn Du phê phán sâu sắc bọn vua quan vô trách nhiệm trước nỗi
thống khổ của nhân dân. Trái ngược với cảnh mẹ con ăn xin, vua quan nào là rượu
thịt ê chề vẫn không đụng đũa, tùy tùng cũng chỉ nếm qua rồi đổ đi cho chó nhà hàng
xóm nhưng chó cũng chán thức ăn ngon.
+ Cảm hứng thế sự trong bài thơ được cất lên từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.
Có đồng cảm mới có sự lo âu trước muôn sự cơ cực của người dân. Nhà thơ đã nói lên
một sự thật đau lịng về quyền sống và hạnh phúc của những con người nhỏ bé dưới
đáy xã hội. Cả hai nguồn cảm hứng đều bắt nguồn từ cái tâm “tiên thiên hạ chi ưu nhi
ưu”, yêu thương con người cùng tài năng của tác giả Nguyễn Du.
Cảm hứng nhân đạo - tôn giáo
- Thời trung đại, ở các nước phương Đơng nói chung, VN nói riêng đã chịu ảnh hưởng
sâu đậm của Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng Lão Trang nên tư tưởng Tam giáo đã
đi vào thế giới văn chương như một lẽ tất nhiên. Khuynh hướng cảm hứng tôn giáo đã

xuất hiện trong các sáng tác với mục đích truyền bá, luận giải, tán dương tư tưởng
tôn giáo. Đồng thời, cảm hứng tôn giáo cịn có mối quan hệ ảnh hưởng, gặp gỡ và hòa

13


hợp giữa các yếu tố tích cực của Tam giáo với cảm hứng nhân đạo trong các sáng tác
trung đại.
- Đại diện như triết lý Tứ đế (Khổ - Tập - Diệt - Đạo) được thể hiện qua nhân vật
Kiều trong “Đoạn trường tân thanh”.
+ Triết lý về khổ xuất hiện rất đậm nét và đa dạng qua thi phẩm, Nguyễn Du đã
mượn thân phận của người con gái, một thành phần hứng chịu nhiều bất công và đau
khổ nhất của thời phong kiến xa xưa để ngợi ca, xót thương cho những kiếp người tài
hoa bạc mệnh cũng như phản ánh nỗi đau khổ của kiếp người theo quan niệm Phật giáo.
Cái khổ ấy là do xã hội và con người mang lại cho nàng, nhưng sâu xa hơn hết, chính
là do nàng tự chuốc lấy bao phiền muộn cho mình, để rồi phải chịu số kiếp truân chuyên
mười lăm năm đoạn trường. Nguyên nhân tạo ra bao cảnh đoạn trường cho nàng là do
từ ái sanh ưu, từ ưu sanh khổ, vì một chữ tình mà đã đẩy nàng chìm nổi trong sóng gió
ba đào. Kiều nếu khơng có sự thương cảm với nấm mộ Đạm Tiên bên đường, khơng
nặng mối tình si với chàng Kim thì có lẽ Kiều sẽ có một cuộc đời ung dung tự tại.
+ Chữ “tâm” là thiện căn, mà cái gốc của cái thiện chính là “hiếu nghĩa”, dùng cái
hiếu để chiến thắng cái ác, là nguồn gốc cho bao truân chuyên của một kiếp hồng nhan
bạc phận. Nhưng Nguyễn Du đề cao tâm thiện, đề cao những phẩm chất tốt đẹp ấy, tất
sẽ thắng được vận mệnh nghiệt ngã theo quan niệm “phúc đức tại mẫu”. Ở đây, Nguyễn
Du đã thể hiện cái nhìn nhân đạo của mình khi khẳng định sự cảm thông với số phận
và đề cao con người thiên tính của Kiều. Đồng thời, chữ Tâm trong Phật giáo tương
đương với chữ Tình “tâm là phúc đức, tình là thiên hoan” ý là Kiều khơng chỉ khổ vì
xã hội đồng tiền mà cịn khổ ở tâm nặng tình, đó chính là cái nghiệp mà Thúy Kiều tự
tạo cho mình với “nội tâm đa đoan”.
Cảm hứng yêu nước - thiên nhiên

