Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tìm hiểu nhà thơ Lý Bạch và Đỗ Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.85 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA NGỮ VĂN

THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU
VĂN HỌC PHƯƠNG ĐƠNG
CHỦ ĐỀ: LÝ BẠCH VÀ ĐỖ PHỦ
NHĨM SINH VIÊN: NHĨM 2 (Phạm Thị Huyền)
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Phạm Thị Huyền – Nhóm trưởng – 715611047
Nguyễn Hương Giang – 715611033
Nguyễn Kim Anh – 715611012
Trần Mai Anh – 715611017
Trần Thị Thu Hà – 715611036
Nguyễn Mai Hiền - …………………..

HÀ NỘI / 2022


THƠ ĐƯỜNG
I.

Khái niệm

Thơ Đường là tên gọi một kì thơ ca, đồng thời là thể loại thơ ca ra đời, phát


triển, hoàn thiên và đạt đến đỉnh cao trong thời kì nhà Đường (Trung Quốc).
Thơ Đường bao gồm hai thể thơ cơ bản là cổ thể thi và kim (cận) thể thi, trong
đó cận thể thi là loại thơ cách luật nên cịn gọi là thơ Đường luật.
Bên cạnh đó, có thể xác định các bài thơ chũ Hán hoặc chữ Nơm, thậm chí cả
chữ quốc ngữ sau này ở Việt Nam mà sáng tác theo luật thơ Đường chính là các
bài thơ luật Đường.
II.
Hiện tượng “Bách hoa tề phóng”
1. Biểu hiện
Thứ nhất, số lượng tác giả, tác phẩm đồ sộ.
Thứ hai, đề tài và nội dung phong phú.
Thứ ba là hình thức, thể loại hồn chỉnh đạt tới đỉnh cao.
Thứ tư là xuất hiện nhiều trào lưu, khuynh hướng và phong cách sáng tác.
2. Nguyên nhân của sự phồn vinh
Thứ nhất về điều kiện kinh tế và chính sách xã hội.
Thứ hai về chính sách văn hóa giáo dục.
Thứ ba là sự cởi mơ về tư tưởng ở đời Đường.
Thứ tư là sự phát triển của các loại hình nghệ thuật đã trở thành “bà đỡ”
cho thơ ca.
Thứ năm là cục diện giao lưu văn hóa, văn học mạnh mẽ đời Đường xuất phát
từ nền chính trị thống nhất.
III. Đặc điểm thể loại
1. Thể thơ
Cổ thể thi
Cổ phong: chỉ tất cả những bài thơ cổ
được sáng tác từ đời Đường trở về sau
mà không theo luật Đường. Thơ không
bị gị bó bởi niêm luật, số lượng câu
chữ nên khá tự do, phóng khống, khả
năng biểu hiện phong phú


Cận (kim) thể thi
Cận thể thi là thể thơ cách luật ngũ
ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra trong
nhà đường. Bao gồm: bát cú, tuyệt cú,
bài luật. Hay được gọi là thơ Đường
luật. Thơ thất ngơn bát cú được gọi là
dạng chính của thể thơ.


Nhạc phủ là thể thơ làm theo yêu cầu
của dân ca đời Đường.
2. Cấu trúc
a) Bố cục
Một bài thơ bát cú gồm bốn phần: đề, thực, luận, kết
+ Phần đề gồm hai câu đầu, câu thứ nhất là phá đề, câu thứ hai là thừa
đề. Phá đề mở ý của bài thơ, thừa để tiếp ý của phá đề để chuyển vào
thân bài
+ Phần thực ( cịn gọi là thích thực) gồm có câu thứ ba và câu bốn.
Phần này giải thích rõ ý của đề
+ Phần luận gồm câu thứ năm, câu sáu, phát triển rộng ý của đề
+ Phần kết gồm hai câu cuối, kết lại ý của toàn bài
b) Niêm
- Niêm là dán các liên thơ vào với nhau theo chiều dọc.
- Niêm trong thơ Đường luật chỉ quan hệ âm luật giữa hai liên ( một cặp
câu) trong một bài thơ. Câu thứ hai của liên trên niêm với câu thứ nhất
của liên dưới khi chữ thứ nhì của hai câu này cùng thanh.
- Trong bài thơ bát cú Đường luật, những câu thơ niêm với nhau: 1-8, 23, 4-5, 6-7.
c) Luật
- Luật là dán các liên thơ theo chiều ngang.

- Một bài thơ Đường luật nhất thiết phải theo sự quy định về thanh bằng
trắc trong từng câu và trong cả bài.
- Quy định hệ thống thanh bằng trắc trong cả bài:
+ Nếu chữ thứ hai của câu thứ nhất là thanh bằng -> Bài thơ thuộc luật
bằng
+ Nếu chữ thứ hai của câu thứ nhất là thanh trắc -> Bài thơ thuộc luật
trắc
Ví dụ: Trong bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ có từ thứ hai mang thanh
trắc ( lộ) => thuộc luật trắc
- Sáng tác theo công thức “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân
minh” : chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không bị ràng buộc bởi luật
bằng trắc ; nhưng chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu phải phân minh. => Thất
luật
Ngọc lộ điêu thương, phong thụ lâm
T

B

T


Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm
B

T

B

Đơi khi sự phá luật lại là tín hiệu nghệ thuật, ví dụ:
Hồng hạc nhất khứ bất phục phản

T

T

T

Bạch vân thiên tài không du du
B

T

B

d) Vận
- Là những tiếng có thanh âm hịa hợp, đặt vào hai hay nhiều câu hưởng
ứng lẫn nhau.
- Thơ đường luật chỉ gieo một vần là vần bằng.
- Vần này nằm ở chữ cuối cùng của các câu 1,2,4,6,8. Ví dụ:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thơi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
e) Đối
- Đối trong thơ bát cú Đường luật nằm ở liên 1 và 2 tức phần thực và
phần luận của bài thơ ( tuy nhiên cũng có ngoại lệ). Đối trong thơ

Đường luật rất phong phú, cơ bản có những điều kiện đối sau :
+ Cơng đối ( Đối chỉnh) : câu trên đối với câu dưới, các từ đối nhau
theo nguyên tắc phải cùng từ loại ( Động – động, danh – danh...). Ví
dụ:

Phong cấp/ thiên cao/ viên khiếu ai
Chử thanh/ sa bạch/ điểu phi hồi
(Đăng Cao – Đỗ Phủ)
+ Tiểu đối ( tự đối) : đối trong một dịng thơ. Ví dụ:


Quốc phá/ sơn hà tại,
Thành xuân/ thảo mộc thâm
( Xuân Vọng – Đỗ Phủ )
+ Lưu thủy đối ( tẩu mã đối) : ý của câu thơ thứ hai là do câu thứ nhất
trượt xuống, câu hai không thể đứng một mình.Ví dụ:
Đương qn hồi quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
( Xuân tứ - Lý Bạch)
IV.

Tư duy nghệ thuật và cấu tứ thơ Đường.

“Có thể xem cấu tứ là linh hồn của tác phẩm, cung cấp một thế đứng, thể
nhìn cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Cấu tử
là mộ hình nghệ thuật của tác phẩm, là quan niệm nghệ thuật về thế giới và con
người". va Từ đó có thể thấy tứ thơ cũng là cách cảm thụ, khám phá về đời sống
thể hiện sự cảm thụ khám phá đó bằng hình tượng thơ. Đương nhiên cách thể
hiện đó phải độc đáo, mang dấu ấn riêng của từng nhà thơ.
Cấu tứ thơ Đường có đặc trưng gợi chứ khơng tả. Điều này có thể hiểu là các

nhà thơ đời Đường khơng trực tiếp miêu tả sự vật hiện tượng mà thông qua các
mối quan hệ. Trên cơ sở hai quan hệ cơ bản là âm – dương, các nhà thơ đời
Đường đã dựng lên trong thơ các mối quan hệ: tình — cảnh, thực – hư, động –
tĩnh, thanh – trọc, không gian – thời gian, quá khứ – hiện tại... Bằng việc dựng
nên những mối quan hệ, các nhà thơ đã tạo ra những khoảng trống. Ý nghĩa của
bài thơ nằm trong chính những khoảng trống đó. Đó chính là hiệu quả “ỷ tại
ngơn ngoại” (ý ở ngồi lời) của thơ Đường. Ví dụ:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh tại giản trung
(Điểu minh giản – Vương Duy)
(Người nhàn hoa quế nhẹ rơi
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh
Trăng lên chim núi giật mình
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đổi).
(Khe chim kêu – Ngô Tất Tố dịch)


Bài thơ này là một điển hình của thủ pháp lấy động tả tĩnh. Chính âm thanh
hiếm hoi của tiếng chim đã đặc tả sự cực tĩnh của không gian.
V.