- Viết về thiên nhiên với niềm hứng thú, say mê, ngợi ca cảnh sắc tuyệt đẹp của thiên
nhiên để thể hiện lòng yêu nước.
- Các nhà thơ thời Trần hướng ngòi bút đến thiên nhiên rộng lớn, hùng tráng. Nhiều
địa danh gắn với chiến công chống giặc và đã vào thơ với một cảm hứng mãnh liệt,
được mô tả bằng hình tượng kì vĩ, trong sáng, chứa đựng những lời bình phẩm mang
tầm tư tưởng lớn.
+ Mấy chục năm sau chiến thắng, sơng Bạch Đằng vẫn hồnh tráng trong thơ vua


Trần Minh Tông, trong “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu. Với Trương
Hán Siêu, “Bạch Đằng giang” là địa danh, là thắng cảnh nổi tiếng nhất, đủ thỏa mãn
khát vọng, chí bốn phương của khách viễn du. Bởi nơi đây còn là chiến địa lừng danh
chiến thắng của dân tộc. Qua lời kể của các nhân vật bô lão, bài phú tái hiện lại trận
đánh lịch sử nơi đây, làm sống lại những chiến công liên tiếp trên sông với khí thế bừng
bừng của đội quân cứu nước:
“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao
Đương khi:
Muôn đội thuyền này, rừng cờ phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”
“Bạch Đằng giang phú” là bài ca hào hùng của thời đại đã thể hiện được khí thế
dân tộc qua những hình ảnh kì vĩ. Qua đó thể hiện được tinh thần yêu nước chống xâm
lược của tác giả.
+ Hay trong tác phẩm “Hạnh Thiên Trường hành cung”, thông qua miêu tả thiên
nhiên tươi đẹp, ông đã bày tỏ cảm xúc về hai trận thắng giặc:
“Cảnh thanh u vật diệc thanh u
Thập nhất tiên châu thử nhất châu
Bách bố sinh ca cầm bách thiệt
Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu”
Cảnh sắc tươi đẹp, thanh nhã, tĩnh lặng như chốn thần tiên. Đất trời, núi sơng, cây

cỏ, chim chóc, vầng trăng được đón nhận với cái tâm thanh thản, ung dung. Non sơng
thanh bình là niềm tự hào, kiêu hãnh của đấng quân vương vừa hoàn thành sứ mệnh
lịch sử, lãnh đạo kháng chiến chống qn xâm lược. Có lẽ chính vì tình u vơ bờ dành
cho đất nước nên ơng mới có thể viết nên những dòng tuyệt tác như vậy.
Cảm hứng thiên nhiên: Cảm hứng thiên nhiên là 1 trong những ảm hứng chủ đạo
của văn học trung đại. Hãy giải thích và làm sáng tỏ ý này?
-

Sự có mặt/ vị trí của cảm hứng thiên nhiên ở 4 giai đoạn VHTĐ:

+ Giai đoạn 10 – 14: Trần Nhân Tông
+ Giai đoạn 15 – 17: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
+ Giai đoạn 18 đến giữa 19: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát.
15