Ngôn ngữ thơ

Ngơn ngữ thơ Đường mang tính khái qt cao: thể hiện tư duy khái qt,
mang tính cơ đong, hàm súc và sử dụng phép tỉnh lược, đảo trang trong cú pháp


LÝ BẠCH

I.

TIỂU SỬ LÝ BẠCH

Lý Bạch (701 – 762) tên tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ. Ông sinh ra
tại thành Tối Diệp thuộc An Tây đơ hộ phủ (nay thuộc Kyrgyzstan – quốc gia
thuộc khu vực Trung Á), trung tâm của Tây Vực (trong nhiều thuyết về nơi sinh
của Lý Bạch thì Tối Diệp là thuyết được lưu hành phổ biến nhất). Lên 5 tuổi,
ông theo gia đình chuyển đến Chương Minh, Miên Châu (nay thuộc Giang Du,
Tứ Xuyên, Trung Quốc).
Cuộc đời Lý Bạch có thể chia làm năm thời kì:
Thời kì thứ nhất (701 – 724): Đây có thể coi là thời kì đọc sách tích lũy tri
thức.
Lý Bạch là một hàng trai trẻ chất chứa hồi bão và có trí tuệ hơn người say
mê Đạo giáo và tư tưởng du hiệp. Bên cạnh đó, tư tưởng cứu nước giúp đời trong
Lý Bạch cũng vô cùng mãnh liệt. Thời kì này, Lý Bạch bắt đầu sáng tác thơ văn,
tuy chưa định hình được phong cách, nhưng những vốn sống và thứ trầm tích
giúp cho thơ ca Lý Bạch thăng hoa vào các thời kì sau.
Thời kì thứ hai (724 – 742): Đây là thời kì du ngoạn hành hiệp của Lý
Bạch.
Dấu chân Lý Bạch in lại khắp các vùng Động Đình, Giang Lăng, Tương
Dương,… Khi cuộc du ngoạn kết thúc, Lý Bạch xác định rõ phấn đấu cho sự
nghiệp chung. Đây là thời kì ơng sáng tác nhiều thơ văn nhằm ca ngợi cuộc sống
hào sảng, phóng khống và khát vọng kiến cơng lập nghiệp, xen lẫn khí thế ấy là
tư tưởng cầu tiên học đạo vốn là niềm say mê của ông từ thủa thiếu thời. Thơ ca
Lý Bạch thời kì này được đánh giá là nồng đượng cảm xúc tha hương và ngợi ca
cảnh đẹp sơn thủy. Phong cách nghệ thuật thơ ông trong sáng, tự nhiên, thốt
tục, cá tính sáng tạo dần trở nên rõ nét.
Thời kì thứ ba (742 – 744) Thời kì dấn thân giúp nước, giúp đời.
Năm Thiên Bảo thứ nhất (742), nhờ Ngô Quân tiến cử, Lý Bạch được Đường

Huyền Tông mời vào kinh, Lý Bạch tin rằng thời cơ của mình đã tới, tâm tình vơ
cùng đắc ý nên đã viết câu như sau: “Ngưỡng thiên đại tiểu xuất môn khứ/ Ngã
bối khởi thị hồng bao nhân” (Ngẩng đầu cười lớn bước khỏi cửa/ Đời mình đâu
phải chốn lều tranh). Nhưng Lý Bạch đâu ngờ rằng triều chính cạm bẫy trùng
trùng, rất nhiều quý tộc bị thất sủng đã ra sức gièm pha, do vậy Đường Huyền
Thông mặc dù mời ông vào triều nhưng chưa từng thực sự trọng dụng ông. Đắc
ý và thất vọng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác của ông, tạo ra một Lý


Bạch vừa cao ngạo, vừa thoát tục, vừa đời thường. Chính những xung đột nội tại
ấy đã khiến phong cách thơ ca Lý Bạch có sự đột phá đáng kể để vươn tới giai
đoạn đỉnh cao, chín muồi.
Thời kì thứ tư (744 – 755) Đây là thời kì tái du ngoạn của Lý Bạch
Thơ ca Lý Bạch thời kì này có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc bộc lộc
những bất hạnh cá nhân với việc phê phán xã hội thối nát, đen tối, đồng thời cũng
chính là sự kết hợp giữa cái tơi và khí tiết cao ngạo của thi nhân với thái độ phê
phán mãnh liệt giai tầng thống trị đương thời. Phong cách thơ ca Lý Bạch vì thế
này càng lãng mạn đẹp đẽ, hào sảng phóng túng. Đây cũng chính là thời kì đỉnh
cao của thơ ca “thi tiên”.
Thời kì thứ năm (755 – 762): Đây là thời kì lưu lạc Giang Nam.
Năm Thiên Bảo thứ 14 (755) xảy ra sự biến An – Sử, Lý Bạch về Tuyên Thành
tị nạn. Năm 756, Lý Bạch theo lời hiệu triệu của Giang Lăng đại đô đốc Vĩnh
Vương Lí Lân nên đã trở về dưới trướng Lí Lân mong dẹp loạn với mong muốn
“an xã tắc, tế thương sinh” (yên xã tắc, giúp dân lành). Tuy nhiên, Lí Lân lại lợi
dụng thời cơ để củng cố thế lực cá nhân và sau đó bị giết, khiến Lý Bạch bị liên
lụy, bị bắt và đày đi Dạ Lang nhưng may mắn được xá tội. Năm 761 ông vẫn xin
đi giúp triều đình dẹp loạn, tuy nhiên nửa đường bệnh nặng rồi mất. Thời kì này
thơ ca Lý Bạch mang đậm tính hiện thực, ơng sáng tác một loạt các tác phẩm
phản ánh thực tế sự biến An – Sử và bày tỏ nỗi lịng lo lắng vì nước nhà.
Thế giới tư tưởng Lý Bạch thể hiện tính phức tạp và tính đa ngun cực

kì rõ nét. Tư tưởng của Lý Bạch là sự kết hợp giữa nhiệt thành trung quân ái
quốc tuyệt đối của Khuất Nguyên và tư tưởng lánh đời, muốn sống một cuộc sống
khống đạt, phóng túng của Trang Tử. Ngoài ra, tư tưởng Lý Bạch là sự dung
hợp giữa tinh thần tích cực nhập thế của Nho gia, tư tưởng vô vi của Đạo gia (bên
cạnh đó có cả khát vọng trường sinh của Đạo giáo) và tư tưởng du hiệp trưởng
nghĩa. Nhìn chung, có thể thấy tư tưởng Lý Bạch có sự đồng hành của ba nhân tố
Nho, Đạo, Hiệp.
 Tư tưởng của Lý Bạch tuy phức tạo nhưng cốt lõi vẫn là một nhân sinh
quan tích cực, hào sảng. Tinh thần này đã góp phần định hình phong
cách thơ ca Lý Bạch.
II.
QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA LÝ BẠCH
Lý Bạch phản đối sự gọt đõi cầu kì, đề cao vẻ đẹp tự nhiên của thơ ca.
Ông từng tụng ca sự giản dị, trong sáng của thơ ca bằng câu thơ nổi tiếng sau:
Thanh thủy xuất phù dung
Thiên nhiên khứ điêu sức


(Người trong ắt này hoa sen
Thiên nhiên đã đẹp chớ nên vẽ vời)
Lý Bạch luôn coi trọng sự giản dị của hình thức và ngơn ngữ thơ ca, phê
phán sự cầu kì, thêu hoa dệt gấm của nhiều xu hướng sáng tác.
Dùng nguyên tắc thâm mĩ “đại nhã chính thanh” làm tiêu chuẩn để cấu
tứ thơ ca. Tinh thần “đại nhã chính thanh” trong văn học cổ đại Trung Hoa yêu
cầu xác nhà văn, nhà thơ trong sáng tác của mình phải “kể được mọi câu chuyện
trong thiên hạ, thuật lại phong tục bốn phương”, thể hiện một cách đầy đủ, chân
xác diện mạo hiện thực và tư tưởng của thời đại. Xác lập nguyên tắc thẩm mỹ
“đại nhã chính thanh” là yêu cầu cấp thiết với bất kì thời đại văn học nào. Bài thơ
cổ phong (Kì 1) của Lý Bạch thể hiện rõ quan điểm này.
III. NỘI DUNG THƠ CA LÝ BẠCH

1. Lý Bạch – nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa kiệt xuất.
Thơ ca Lý Bạch hàm chứa nội dung tư tưởng phong phú, đẹp đẽ, cuốn hút. Ta
có thể dễ nhận thấy khuynh hướng lãng mạn rõ nét cộng hưởng với cá tính sáng
tạo đặc sắc của bài thơ.
Thơ ca Lý Bạch thể hiện cái “tự ngã” (cái tơi) của chính nhà thơ – đặc
điểm rõ nhất khuynh hướng lãng mạn.
Trong tất cả các thời kì sáng tác của Lý Bạch, hình tượng của chính nhà thơ
được thể hiện cô cùng sinh động, đặc sắc trong thơ ơng. Đó chính là hình tượng
cao ngạo, phóng khống, tiêu sái của một vị thi tiên, tửu tiên. Đó là hình tượng
một sĩ đại phu bị giằng xé bởi lẽ xuất xử. Hình tượng cái tơi Lý Bạch là nơi ông
gửi gắm nhiều nội dung tư tưởng sâu sắc.
Thứ nhất, nó thể hiện hùng tâm tráng chí giúp nước, giúp đời và nỗi ai hoài
của một thi sĩ với ẩn ức tài năng nhưng không được trọng dụng. Mặc dù sống
trong giai đoạn Thịnh Đường nhưng thơ Lý Bạch luôn bộc phát nỗi trăng trở về
xã hội bao gồm cả nỗi thất vọng, sự bất mãn với nhà cầm quyền. Phẩm chất một
nhà nho chân chính kết hợp với khí cốt ung dung của một đệ tử Đạo gia đã khiến
cái tơi của Lý Bạch có sự song trung giữa hai yếu tố hiện thực và huyền thoại.
Bên cạnh cái tơi cống hiến, thơ ca Lý Bạch cịn nhiều lần tỏ rõ sự bất mãn của
cái tôi tài năng, nhiệt thành nhưng nhiều đố kị, dèm pha, bức hại, hoặc bị rẻ rúng.
Thứ hai, cái “tự ngã” Lý Bạch xây dựng trong thơ là một cái tơi ca ngợi, hình
dung và khao khát đến một cuộc sống đẹp đẽ, lý tưởng thậm chính là lãnh mạn,
phóng túng. Để kiến giải về ước mơ này bằng cơ sở tư tưởng của Lý Bạch với sự
hòa quyện của cả Nho giáo, Đạo giáo và tư tưởng hiệp khách. Cuộc sống lí tưởng


có thể dung chứa được một cái tơi Lý Bạch phi phàm là thế giới bao hàm yếu tố
vật chất và tinh thần cao đẹp, hào sảng.
Cuộc sống mà Lý bạch khao khát phải vui vẻ, phóng túng kiểu hiệp khách.
Cuộc sống lý tưởng mà Lý Bạch hướng tới còn phải có kí chất, phong độ, cao
thượng chuẩn mực.

Cuộc sống lý tưởng đó cịn phải là một cuộc sống chính trự, thẳng thắn, thậm
chí tự nhiên, khơng kiểu cách.
Thứ ba, cái “tự ngã” Lý Bạch xây dựng trong thơ còn là một cái tơi ca ngợi,
đề cao nhân tính và nhân quyền. Ông quan niệm giữa người với người phải có sự
tơn trọng, bình đẳng; cá tính con người cần được giải phóng, đại được sự tự do;
con người phải giữ tiết tháo, không khuất phục trước quyền thế
Bên cạnh đó, Lý Bạch ln hào hứng ca tụng tự do. Ông cho rằng phẩm chất
đẹp đẽ, hoàn thiện nhất của con người phải được thể hiện bằng ý chí và hành động
tự do chứ khơng phải là uốn mình theo quy tắc đạo đức và ln lí phong kiến. Có
lẽ, đây là khía cạnh “nổi loạn” nhất của cái tơi Lý Bạch. Ông từng viết:
Nhân sinh tại thế bất xứng ý
Minh triêu tán phát lộng biên chu
 Những khía cạnh nói trên trong thơ Lý Bạch tuy cịn mơng lung, chưa thật
mạch lạc nhưng sự thể hiện vô cùng mạnh mẽ, tuy cịn tự phát nhưng cực
kì kiên định. Nó được đánh giá là dấu hiệu của tư tưởng dân chủ trong thơ
Lý Bạch. Nó cũng là minh chứng cho sự tiến bộ vượt trội trong tư tưởng
so với thời cuộc của nhà thơ tài hoa này. Rõ ràng, ngay từ khía cạnh nội
dung tư tưởng đã nhìn thấy được cá tính sáng tạo của Lý Bạch.
2. Thơ ca Lý Bạch phản ánh chân thực hiện thực xã hội đương thời
Sinh thời, Lý Bạch đã có lần tự bạch rằng: Trung dạ tứ ngũ thán/ Thường vị
đại quốc ưu (Nửa đêm trằn trọc than thở/ Cũng vì lo lắng cho nước nhà). Với
tâm lý sáng tác đó, hiện thực xã hội trở thành một trong những phản ánh quan
trọng trong thơ ca Lý Bạch. Nó được tái hiện qua các phương diện:
Thứ nhất, Lý Bạch ca ngợi nhiệt tình yêu nước và ý chí dũng cảm của tướng
sĩ nhà Đường cũng như tâm tình ai ốn của họ bằng nhiều bài thơ biên tái. Chiến
tranh đã đi vào thơ ca Lý Bạch như một tất yếu với những bài thơ đặc sắc như
Tái hạ khúc (6 bài), Tử Dạ ngô ca (4 bài). Nét đặc sắc của bài thơ là phản ánh
diện mạo chiến tranh thông qua hiện thực tâm trạng mà cụ thể là tâm trạng của
người chinh phụ trên cái nền hậu phương với mảnh trăng lạnh lẽo, hao khuyết và
tiếng chày đập vải ám ảnh độ thu về. Thơ chiến tranh Lý Bạch được đánh giá cao



ở tinh thần phản chiến mạnh mẽ. Thơ ông bộc lộ lập trường phản chiến tiến bộ
khi phản đối và phê phán chiến tranh phi nghĩa.
Thứ hai, thơ hiện thực Lý Bạch còn khắc hoạ chân thực cuộc sống đời thường
của nhân dân. Tuy khơng nhiều nhưng có những bài xuất sắc như: Đinh đô hộ ca,
Thái liên khúc, Bạch đầu ngâm, Trường can hành, Bắc phong hành…Mảng thơ
được đánh giá đặc sắc nhất chính là những vần thơ viết về phụ nữ. Trong thơ Lý
Bạch, hình tượng được xây dựng thành công nhất là “tư phụ” (tạm dịch là người
đàn bà mong nhớ) và “khí phụ” (tạm dịch là người đàn bà bị ruồng rẫy). Tiêu
biểu là nỗi nhớ mong của người tư phụ U Châu trong Bắc phong hành và nàng
Trác Văn Quân trong bài Bạch đầu ngâm.
3. Thơ ca Lý Bạch tung ca vẻ đẹp diễm lệ của giang sơn đất nước Trung
Hoa
Lý Bạch là người có tình yêu nồng nhiệt với thiên nhiên đất nước Trung Hoa.
Trên thực tế, dấu chân ông in khắp các địa danh. tồn bộ những núi rộng sơng dài
mỹ lệ đó đều xuất hiện trong thơ Lý Bạch Thơ vinh cảnh thiên nhiên của Lý Bạch
có đặc điểm là cá tính rõ nét, cảm xúc nồng hậu. Ơng ưa thích miêu tả thứ khơng
gian khống đạt, cảnh vật kì vĩ, sống động. Tiêu biểu cho nội dung này có Tương
tiến tửu, Dạ hạ Chinh Lỗ đình, Vọng Lư sơn bộc bố.
Tiểu kết: Như vậy có thể thấy, thơ ca Lý Bạch hàm chứa những nội dung tư
tưởng tích cực, chân thực, sâu sắc và tiến bộ. Qua yếu tố nội dung thơ ca, độc giả
cũng có thể nhận thấy cá tính sáng tạo vượt trội và khuynh hướng lãng mạn trong
sáng tác của ông.
IV.

NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CA LÝ BẠCH.

Thành tựu xuất sắc nhất của thơ ca Lý Bạch chính là việc ông đã đưa chủ
nghĩa lãng mạn lên đỉnh cao. Lý Bạch được cho là đã kế thừa truyền thống lãng

mạn chủ nghĩa từ triết học Lão Trang, thơ ca Khuất Nguyên, đưa nó lên cao trào
và tạo thành một khuynh hướng sáng tác nổi bật thời Thịnh Đường.
Đặc trưng nổi bật đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ ca Lý Bạch
chính là thứ cảm xúc mang sắc thái chủ quan mạnh mẽ, trong sáng, tích cực
xuyên suốt các trước tác cũng như quán xuyến toàn bộ các giai đoạn sáng
tác của ông. Để thể hiện được đặc trưng này, Lý Bạch đã sử dụng các thủ pháp
tiêu biểu sau:
Thứ nhất, thơ ca Lý Bạch sử dụng hình tương cái tơi trữ tình mang sắc thái
chủ quan để tăng sức biểu đạt. Thơ cổ thể Lý Bạch nhiều lần xuất hiện những đại
từ nhân xung ngôi thứ nhất như ngã, ngô (ta) để trực tiếp đối thoại với người đọc.


Thứ hai, Lý Bạch tận dụng thủ pháp nhân hoá khiến cho diễn đạt thơ thêm
sinh động, sâu sắc.
Thứ ba, Lý Bạch còn là bậc thầy trong việc sử dụng thủ pháp khoa trương,
một công cụ đặc thù của thơ ca lãng mạn. Lý Bạch không chỉ kho trương trong
tả cảnh mà cịn ưa thích phóng đại cả cảm xúc của bản thân. Ví dụ: Hà hoa kiều
dục ngữ Sầu sát đãng chu nhân (Lục thuỷ khúc) (Hoa sen dường muốn nói cười/
Chơi thuyền khách lại ngậm ngùi tình riêng) (Trả Trọng Kim dịch)
Thứ tư, Lý Bạch vận dụng linh hoạt các yếu tố hình thức của thơ Đường nhằm
phù hợp với mục đích biểu đạt. Ơng ưa chuộng những thể thơ tự do, không bị
ràng buộc bởi vấn đề cách luật. Vì vậy, ơng thường lựa chọn the ca hành, nhạc
phủ để viết thơ.
Đặc trưng nổi bật thứ hai của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ ca Lý Bạch
chính là việc sử dụng yếu tố tưởng tượng kì lạ, phong phú, thậm chí quái đản
trong sáng tác thơ. Đặc trưng này hình thành nên thế giới hình tượng nghệ thuật
kì ảo, biến hố đậm màu sắc huyền thoại trong thơ Lý Bạch. Tiêu biểu như chuỗi
hình tượng đặc biệt trong bài thơ Thục đạo nan khiến người đọc kinh ngạc. Trong
thơ Lý Bạch, chủ nghĩa lãng mạn luôn song hành với chủ nghĩa hiện thực.
Đặc trưng nổi bật thứ ba của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ ca Lý Bạch

chính là sự tự nhiên, trong sáng. Đó cũng là tiêu chí nghệ thuật mà Lý Bạch gửi
gắm trong nhiều bài thơ: Nhất khúc phi nhiên tử/ Điêu trùng táng thiên chân (Cổ
phong, Kì 35).
Sự tự nhiên trong sáng cịn được hình thành bởi chủ trương học tập dân ca
nhạc phủ của Lý Bạch.
Sự tự nhiên trong sáng còn được thể hiện qua việc vận dụng ngôn ngữ trong
sáng tác thơ với quan niệm “dĩ tự nhiên vi tông” (lấy tự nhiên làm tôn chỉ). Bài
Tĩnh dạ tử được đánh giá là một kiệt tác ngơn ngũ bởi nó đã sử dụng thứ ngôn
ngữ giản dị nhất để bộc phát được chiều sâu nội tâm ẩn chứa trong lòng nhân vật
trữ tình.
 Có thể nói, nghệ thuật thơ ca Lý Bạch cũng bộc lộ rõ nét khuynh hướng
lãng mạn chủ nghĩa mà ông theo đuổi, đồng thời ghi dấu ấn phong cách
thơ ca độc đáo của một thi tiên.


ĐỖ PHỦ
I.

TIỂU SỬ ĐỖ PHỦ

Đỗ Phủ (712 – 770) tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng, quê quán ở Tương Dương,
Hồ Bắc, sinh ra ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình
có truyền thống Nho học lâu đời, mấy đời làm quan lại. Thế tổ đời thứ 13 Đỗ Dự
là danh tướng đời Tây Tấn. Ông nội Đỗ Thẩm Ngơn chính là nhà thơ nổi tiếng,
một trong “văn chương tử hữu” thời Sơ Đường. Thân phụ Đỗ Nhàn làm huyện
lệnh Phụng Thiên, Tư mã Duyện Châu.
Cuộc đời cũng như hành trình sáng tác của Đỗ Phủ có thể chia làm bốn giai
đoạn:
Giai đoạn 712 – 746: Đây là thời kì đọc sách vui chơi sung sướng nhất trong
cuộc đời Đỗ Phủ. Đỗ Phủ là một thiếu niên tài hoa vượt trội. Ông chăm chỉ đọc

sách để tích lũy vốn sống và tu dưỡng tài năng. Tuy xuất thân thư hương môn đệ
nhưng do ảnh hưởng của khơng khí cởi mở thời Đường nên tư tưởng Đỗ Phủ tràn
ngập tinh thần lãng mạn, yêu thích ngao du sơn thuỷ. Thời kì này được coi là
bước chuẩn bị cho sự nghiệp thơ ca của Đỗ Phủ. Tác phẩm ông sáng tác trong
giai đoạn này khoảng 20 bài thơ, mặc dù chưa thể hiện cá tính sáng tạo rõ nét
nhưng một số bài thơ như Vọng Nhạc, Phòng binh Tào Hồ mã... đã hé lộ về một
tài năng đặc biệt của nền thơ ca đời Đường.
Giai đoạn 747 – 755: Thời kì này, sự xung đột dữ dội giữa lí tưởng “kiêm
tế thiên hạ” với thực tế cuộc sống cá nhân khốn quẫn (đặc biệt là giai đoạn trước
khi làm quan, gia cảnh khốn khổ đến mức con trai ơng chết vì đói) đã khiến tư
tưởng Đỗ Phủ có sự biến đổi sâu sắc. Lăn lộn chốn thượng tầng xã hội, Đỗ Phủ
càng nhìn thấu sự thối nát, hủ bại của tầng lớp thống trị. Bươn chải với tầng lớp
dưới của xã hội, ông lại tận mắt chứng kiến sự khốn khổ, điêu linh của dân nghèo.
Và đúng vào năm 755, sự biến An – Sử đã xảy ra, đẩy xã hội đời Đường vào
giai đoạn binh lửa tàn khốc. Tất cả những nhân tố đó là cơ sở tư tưởng để định
hình phong cách hiện thực của thơ ca Đỗ Phủ. Từ đây, ông là nhà thơ của chủ
nghĩa hiện thực, thi sĩ của nhân dân. Một số tác phẩm tiêu biểu thời kì này là:
Binh xa hành, Tự kinh phó Phụng Tiên, Lệ nhân hành, Phụng tặng Vi tả thừa
trượng nhị thập nhị vận, Tiền xuất tái, Hậu xuất tái…
Giai đoạn 756 – 760: Đây là thời kì huy hồng nhất trong sự nghiệp chính
trị của Đỗ Phủ. Sau vì can gián vua nên ơng bị cách chức đuổi về quê. Năm Càn
Nguyên thứ nhất (758), ông quay lại triều đình và nhậm chức Hoa Châu Tư công
tham quân. Đỗ Phủ từ Lạc Dương về Hoa Châu nhậm chức, trên đường đi thì gặp
đúng lúc loạn An – Sử đang ở giai đoạn dữ dội nhất. Chứng kiến cảnh nội chiến


khốc liệt, người chết khắp nơi, Đỗ Phủ rất đau lịng. Đến Hoa Châu khơng lâu,
năm 759, ơng từ quan. Có thể nói, đây là thời kì mà số phận và tư tưởng của Đỗ
Phủ gắn bó mật thiết với nhân dân. Những năm binh lửa của đất nước đã khiến
ông viết những vần thơ đạt tới đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực.