+ Giai đoạn cuối 19: Nguyễn Khuyến.
* Khái niệm:
- Thiên nhiên là toàn bộ thế giới tự nhiên xung quanh con người, không phải do
con người tạo nên, bao gồm các yếu tố: khơng khí, nguồn nước, tài ngun, khống
sản, động thực vật, các yếu tố địa lí, địa hình, … Trong văn học, thiên nhiên thường
được hình dung gắn liền với cảnh quan, với sự hiện diện của các loài động - thực vật.
- Cảm hứng thiên nhiên là những tác phẩm lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm mĩ,
viết về thiên nhiên với niềm say mê, ca tụng, ngưỡng mộ. Thiên nhiên là hiện thân
của cái đẹp, khơi gợi những rung cảm thẩm mĩ của người nghệ sĩ.
- Theo cách tiếp cận khác, cảm hứng thiên nhiên là những tác phẩm có sự xuất hiện
của hình ảnh thiên nhiên để biếu đạt các vấn đề khác nhau: ca tụng vẻ đẹp của thế giới
tự nhiên, ngụ ý tư tưởng đạo đức, tơn giáo, thể hiện lí tưởng, chí hướng, lối sống, …
Thiên nhiên là chính nó + thiên nhiên ngụ ý + thiên nhiên biểu tượng.
* Vị trí của cảm hứng thiên nhiên: có mặt suốt tiến trình văn học trung đại, là một

trong những khuynh hướng cảm hứng quan trọng, gắn liền với các khuynh hướng cảm
hứng: u nước, nhân đạo, tơn giáo, thế sự, có vai trò, đậm nhạt tùy vào từng giai đoạn
lịch sử và các tác giả.
* Tiền đề cảm hứng thiên nhiên:
- Đặc thù nền văn minh nông nghiệp: con người sống dựa vào thiên nhiên, khai thác
thiên nhiên, chịu sự chi phối của thiên nhiên => tâm lý sùng bái, ngưỡng mộ thiên
nhiên, ý thức về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa con người và tự nhiên.
- Quan niệm về thiên nhiên, thái độ với thế giới tự nhiên của người trung đại
- Sùng thượng thiên nhiên, coi tự nhiên là chân lý tối cao: con người thuận theo đất,
đất thuận theo trời, trời thuận theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên (Đạo đức kinh) =>
quan niệm vạn vật hữu linh, nghi thức tế lễ thần sông núi.
- Lý tưởng hóa thiên nhiên, coi thiên nhiên là sự hiện thân của sự trong sạch, thuần
khiết, là môi trường sống của con người. => Viết về thiên nhiên để ca tụng
- Thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp, là mẫu mực để con người noi theo.
- Con người và thiên nhiên là 1 khối thống nhất.


- Thế kỉ XIX – XIV:
+ Hình ảnh thiên nhiên mang nhiều tính ngụ ý. Các nhà văn mượn thiên nhiên để
truyền dẫn thông điệp tôn giáo, quan niệm về quốc gia, dân tộc, vai trò sứ mệnh của
bậc thánh nhân, quân tử, …
“Giác hưởng tùy phong xuyên trúc đáo
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai”
(Tiếng tù và theo gió luồn trúc mà đến,
Ngọn núi cao cõng trăng vượt tường mà qua)
(Thiền sư Viên Chiếu)
+ Thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp phong phú, sinh động khơi gợi những
rung cảm thẩm mĩ của người nghệ sĩ. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với nhiều màu
sắc khác nhau: trong trẻo, thơ mộng; diễm lệ - bình dị, cao quý - gần gũi, …
“Lão tang diệp lạc tàm phương tận

Tảo đạo hoa hương giải chính phì”
(Dâu gia lá rụng tằm vừa chín
Luá sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo)
(Quy hứng, Nguyễn Trung Ngạn)
- Thế kỉ XV – XVII:
+ Thiên nhiên ngụ ý lí tưởng, chí hướng của người nghệ sĩ: triết lí nhàn, ca tụng
cuộc sống ẩn dật, ca tụng triều đại thái bình, …
“Lầu treo cung nguyệt người êm giấc
Đường quạnh nhà thôn cửa chặt cài”
(Canh hai – Hồng Đức quốc âm thi tập)
+ Thiên nhiên mang vẻ đẹp đa dạng thể hiện tâm hồn lãng mạn, tư chất nghệ sĩ
của các nhà văn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tơng, Nguyễn
Trực, …
“Trăng trong gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri”
(Thơ Nôm Bài 90 – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- Thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX:
+ Thiên nhiên ngụ ý những tâm sự, cảm xúc về nhân sinh, thế sự, về thân phận