Giai đoạn 760 – 770: Đây là thời kì quẫn bách và lưu lạc vùng Tây
Nam.Thời kì này, Đỗ Phủ sáng tác nhiều nhất (khoảng 1.072 bài), cũng là thời kì
ơng sáng tác luật thi nhiều nhất (130 bài luật thi). Thơ ca Đỗ Phủ thời kì này được
đánh giá là phong cách đa dạng, nghệ thuật thơ tinh tế, trong đó luật thi là tiểu
loại có cống hiến đặc biệt, góp phần đưa luật thi đời Đường lên đỉnh cao.
II.
QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHỦ
1. Đỗ Phủ - nhà thơ hiện thực chủ nghĩa vĩ đại
Đỗ Phủ được tơn là “thi thánh”. Ơng là người đứng đầu trường phái hiện
thực của Đường thi.
Thơ Đỗ Phủ là một tập “thi sứ” vĩ đại.
Thông qua các chặng đường sáng tác của Đỗ Phủ, ta thấy được hình ảnh xã
hội đời Đường trước và sau thời Thiên Bảo (đánh dấu bằng sự kiện loạn An – Sử)
hiện lên sinh động, rõ nét.
Trước loạn An – Sử trong thơ Đỗ Phủ nổi lên hai vấn đề lớn:
+ Phản ánh cuộc sống xa hoa của vua quan nhà Đường; tiêu biểu là bài thơ
Tự kinh phó Phụng Tiên.
Chu mơn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
(Cửa son rượu thịt ơi
Ngồi đường xương chết buốt).
Câu thơ có hình thức tường thuật các sự kiện và đặt các sự kiện đó trong thế
đối lập gay gắt, vì thế mang tính hiện thực sâu sắc. Bài thơ này là mốc đánh dấu
sự đổi mới phong cách Đỗ Phủ. Chính những biến động của xã hội đã tạo nên sự
thay đổi đó.
+ Phản ánh bộ mặt thật của cuộc chiến tranh xâm lược mở mang bờ cõi đời
Đường: Các thế lực phong kiến đời Đường thi hành triệt để chính sách mở mang
bờ cõi. Những bài thơ của Đỗ Phủ tái hiện lại cảnh bắt phu, bắt lính tàn bạo cùng
với những cuộc tiễn đưa đầy nước mắt. Binh xa hành là bài thơ tiêu biểu cho nội
dung này.



Từ loạn An - Sử trở đi, thơ Đỗ Phủ tập trung phản ánh cuộc nội chiến liên
miên khiến nhân dân điêu đứng: Tam lại, Tam biệt được coi là chùm thơ tiêu biểu
nhất về đề tài này. Miêu tả sự chia biệt qua nhiều đối tượng Đỗ Phủ nhằm phê
phán chính sách bắt phu, bắt lính đời Đường đã cưỡng chế mọi lứa tuổi tham gia
chiến tranh, đồng thời qua đó phản ánh nỗi thống khổ của nhân dân.

Đặc biệt, đây là thời kì trong tư tưởng Đỗ Phủ có nhiều bối rối. Nhà Đường
áp dụng chính sách bắt lính cực kì thơ bạo để dập tắt cuộc nổi loạn của An Lộc
Sơn, Đỗ Phủ vì thương dân mà phê phán. Tuy nhiên, cuộc nổi loạn của An Lộc
Sơn mang tính chất một cuộc xâm lược của kẻ ngoại tộc nên ơng cũng khơng thể
hồn tồn phê phán tập đoàn thống trị nhà Đường.
2. Thơ Đỗ Phủ là đỉnh cao tư tưởng thời đại
Thơ Đỗ Phủ được gọi là thi sử không chỉ bởi sự phản ánh chân thực hiện thực
lịch sử mà cịn bởi vì hiện thực đó được tái hiện dưới tầm mắt của một nhà tư
tưởng yêu nước, thương dân.
Thơ Đỗ Phủ luôn thể hiện sự đồng tình với nỗi khổ của nhân dân. Điều đáng
trân trọng là trong hoàn cảnh bị đát của bản thân mà Đỗ Phủ vẫn khơng ngi
nghĩ đến nhân dân. Ơng viết Tự kinh phó Phụng Tiên phản ánh nỗi thống khổ của
dân khi vừa biết con trai chết đói. Đứng trước đống đổ nát của ngơi nhà tranh vừa
bị gió thu làm tốc, ông vẫn mơ ước một ngôi nhà cho mọi người.
Thơ Đỗ Phủ ln có mối ưu tư với vận mệnh của dân tộc: Trong Đỗ Phủ luôn
ẩn chứa một tấm lòng yêu nước nồng nàn. Mọi niềm vui, nỗi buồn của ông đều
gắn với những bước thăng trầm trong vận mệnh dân tộc. Khi Trường An rơi vào
tay giặc, ông sáng tác bài Xuân vọng để thiện hiện nỗi đau đớn của mình:
Quốc phá sơn hà tại
Thành xn thảo mộc thâm
(Nước mất nhưng núi sơng cịn
Thành xn quạnh quẽ um tùm cỏ gai).

Tiểu kết: Thơ Đỗ Phủ là một tập đại thành của thơ ca hiện thực Trung Quốc.
Ơng được đánh giá là “thư kí” của thời đại.
III.

THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT THƠ CA ĐỖ PHỦ

Thơ Đỗ Phủ mang phong cách mẫu mực hiếm có.
1. Đề tài


Đề tài trong thơ Đỗ Phủ mang tính thời sự. Phần lớn trước tác của ông phản
ánh những vấn đề trung tâm của đời sống xã hội. Đó là chiến tranh, loạn li, đói
khổ của nhân dân.
Đỗ Phủ tập trung vào đề tài chiến tranh – đề tài chiếm dung lượng lớn. Tiêu
biểu là các bài Binh xa hành, Bi Thanh bản, Bi Trần Đào, Bắc chinh,…
2. Thể thơ
Đỗ Phủ sử dụng thuần thục nhiều thể thơ. Có thể kể một số thể thơ tiêu biểu
ông đã sử dụng:
- Thể cổ thi: gồm có ngũ ngơn cổ thi và thất ngôn cổ thi. Tiêu biểu là những
bài Bắc chinh, Tự kinh phó Phụng Tiên, Binh xa hành, Lệ nhân hành,…
Những bài thơ làm theo thể này đều mang tính tự thuật, nội dung diễn tả
nhiều vấn đề. Trong đó vừa tả cảnh vừa kể chuyện, vừa tự sự lại vừa trữ
tình. Những bài thơ này thường dài nhưng vẫn hấp dẫn bởi những xúc cảm
nồng hậu mà Đỗ Phủ kí thác trong đó.
- Thể thất ngơn luật: Thể thơ thành công nhất, thơ Đỗ Phủ thể này trở thành
mẫu mực cho đời sau học tập sáng tác. Ông là những có cơng hồn thiện
thể thơ. Thơ thất ngơn luật Đỗ Phủ là loại hình thơ trau chuốt, đẹp đẽ,
phong cách biến hóa đa dạng nhưng thanh luật vẫn hết sức chặt chẽ. Tiêu
biểu là bài Đăng cao.
3. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ thơ Đỗ Phủ chuẩn xác, ông đem lại sức biểu cảm mạnh mẽ cho
những từ ngữ bình thường, nhưng hình thức cú pháp khơng có gì đặc biệt.
Ngơn ngữ được sử dụng mới mẻ, giàu biểu cảm và những thủ pháp tu từ để
đạt được hiệu quả nghệ thuật. Ở đây xuất hiện thần cú và nhãn tự. Để miêu tả sự
khoáng đạt, diễn lệ của thiên nhiên. Đỗ Phủ đã dùng những ngơn ngữ cực kì sinh
động. Ví dụ:
Tinh thùy bình dã khốt
Nguyệt dũng đại giang lưu
(Lữ dạ thư hoài)
(Sao rủ xuống cánh đồng bằng phẳng bao la
Trăng tung tóe trên dịng sơng chảy cuồn cuộn)
Hai câu thơ khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên bằng những từ ngữ hết sức gợi cảm.
Trong đó, hai từ thùy và cũng là những nhãn tự xuất sắc.


 Phong cách nghệ thuật của Đỗ Phủ được các nhà phê bình xưa nay nhận
xét ngắn gọn và trầm úc đốn tỏa (ủ dột nặng nề, ngừng ngắt biến đổi). Cái
trầm úc chủ yếu là ở tình cảm thâm trầm, thê lương, cái đốn tỏa chủ yếu là
ở nghệ thuật thơ vừa mẫu mực vừa giàu sức mạnh. Thơ ca Đỗ Phủ đã đạt
đến mức độ cổ điển hiếm có.


SO SÁNH PHONG CÁCH THƠ LÝ BẠCH VÀ ĐỖ PHỦ
I.
ĐIỂM GIỐNG NHAU
1. Thiên nhiên trong thơ của hai ông đều là phương tiện thể hiện cảm xúc
của tác giả. Bút pháp chung là tả cảnh ngụ tình.
Đây là bút pháp bằng việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên hoặc cuộc sống
xung quanh để từ đó khắc hoạ tâm trạng, suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể trữ
tình. Có thể thấy, ngụ tình mới là nội dung chính cịn cái cảnh chỉ nhằm làm

nổi bật cái tình.
Lý Bạch là một nhà thơ có tính cách phóng khống, lãng mạn nên trong
thơ ơng, ta gặp rất nhiều những hình ảnh thiên nhiên thể hiện điều đó, ơng
thường chọn những hình ảnh thiên nhiên hùng tráng để ngầm thể hiện tính
cách của mình. Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh những thác nước hết sức mạnh
mẽ, phóng khống khơng chịu bó buộc mà ơng đã nhiều lần nói đến, ví dụ bài
thơ “Tảo phát Bạch Đế thành”.
朝辭白帝彩雲間,Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,
千里江陵一日還。Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.
兩岸猿聲啼不住,Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú,
輕舟已過萬重山。Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.
Bài thơ “Tảo phát Bạch Đế thành” cũng được sáng tác trong hoàn cảnh đặc
biệt khi Lý Bạch bị bắt và bị đày đi Dạ Lang (miền đông tỉnh Quý Châu),
nhưng vừa đến thành Bạch Đế thì được tha. Ơng đã hết sức vui mừng liền sáng
tác bài thơ này thể hiện cảm xúc sung sướng đang dâng trào của mình. Bên
cạnh bài thơ trên, Lý Bạch cịn vơ số các bài thơ khác thể hiện tài năng “thi
tiên” của mình như: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng,
Vọng Lư sơn bộc bố,....
Với Lý Bạch, miêu tả thiên nhiên để bộc lộ cái phóng khống, lãng mạn
trong tính cách thì “thi thánh” Đỗ Phủ lại miêu tả cảnh thiên nhiên để chỉ rõ
dụng ý và tâm trạng của chính bản thân. Tiêu biểu là bài thơ “Thu hứng” của
ông. Ở bài “Thu hứng”, hình ảnh khóm cúc nở ra hoa nước mắt, hình ảnh con
thuyền mãi ràng buộc tấm lịng mình với nơi vườn cũ đã được tác giả xây dựng
khéo léo nhằm thể hiện nỗi lịng đau xót của kẻ tha hương và tấm long mong
ngóng, khắc khoải nhớ về quê hương của mình. Vì đau đớn nên nhìn khóm
cúc trước nhà nở những bơng hoa của năm nay mà như nó đang khóc dịng lệ
cũ mãi tn chảy từ năm trước: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” (Khóm cúc
nở lần thư hai dịng lệ của ngày trước); vì khắc khoải nhớ quê, vì cuộc đời lưu



lạc nên ơng hình dung con thuyền cũng như cơ độc và đang đau đáu nhớ về
nơi “cố viên” – quê nhà: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền cơ độc
vẫn mãi ràng buộc bởi tấm lịng hướng về vườn cũ). Phải chăng hình ảnh con
thuyền cơ độc ở đây chính là sự hiện thân của tâm sự trong lịng tác giả? Cái
tình trong cảnh cịn xuất hiện tại nhiều bài thơ khác của nhà thơ, ví dụ như:
Nguyệt Dạ, Đăng Cao,...
Bút pháp tả cảnh ngụ tình đều được hai tác giả lớn của nền Văn học trung
đại Trung Quốc khéo léo để bộc lộ tài năng của mình. Mỗi người đều có cách
sáng tạo, cái độc đáo riêng nhưng đều có nét tương đồng trong việc mượn
hình ảnh thiên nhiên để truyền tải cảm xúc của bản thân.
2. Thiên nhiên trong thơ mang tính mĩ lệ, được xây dựng bằng những
thủ pháp quen thuộc của thơ Đường.
Tính mĩ lệ chính là đặc trưng lớn của thơ Đường, điều đó thể hiện một phần
qua việc các hình ảnh thiên nhiên được dùng trong các bài thơ là những hình
ảnh thiên nhiên đẹp. Trong thơ Lý Bạch và Đỗ Phủ, ta thấy rõ điều đó. Trong
thơ của Lý Bạch, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và đầy sống
động. Ví dụ như bài “Xuân tư”, ông viết:
燕 草 如 碧 絲,Yên thảo như bích ti,
秦 桑 低 綠 枝。Tần tang đê lục chi.
Bài thơ đã khắc họa sự thuần khiết trong cái đẹp của thiên nhiên. Cỏ nước
Yên, dâu nước Tần mùa xuân hiện lên tràn đầy sức sống. Tính mĩ lệ trong thơ
của Lý Bạch cịn thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên như: trăng (Quan sơn
nguyệt, Tĩnh dạ tư, Nga Mi sơn nguyệt ca, Cung trung hành lạc, Bả tửu vấn
nguyệt,…), cỏ non, liễu biếc mùa xuân (Xuân tư, Lao Lao đình, Vọng Hán
Dương liễu sắc kí Vương Tể,…), hình ảnh những bức tranh cảnh thiên nhiên
rất sống động và tươi đẹp trong mối tương giao hòa hợp với con người (Giang
thượng ngâm, Dạ bạc ngưu chử, Độc tọa kính đình sơn, Thu phố ca, Anh Vũ
châu,…).
Với nhà thơ Đỗ Phủ, mặc dù là nhà thơ hiện thực nhưng thơ của ơng cũng
có rất nhiều bài nên thơ, nên họa. Trong bài thơ “Tuyệt cú”, tác giả viết:

兩 個 黃 鸝 鳴 翠 柳,Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu
一 行 白 鷺 上 青 天。Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
窗 含 西 領 天 秋 雪,Song hàm Tây lĩnh thiên thu tuyết
門 泊 東 吳 萬 里 船。Môn bạc đông Ngô vạn lí thuyền