17


cá nhân của con người nghệ sĩ.
“Một trái trăng thu chín mõm mịm
Này vừng quế đỏ, đỏ lịm lom
Giữa in chiếc bích khn cịn méo
Ngồi kép đơi cung cánh vẫn khòm”
(Trăng thu – Hồ Xuân Hương)
+ Thiên nhiên là hiện thân của thế giới tự nhiên trong trẻo, thơ mộng, rộng lớn,
khoáng đạt – nguồn hạnh phúc, nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ

“Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường gian như kiếm lập thanh thiên”
(Hiếu quá Hương Giang – Cao Bá Quát)
- Nửa cuối thế kỉ XIX:
+ Thiên nhiên ngụ ý những tâm sự, cảm xúc thời thế: Nguyễn Khuyến, Tú
Xương…
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?”
(Cuốc kêu cảm hứng – Nguyễn Khuyến)
+ Thiên nhiên – bức tranh cảnh vật gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng
ngày.
“Giang thế duyên phong tuyền
Đài ngân đới vũ tiên”
(Dịng sơng chảy theo ven núi
Ngấn rêu đượm nước mưa trông mơn mởn)
(Sơn thượng, Nguyễn Quang Bích)
* Giá trị tả thực và ngụ ý:
- Tái hiện vẻ đẹp sinh động, phong phú, đa màu sắc của thiên nhiên, tạo vật. Người
nghệ sĩ đến với thiên nhiên bằng sự rung cảm trước cái đẹp, bằng khao khát tận hưởng,
chiếm lĩnh thế giới tự nhiên tươi đẹp.
+ Thiên nhiên là đối tượng trung tâm được miêu tả, tái hiện.
+ Người nghệ sĩ thể hiện sự rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp thiên nhiên
+ Những tâm sự, ngụ ý qua hình tượng thiên nhiên: tình yêu quê hương, đất nước,


sự mãn nguyện với cuộc sống an nhàn, thư thái, …và hình ảnh thiên nhiên có sự tương
đồng về nội dung biểu hiện. Bảo kính cảnh giới số 43 – Nguyễn Trãi
- Thiên nhiên vừa đại diện cho thế giới tươi đẹp, sống động vừ là hình ảnh mang
tính biểu tượng, nơi tác giả gửi gắm tư tưởng tôn giáo, quan niệm nhân sinh, chí
hướng lí tưởng cá nhân, tâm sự về nhân tình thế thái, về nhân dân, đất nước…

+ Đối tượng trung tâm được phản ánh: thiên nhiên và ngụ ý người viết
+ Thiên nhiên được miêu tả với những đặc điểm, sắc thái, vẻ đẹp vốn có.
+ Người nghệ sĩ thơng qua hình ảnh thiên nhiên để biểu đạt tư tưởng: tôn giáo,
quan niệm thẩm mĩ, cảm khái thế sự, tâm sự cá nhân. Đèo Ba Dội – Hồ Xuân Hương
* Đóng góp: phong phú về nội dung về nghệ thuật, là một yếu tố làm nên vẻ đẹp tâm
hồn cho người Việt.
- Giai đoạn 1: Đa dạng loại hình “cảm hứng thiên nhiên”: chủ yếu thơ chữ Hán, tác
giả thiền sư, nhà nho, vua quan, tôn thất (đời Trần)
- GĐ2: phát triển giai đoạn 1, mở rộng thể loại (thiên về thơ Nôm, vãn, khúc), tác giả
nhà nho chủ yếu
- GĐ3: Thính đạt “thơ thiên nhiên” Hán - Nôm, thân kiểu “thiên nhiên” ngụ ý trào lộng, thêm ngâm khúc, truyện Nơm, hát nói, tác giả đa dạng (Nho hàng đạo, ẩn
dật, tài tử, bình dân), hoàng tộc (Lê – Trịnh, Nguyễn, quan chức, thiền sư, …)
- GĐ4: Thơ chữ Hán và Nơm, hát nói, truyện Nôm, tác giả nhà Nho, htộc.