Bài thơ “Tuyệt cú” là bài thơ có những câu thơ, những từ ngữ rất đẹp và
giàu hình ảnh. Bức tranh thiên nhiên được Đỗ Phủ khắc họa rõ nét, đầy sắc
màu. Bên cạnh đó, “thi thánh” Đỗ Phủ cũng có nhiều những bài thơ tràn đầy
hình ảnh thiên nhiên như: Giang bạn độc bộ tầm hoa (bài thứ 6), Tuyệt cú (bài
số 3 trong chùm thơ 4 bài), Tuyệt cú (bài số 3 trong chùm 6 bài)…
Ngoài ra, ta cịn thấy, cảnh thiên nhiên trong thơ Lí Bạch và Đỗ Phủ đều
được thể hiện qua cái nhìn quen thuộc của thơ Đường: cảnh được nhìn từ xa
lại, ví như:
Ở bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” (Lí Bạch): vì hình ảnh thác nước núi Lư được
tác giả nhìn từ xa lại mà miêu tả.
Ở bài “Thu hứng” (Đỗ Phủ): Cảnh được tác giả nhìn từ xa lại để vẽ cho
nên ông nhận thấy rõ.
Cảnh được nhìn từ trên cao xuống còn xuất hiện qua các bài thơ: “Đăng
Kim Lăng Phượng Hồng đài” (Lí Bạch), “Đăng cao” (Đỗ Phủ)...
Bên cạnh đó, cảnh trong thơ cũng không được vẽ bằng nhiều chi tiết mà
chỉ dùng cách chấm phá lấy hồn của cảnh vật: “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” (Lí Bạch), “Tuyệt cú” (Đỗ Phủ)...
Trên đây, ta đã điểm qua một số nét tương đồng trong hình ảnh thiên nhiên
được xây dựng trong những sáng tác của hai nhà thơ bậc nhất đời đường: Lí
Bạch và Đỗ Phủ. Nói như vậy khơng có nghĩa là hai nhà thơ này có những
điểm trùng lặp nhau về sáng tác, mà điều đó xuất phát từ nền chung, cảm
hứng, thi pháp chung của thơ Đường giai đoạn này.
3. Lý Bạch và Đỗ Phủ đều phản ánh xã hội hiện thực đương thời trong
thơ.

Lý Bạch ca ngợi nhiệt tình yêu nước và ý chí dũng cảm của tướng sĩ nhà
Đường cũng như tâm tình ai ốn của họ bằng nhiều bài thơ biên tái. Thơ hiện
thực Lý Bạch còn khắc hoạ chân thực cuộc sống đời thường của nhân dân.
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực, ơng phản ảnh rất nhiều tình u đất nước,
đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân.
II.

ĐIỂM KHÁC NHAU

1. Nghệ thuật thơ ca Lý Bạch
Thành tựu xuất sắc nhất của thơ ca Lý Bạch là việc ông đã đưa chủ nghĩa
lãng mạn lên đỉnh cao. Đặc trưng nổi bật đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn trong
thơ ca Lý Bạch là thứ cảm xúc mang sắc thái chủ quan mạnh mẽ, trong sáng, tích
cực xuyên suốt các giai đoạn sáng tác của ông.


Thứ nhất, thơ ca Lý Bạch sử dụng hình tượng cái tơi trữ tình mang sắc thái
chủ quan để tăng sức biểu đạt. Thơ cổ thể của Lý Bạch nhiều lần xuất hiện những
địa từ nhân xưng ngôi thứ nhất như ngã, ngô ( ta ) để trực tiếp đối thoại với người
đọc. Ví dụ:
“Đại đạo như thanh thiên
Ngã độc bất đắc xuất”
Thứ hai, Lý Bạch tận dụng thủ pháp nhân hoá khiến cho diễn đạt thơ thêm
sinh động, sâu sắc. Ví dụ như:
“Chúng điểu cao phi tận
Cơ vân độc khứ nhàn
Tương khan lưỡng bất yếm
Chỉ hữu Kính đình sơn”
Thứ ba, Lý Bạch là bậc thầy trong việc sử dụng thủ pháp khoa trương, một
công cụ đặc thù của thơ ca lãng mạn. Lý Bạch không chỉ khoa trương trong tả

cảnh mà ưa thích phóng đại cả cảm xúc bản thân. Điều này được thể hiện qua câu
thơ sau:
“Hà hoa kiều dục ngữ
Sầu sát đãng chu nhân”
Thứ tư, Lý Bạch vận dụng linh hoạt các yếu tố hình thức của thơ Đường
nhằm phù hợp với mục đích biểu đạt. Ơng ưa chuộng thể thơ tự do, không bị ràng
buộc bởi vấn đề cách luật.
Đặc trưng nổi bật thứ hai của chủ nghĩa lãng mạn tỏng thơ ca Lý Bạch là
sử dụng yếu tố tưởng tượng kì lạ, phong phú, thậm chí quái đản trong sáng tác.
Đặc trưng nổi bật thứ ba là sự tự nhiên, trong sáng. Đó cũng là tiêu chí
nghệ thuật mà Lý Bạch gửi gắm trong nhiều bài thơ. Sự tự nhiên trong sáng cịn
được hình thành bởi chủ trương học tập dân ca nhạc phủ của Lý Bạch. Sự tự
nhiên , ttrong sáng được thể hiện qua việc vận dụng ngôn từ trong sáng tác thơ
với quan niệm “dĩ tự nhiên vi tông” ( lấy tự nhiên làm tôn chỉ )
2. Nghệ thuật thơ ca Đỗ Phủ
Nếu như thơ ca Lý Bạch mang phong cách phóng túng, phiêu dật thì ngược
lại Đỗ Phủ lại mang phong cách mẫu mực hiếm có.
Đề tài trong thơ Đỗ Phủ mang tính thời sự. Phần lớn tác phẩm của ơng
phản ánh những vấn đề trung tâm của đời sống xã hội. Đó là chiến tranh, loạn lạc,
đói khổ và đối cực với đó là sự xa hoa của tầng lớp quý tộc, phong kiến.
Để ghi lại những xúc cảm phong phú của mình, Đỗ Phủ sử dụng nhiều thể
thơ. Trong đó có những loại thực sự là cống hiến của ông đối với lịch sử thi ca
Trung Hoa. Có thể kể ra những thể thơ Đỗ Phủ đã sử dụng:
• Thể cổ thi: Gồm có ngũ ngơn cổ thi và thất ngơn cổ thi: Bắc chinh, Binh
hành, Lệ nhân hành…
• Thể thất ngôn luật: Thơ thát ngôn luật của Đỗ Phủ trở thành mẫu mực cho
đời sau học tập
Đỗ Phủ hết sức coi trọng ngôn ngữ trong thi ca. Bằng cách sử dụng ngôn
ngữ chuẩn xác, Đỗ Phủ đã đem lại sức biểu cảm mạnh mẽ cho những từ ngữ bình



thường, những hình thức cú pháp khơng có gì đặc biệt. VD: Thê noa quái ngã tại
– Kinh định hoàn thức lệ (vợ con kinh ngạc trước việc ta còn sống – sau phút
bàng hoàng lau nước mắt). Sử sụng ngôn ngữ mới mẻ, giàu biểu cảm và những
thủ pháp tu từ để đạt được hiệu quả nghệ thuật.
3. So sánh cụ thể qua hình ảnh con sơng Trường Giang
Lý Bạch là một nhà thơ có tính cách phóng khống, lãng mạn nên trong thơ
ông, ta gặp rất nhiều những hình ảnh thiên nhiên thể hiện điều đó, ơng thường
chọn những hình ảnh thiên nhiên hùng tráng để ngầm thể hiện tính cách của mình.
Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh những thác nước hết sức mạnh mẽ, phóng khống
khơng chịu bó buộc mà ơng đã nhiều lần nói đến, ví dụ bài thơ “Tảo phát Bạch
Đế thành”.
朝辭白帝彩雲間,Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,
千里江陵一日還。Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.
兩岸猿聲啼不住,Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú,
輕舟已過萬重山。Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.
Bài thơ nói về cuộc hành trình của Lý Bạch từ thành Bạch Đế xuống thành
Giang Lăng dài 1100km trong vòng một ngày. Dòng Trường Giang chảy từ Bạch
Đế xuống Giang Lăng nằm giữa hai dãy núi non muôn trùng. Trên thực tế, việc
đi hơn 1000km bằng thuyền trong vịng một ngày là điều hết sức vơ lý. Tuy nhiên,
Lý Bạch đã “hợp lý hóa” nó bằng việc mượn sức nước để đẩy nhanh tốc độ của
thuyền (câu thơ 3+4). Chính vì tốc độ của dịng nước khiến tốc độ của con thuyền
cũng tăng theo nên tiếng vượn tưởng chừng “đề bất trú”. Âm thanh tiếng vượn
không thể nghe thấy rõ mà cứ văng vẳng trong không gian. Qua đó, người đọc có
thể tưởng tượng ra con sơng Trường Giang dài, chảy xiết đến nhường nào. Bài
thơ “Tảo phát Bạch Đế thành” cũng được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt khi
Lý Bạch bị bắt và bị đày đi Dạ Lang (miền đông tỉnh Quý Châu), nhưng vừa đến
thành Bạch Đế thì được tha. Ơng đã hết sức vui mừng liền sáng tác bài thơ này
thể hiện cảm xúc sung sướng đang dâng trào của mình. Bên cạnh bài thơ trên, Lý
Bạch cịn vơ số các bài thơ khác thể hiện tài năng “thi tiên” của mình như: Hồng

Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Vọng Lư sơn bộc bố,....
Như đã phân tích về hình ảnh con sông Trường Giang trong “Tảo phát
Bạch Đế thành” của Lý Bạch ở trên (phần thứ nhất của điểm tương đồng), ta thấy
rằng con sống Trường Giang chảy mạnh, nhanh và xiết. Bài thơ không một từ
miêu tả về đặc điểm của con sơng nhưng dưới ngịi bút của Lý Bạch, người đọc
có thể tưởng tượng được độ cao, dốc và lưu tốc của con sơng. Đây cũng giống
như cái tính cách phóng khống của Lý Bạch. Tuy nhiên, trong thơ của “thi tiên”,
hình ảnh ấy lãng mạn, phóng khống bao nhiêu thì sang thơ của “thi thánh” Đỗ
Phủ, sơng Trường Giang lại mang nét u buồn, dáng vẻ hiện thực bấy nhiêu.


“Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chữ thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường Giang cổ cổn lai?”
Có thể nói ở một cảnh gần giống nhau nhưng hai tác giả lại có hai cách
nhìn rất khác. Cảnh trong thơ Đỗ Phủ miêu tả cũng khống đạt khơng kém nhưng
lại trầm buồn, mang nét hiện thực. Tiếng vượn kêu ai oán chẳng dứt, lá lại rụng
xao xác. Cảnh như buồn cùng lịng người. Tồn là những hiện tượng sắp đi dần
đến sự hủy diệt, báo trước tâm trạng tác giả. Bốn câu thể tiếp như sự tổng kết một
cuộc đời gian truân của nhà thơ, là tiếng kêu ai ốn về cuộc đời:
“Vạn lí bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian lao khổ hận phồn sương mấn
Lảo đảo tân đình trọc tửu bơi.”
Đỗ Phủ một mình lên đài cao để giữa đài bao la vơ tận sẽ thấy mình cơ
quạnh, lẻ loi đến chừng nào, để nghĩ về cuộc đời ngắn ngủi hơn năm mươi năm
đã nếm trải những gì. Hai câu thơ thể hiện rõ sự khái quát cao của thơ Đường;
đồng thời thể hiện hết cuộc đời gian lao nghèo đói, khổ hận của Đỗ Phủ:
“Vạn lí bi thu thường tác khách

Bách niên đa bệnh độc đăng đài”
Cuộc đời của tác giả cũng như cuộc đời của biết bao số phận khác trong xã
hội lúc bấy giờ. Họ cùng gánh chịu nỗi đâu nghèo đói, bệnh tật, gia đình ly tán,
chiến tranh. Bài thơ của ơng khơng chỉ tả cảnh mà tố cáo mạnh mẽ xã hội đương
thời, là bản cáo trạng đanh thép về chiến tranh và thân phận của ngon người nhỏ
bé.
Phần kết luận
Do nhiều lí do chủ quan và khách quan nên việc điểm qua những nét chung
và riêng trong hình ảnh thiên nhiên trong thơ của hai nhà thơ bậc nhất đời Đường:
Lí Bạch và Đỗ Phủ chỉ dừng lại ở một số nét sơ bộ này, bởi lẽ khơng có nhà thơ
nổi tiếng nào lại là nhà thơ của một phong cách nhất định, mà thường là có sự
đan xen của nhiều luồng phong cách khác nhau, tạo nên tính mn màu trong
sáng tác của họ, cho nên nếu có điều kiện hơn nữa thì cần phải xem xét vấn đề
một cách tồn diện, phong phú hơn nữa.


PHÂN TÍCH THƠ LÝ BẠCH VÀ ĐỖ PHỦ
1. Anh vũ châu ( Lý Bạch )
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh ?

Trong bài thơ “ Anh vũ châu” có nhiều chỗ bị thất niêm, luật, đối.
Ở câu thứ nhất, thất luật ở chữ thứ 4 “quá” là vần trắc, lẽ ra phải là vần
bằng, vì chữ thứ 2 “vũ” là trắc rồi. Ở câu thứ hai, chữ thứ 2 “thượng”, vần trắc

thất niêm, lẽ ra phải bằng để niêm với chữ thứ 2 của câu trên “vũ” là vần trắc. Ở
câu 3 và 4 không đối nhau về ý, từ, nghĩa, do vậy thất đối. Tuy vậy bài thơ tuyệt
hay vì âm điệu khi đọc thành lời như có nhạc, ý tứ sảng khối, thi từ mỹ lệ, cảnh
vật hùng vĩ. Đặc biệt hình ảnh chim anh vũ bay về phía tây hướng về núi Lũng
nơi quê gốc của tác giả, gợi lên nỗi niềm nhớ quê man mác, bâng khuâng.
Người đời yêu thích và đánh giá cao những điều tưởng như thất niêm, luật, đối
đó.
Điểm thú vị, đặc sắc của của bài thơ là 3 câu đầu của bài là lặp lại tên của
một loài chim tương ứng. Trong bài Anh Vũ châu là “anh vũ”.
2. Tĩnh dạ tứ ( Lý Bạch)
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Bài thơ Tĩnh dạ tứ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ( gồm 4 câu,
mỗi câu 5 chữ). Là bài thơ theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt nhưng khi đem bỏ đi 2


chữ đầu ở mỗi câu; các chữ và luật sử dụng còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng
trắc, niêm và vần.
+ Niêm : câu thơ 3-4 niêm với nhau, khi chữ thứ nhì của hai câu này cùng
thanh bằng
+ Vần: thơ Đường luật chỉ gieo vần bằng, nằm ở chữ cuối cùng của các
câu 1,2,4; thể hiện trong bài “quang”, “sương”, “hương”. Lý Bạch đã xây dựng
hai hình ảnh đối lập: “cử đầu” - “đê đầu” (ngẩng đầu - cúi đầu) giúp cho câu thơ
trở nên đăng đối nhịp nhàng. Hành động “ngẩng đầu” gợi ra hướng nhìn về phía
ánh trăng đang chiếu sáng khắp mặt đất, cả quê hương của nhà thơ. Hành động
“cúi đầu” cho thấy nhà thơ đang tự nhìn vào nội tâm mình - tự đối mặt với nỗi
nhớ quê hương da diết. Tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ trực tiếp qua
từ “tư” (nhớ) nỗi nhớ quê hương sâu đậm.

Trải ngàn năm qua, Tĩnh dạ tư vẫn được xem là “bài thơ nhớ quê hay
nhất mọi thời đại”.
3. Nguyệt Dạ ( Đỗ Phủ )
Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Hương vụ vân hồn thấp,
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thì ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?
Bài thơ Nguyệt Dạ của Đỗ Phủ sử dụng thể thơ ngũ ngôn bát cú (8 câu,
mỗi câu 5 chữ). Cũng là biến thể từ bài thất ngôn bát cú nhưng bỏ 2 chữ đầu ở
mỗi câu mà thành, vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.
+ Niêm: những câu thơ sau niêm với nhau : 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 vì trong các
cặp câu này ( 2 liên ), câu thơ thứ hai của liên trên niêm với câu thứ nhất của
liên dưới ( chữ thứ nhì của 2 câu này cùng thanh)
• Cặp câu 1-8 : cùng thanh trắc ( “dạ” – “chiếu”)
• Cặp câu 2-3 : cùng thanh bằng ( “trung”, “liên”)
• Cặp câu 4-5 : cùng thanh trắc (“ giải” , “vụ”)


×