19


CÂU 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN
Phân tích 1 trong 5 cảm hứng trong 1 bài thơ/ 1 đoạn thơ
Cảm hứng nhân đạo: “Thanh minh ngẫu hứng”, “Điếu La Thành ca giả”
của Nguyễn Du.
Cảm hứng nhân đạo
Cảm hứng nhân đạo là tình cảm thương xót hướng đến con người nhỏ bé, bất
hạnh. Nhân đạo gắn liền với chủ nghĩa bác ái, nhấn mạnh tình yêu thương con
người, đặc biệt là những con người bé nhỏ, bất hạnh mà không phân biệt giới tính,
giai cấp, dân tộc, … Đối tượng hướng đến là con người, đặc biệt là những con
người có số phận bất hạnh, những con người nhỏ bé trong xã hội.
Khái lược về Nguyễn Du
-


Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là

Thanh Hiên.
-

Quê quán: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

-

Thời đại: Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử

của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động
với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng
và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây
Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết
về hiện thực đời sống.
-

Cuộc đời: cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều,

tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm
sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học,
một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sự nghiệp sáng tác
-

Sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ

Nôm. Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân
cách của tác giả. Thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con
người. Các tác phẩm đó đều thể hiện sự cảm thơng sấu sắc của Nguyễn Du đối



với cuộc sống của con người, nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, ... đó là kết
quả của quá trình quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả. Lên
án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.
Thanh minh ngẫu hứng
Đông phong trú dạ động giang thành,

Thôn ca sơ học tang ma ngữ,

Nhân tự bi thê, thảo tự thanh.

Dã khốc thời văn chiến phạt thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh

Mạc giao mao thảo cận giai sinh.

Dịch nghĩa
Gió đơng thổi qua tồ thành bên sơng suốt ngày đêm.
Người buồn thì cứ buồn, cỏ xanh thì cứ xanh.
Ngày xn, mình có thân nhưng khơng cịn trẻ nữa,
Ở góc trời, khơng có rượu uống trong tiết thanh minh.
Câu hát thôn dã giúp ta hiểu được tiếng nói của kẻ trồng gai, trồng dâu.
Ngồi đồng nội thỉnh thoảng nghe tiếng người khóc như buổi chiến tranh.
Ở nơi lữ xá đã buồn quá rồi,

Chớ để cỏ săng mọc gần thêm!
Trong số 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, có mấy bài nhà thơ viết trong những
ngày xuân: Quỳnh Hải nguyên tiêu, Xuân nhật ngẫu hứng, Xuân dạ, Thanh minh ngẫu
hứng, Mộ xuân mạn hứng, Xuân tiêu lữ thứ…Thơ xuân của Nguyễn Du không chú
trọng miêu tả phong cảnh mùa xuân mà nghiêng về thể hiện cảnh ngộ nhà thơ và
bộc lộ những suy tư xúc cảm về nhân sinh thế sự nên thường buồn. Bài thơ Thanh
minh ngẫu hứng rất tiêu biểu cho thơ xuân của thi hào.
Cảm hứng nhân đạo được thể hiện rõ nhất qua hình tượng con người thương thân
trong thơ Nguyễn Du. Đó được coi là một biểu hiện độc đáo của ý thức cá nhân trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Nguyễn Du cảm thương cho thân phận cô đơn, lưu lạc giữa dòng đời dâu bể
Trong bài thơ, Nguyễn Du tự họa bản thân mình như một con người đơn độc, mang
nặng những nỗi ưu sầu. Tâm trạng này được bắt nguồn từ những bất hạnh nhà thơ

21


từng nếm trải. Tất cả những khổ đau đã gieo vào tâm hồn Nguyễn Du cảm giác bơ vơ,
trơ trọi của con người bị tước đi mọi điểm tựa.
Nhà thơ một mình lạc lõng đối chọi lại mọi thứ xung quanh, để mặc nỗi buồn xâm
chiếm. Đó là sự cơ đơn, nỗi buồn đã đến cùng cực. Giang thành là một địa danh khơng
xác định nào đó mà Nguyễn Du thường nhắc đến trong thơ mình như một biểu tượng
của nơi trú ngụ của tâm hồn. Đang ở trong tiết xuân nhưng thi nhân cảm thấy buồn,
nỗi buồn đối lập với vẻ đẹp của thiên nhiên “Người buồn thì cứ buồn / Cỏ xanh thì
cứ xanh”. Hình như thiên nhiên cũng vô tâm trước nỗi buồn con người?
Nguyễn Du một mình đối diện với thời gian, trong ngày xuân của đất thời, nhà thơ
ngộ ra thời gian đời mình khơng cịn nhiều nữa, tuổi xn đã qua lâu rồi mình khơng
cịn trẻ nữa. Đối với Nguyễn Du, con người đáng thương khơng chỉ vì cái tâm dễ bị
vùi dập, cái tài dễ bị bào mịn mà cịn vì thân xác mong manh, hữu hạn. Nếu các nhà
thơ Thiền đời Lý - Trần miêu tả tấm thân trần thế nhỏ nhoi, dễ dàng tan biến để thể

hiện thái độ bình thản, an nhiên trước lẽ vơ thường thì Nguyễn Du nói đến thân để mà
ngậm ngùi, thương cảm. Nhà thơ đau xót cho chiếc thân trơi nổi. Ơng tiếc cho tấm
thân mòn mỏi, bất lực trước sự huỷ hoại của thời gian:
“Ngày xn nhưng thân khơng cịn trẻ nữa
Ở góc trời, khơng có rượu uống trong tiết thanh minh.”
Nguyễn Du một mình đối mặt với khơng gian rộng lớn “góc trời”, khơng có gì ngồi
tấm thân này. Đương thời vào dịp thanh minh tao nhân mặc khách thường uống rượu
thưởng thức tiết trời tươi đẹp, người người vui lễ hội cổ truyền. Vậy mà nhà thơ phải
làm khách nơi chân trời, đến chén rượu cũng khơng có để nhâm nhi ngắm cảnh đẹp,
thật đáng ái ngại.
Trong tiết thanh minh, nhà thơ nghe cả hai loại âm thanh đối nghịch: tiếng hát và tiếng
khóc. Rất có thể những âm thanh đó do lễ và hội truyền thống trong dịp này sinh ra.
Âm ba cuộc sống li loạn của con người sau chiến tranh “Chiến phạt thanh” luôn làm
cho nhà thơ day dứt, đây chính sự day dứt của một trái tim nhân đạo lớn lao. Từ nỗi
đau riêng của thân phận “lữ khách” đang phải trú ngụ bất đắc dĩ trong “lữ xá” kết hợp
với nỗi đau thế sự, thi nhân bất giác bng lời ai ốn “Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn”


(Ở nơi lữ xá đã buồn quá rồi). Đây là tiếng lịng thống thiết cho cảm hứng nhân đạo
ln hiện diện trong thơ ông.
“Ở nơi lữ xá đã buồn quá rồi,
Chớ để cỏ săng mọc gần thêm!”
Trong ngày xuân tiết trời ấm áp, mn lồi cỏ cây thu hút được sinh khí của trời đất,
đua nhau khoe sức sống. Trời đất khơng ưu ái lồi cây cỏ nào, riêng con người thì thụ
cảm có chọn lựa. Cỏ săng, một lồi cỏ gợi lên sự hoang dại thật không nên xuất hiện
ngay cạnh nơi ở của nhà thơ lúc này, vì chỉ với từng ấy cơ sự, nhà thơ đã thấy quá
buồn bã.
Bài thơ xuân này của Nguyễn Du vừa quen vừa lạ. Quen ở chỗ sử dụng các chất liệu
phổ biến của thơ ca cổ điển dùng để tả mùa xuân. Lạ ở giọng điệu buồn thương thấm
nhuần trong toàn bài thơ.

Điếu La Thành ca giả
Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh,
Xuân sắc yên nhiên động lục thành.
Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh ?
Trủng trung ưng tự hối phù sinh.
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh.
Tưởng thị nhân gian vô thức thú,
Cửu tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Khanh
Dịch nghĩa:
Như cánh hoa tươi thắm từ cõi tiên xuống,
Sắc đẹp quyến rũ làm rung động cả sáu thành.
(Thử hỏi) Thiên hạ ai kẻ thương người bạc mệnh?
Dưới mồ, chắc nàng cũng hối hận cho kiếp phù sinh.
Lúc sống, phấn son không rửa được nghiệp chướng,
Chết rồi chỉ để lại tiếng gió trăng mà thơi.
Hẳn nghĩ rằng trên đời khơng ai hiểu được mình,
Nên xuống suối vàng làm bạn với ông Liễu Kỳ Khanh.
Điếu La Thành ca giả làm theo thể thơ Đường luật, dạng thất ngôn bát cú (8 câu, mỗi

23


câu 7 chữ, tổng cộng 56 chữ), nằm trong tập Thanh Hiên thi tập, được tác giả sáng tác
trong khoảng thời gian 1796-1802, tức là ở giai đoạn tác giả ở dưới chân núi Hồng,
theo cách phân chia của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam.
Theo GS. Phan Văn Các, thì bài thơ này (và một số bài thơ khác) đã cho ta thấy
Nguyễn Du (qua thực tế của đời ơng, trong gia đình ơng, và những điều ơng chứng
kiến nhan nhản trong xã hội) đã tỏ ra xót thương sâu sắc và thông cảm chân thành với
những người phụ nữ bất hạnh bị vùi dập trong xã hội phong kiến. Vì vậy, hình ảnh

người ca nữ La Thành có một ý nghĩa điển hình sâu sắc.
Điếu La Thành ca giả nói tâm sự tác giả khi viếng mộ nàng ca kĩ đất La Thành, cảm
thương cho thân phận một người nhan sắc tuyệt trần, một thời danh tiếng lừng lẫy mà
mệnh bạc. Nàng như một cành hoa đẹp từ trên trời rơi xuống. Nét đẹp kiêu sa quyến
rũ làm rung động sáu thành !
Nguyễn Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp, giá trị con người : phương diện sắc đẹp
Như cánh hoa tươi thắm từ cõi tiên xuống,
Sắc đẹp quyến rũ làm rung động cả sáu thành.
Ca kĩ – những nạn nhân đau khổ nhất trong xã hội, đó là những người đàn bà bị khinh
rẻ, khi bán thân nuôi miệng. Nguyễn Du dùng những từ ngữ đẹp nhất để miêu tả nhan
sắc của họ. Qua ngòi bút của ông, các nàng ca kĩ hiện lên là những tiên nữ giáng trần.
Cô gái đẹp tới mức làm rung động tâm hồn tất cả những người đàn ông trong sáu
thành. Đó là nhan sắc lay động lịng người, nức tiếng gần xa, vẻ đẹp ấy rực rỡ, tràn
trề sức xuân của người thiếu nữ. Nhan sắc ấy xứng đáng có một cuộc đời an yên, yêu
chiều, yêu thương “bồng”.
Cảm thông, chia sẻ với nỗi đau khổ, bất hạnh của con người:
Tuy nhiên, con người với sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành nhưng lại bạc mệnh,
chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Du cất lên tiếng hỏi ai oán: (Thử hỏi) Thiên hạ ai kẻ
thương người bạc mệnh?. Họ sinh ra đâu ai muốn mình trở thành người ca kỹ, ngày
ngày bán nghệ, bán thân nuôi miệng ăn. Họ sinh ra ai cũng mong mình có cuộc sống
tươi đẹp, khơng ai mong mình sẽ sống trong một đời bị người đời khinh rẻ, vô tâm.
Tuy nhiên những con người lạc lối, bị đẩy vào con đường này đều một mình chống
chọi với nỗi cô đơn và sự dè bỉu, “thiên hạ ai thương kẻ bạc mệnh” này?
Đối với những nạn nhân đau khổ nhất trong xã hội, với những kiếp người hèn yếu


nhất, bị đày đọa nhất, những kiếp sống lao khổ nhất trong quần chúng, lịng xót thương
của Nguyễn Du thật vô hạn, không chút ẩn ý nào. Khác hẳn với cách nghĩ của nhiều
nhà Nho đương thời và cả một số học giả sau này nữa, giải thích những người bn
nguyệt bán hoa là do bản tính của họ, Nguyễn Du hiểu cảnh ngộ lỡ làng đã xô đẩy

những người con gái xấu số sa chân vào nghề ô nhục mà đành bỏ phí hạnh phúc của
tuổi thanh xuân. Nhà thơ thơng cảm sâu sắc với nỗi bàng hồng ngơ ngác của người
gái giang hồ khi trở về già sống trong cảnh tồi tàn không nơi nương tựa, với những
cái chết “ vùi nơng một nấm” khơng hương khói của họ và cái tiếng vô nhân của xã
hội dành cho họ:
Nghiệp chướng phấn son lúc sống đã không rửa sạch
Sau khi chết chỉ để lại tiếng gió trăng
Đau lịng hơn là ngón đàn tài hoa ấy khơng phải lúc nào cũng có những khách tri âm
thơng hiểu và trân trọng. Một người giữa dương gian có trăm vạn chúng sinh mà chẳng
có lấy một người tri âm, tri kỷ. Bi kịch tinh thần lớn nhất của nàng chính là khơng có
được sự cảm thơng mà chỉ có thể bầu bạn với kẻ dưới suối vàng. Trước tình cảnh của
hai người con gái tài hoa mà bạc mệnh Nguyễn Du đau lịng, xót xa khơng n “người
ta trong cõi trăm năm, những sự vinh, nhục, buồn, vui thật không lường trước”.
Hẳn nghĩ rằng trên đời khơng ai hiểu được mình,
Nên xuống suối vàng làm bạn với ông Liễu Kỳ Khanh.
Điếu La thành ca giả càng cho chúng ta thấy những mối quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc
thường xuyên của Nguyễn Du với tầng lớp ả đào – kỹ nữ. Ông lựa chọn con đường
song hành cùng những uẩn khúc, đắng cay trong cuộc đời người ca nữ, dành phần lớn
thời gian sáng tác về cuộc đời của họ và thể hiện niềm thương cảm, tiếng khóc xót xa
của ơng trước những thân phận ấy.
Cảm hứng thế sự/ bút pháp trào phúng + trữ tình: “Hỏi thăm quan tuần bắt
cướp” và “Chợ đồng” của Nguyễn Khuyến.
/>
Nguyễn Khuyến – nhà thơ trào phúng
Thời kì văn học trung đại kết thúc với thành tựuu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút
trào phúng Tú Xương – Nguyễn Khuyến. Nếu Tú Xương mang đến cho người đọc
những câu thơ trào phúng cay độc, bốp chát thì Nguyễn Khuyến lại mang đến một
hồn thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm thúy, Bằng những sáng tác thấm đẫm chất trào
25



×