Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích chi tiết Chiếc thuyền ngoài xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.08 KB, 9 trang )

I. Nhân vật người đàn bà hàng chài:
Khác với Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" - một nhân vật hoàn mỹ, lý tưởng,
đẹp từ cái tên đến đơi gót chân bóng hồng sạch sẽ, đến từng sợi tóc lấp lánh dưới
ánh trăng thượng huyền, người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngồi xa" lại
mang ngoại hình và số phận không thể bất hạnh, éo le hơn. Xuyên suốt câu
chuyện, chị khơng hề có tên gọi cụ thể, chỉ được gọi một cách phiếm định như
"người đàn bà", "mụ ta", "chị"... Nhà văn chủ ý làm như thế, là bởi chị đại diện cho
những con người vừa thoát ra khỏi chiến tranh nói chung và những người phụ nữ
làm nghề chài lưới nói riêng. Người đàn bà cũng đã "trạc ngồi bốn mươi" - cái độ
tuổi mà như Chí Phèo là đã "bước qua cái dốc bên kia của cuộc đời", khơng cịn
xn sắc cũng khơng cịn sung sức. Chị xuất hiện với một ngoại hình thơ kệch, xấu
xí: "cao lớn với những đường nét thô kệch", "mụ rỗ mặt". Cái dáng vẻ bề ngoài
cũng gợi nên sự lam lũ, vất vả của một người đàn bà miền biển: "khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ", "tấm
lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng". Lam lũ, vất vả và nhếch
nhác như thế, nhưng chị lại vốn xuất thân từ một gia đình khá giả. Chính vì di
chứng của căn bệnh đậu mùa, vì xấu quá mà khơng ai lấy, chị phải phải lịng một
anh hàng chài, nên vợ nên chồng và cuộc sống cũng đổi thay hoàn toàn: nghèo
khổ, lênh đênh trên đại dương rộng lớn. Ở trên con thuyền lưới vó này, người đàn
bà không những không được hạnh phúc mà bao nhiêu éo le, bất hạnh như vận hết
vào số kiếp chị, khiến chị phải chịu đựng những nỗi thống khổ đầy đau đớn. Đó là
nỗi khổ của sự nghèo đói: "ơng trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ
chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối" - thứ thức ăn mà chính nhà
văn Nguyễn Minh Châu đã từng thử và nơn thốc nơn tháo. Đã nghèo đói, cuộc
sống lại càng bí bách hơn vì thuyền chật, đơng con. Đơng con, đơng miệng ăn chỉ
khiến hồn cảnh càng trở nên túng quẫn. Như ông bà ta vẫn thường nói: "Ngừa
chửa là cửa mả", người phụ nữ nhiều lần bụng mang dạ chửa, mỗi lần sinh nở là
một lần đối mặt với lưỡi hái tử thần. Trên chiếc thuyền mà "nhà nào cũng trên dưới
chục đứa" ấy, người ta chen chúc nhau mà sống, khơng gian bó hẹp lại cộng thêm
lưới vó, cơng cụ đánh bắt, thêm cả tiếng í ới khóc của trẻ con. Con thuyền như
vịng kiềm tỏa ngột ngạt, khiến con người nảy sinh sự bức bí, khó chịu khơng làm


sao giải tỏa được. Chính sự nghèo đói, đơng con đã khiến người chồng sinh bực
dọc, tức giận tích tụ từ ngày này qua tháng khác, bộc phát và lại trút hết lên người
vợ. Để rồi, cuộc đời người đàn bà lại phải chịu nỗi thống khổ đau đớn nhất: là nạn


nhân của bạo hành gia đình. Điều đó diễn ra thường xun, thậm chí cịn trở thành
cái lịch đầy dã man: "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", rồi "bất kể
lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh". Hắn đánh bằng thắt lưng to bản của
lính Ngụy, kèm với đó lại là những lời lăng mạ, chửi rủa, gây nên biết bao tổn
thương sâu sắc về thể xác lẫn tinh thần cho vợ. Nhưng đau đớn hơn cả bị chồng
đánh, người đàn bà phải chứng kiến đứa con đang dần hình thành tính cách lệch lạc
vì sống quá lâu trong cảnh bạo lực. Viết về cuộc đời người đàn bà hàng chài,
Nguyễn Minh Châu đã lia ngịi bút của mình đi sâu vào từng ngóc ngách, vắt kiệt
bầu máu nóng để thể hiện nó. Vừa mang cái khổ vì xấu xí như Thị Nở, bị chồng
đánh như Mị, lại nghèo đói như nhân vật vợ nhặt, người đàn bà ấy có lẽ đã sống
trọn một kiếp đời éo le, bất hạnh.
Nhà văn Thạch Lam đã từng tâm huyết: "Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái
đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người
đọc một bài học trơng nhìn và thưởng thức". Nhà văn Nguyễn Minh Châu quả thực
đã đi theo đúng tinh thần này, bởi ở người đàn bà hàng chài đâu chỉ có những nỗi
thống khổ triền miên, mà thơng qua những điều đó, chị đã bộc lộ những thiên tính
đẹp của người phụ nữ, những vẻ đẹp như hạt ngọc ẩn dấu mà chỉ khi ta tinh tế mới
nhận ra. Trước hết, chị mang trong mình sự thấu hiểu lẽ đời của một người đàn bà
đã từng trải qua mọi hỉ - nộ - ái - ố. Điều đó được thể hiện qua tình huống truyện
đặc sắc mà nhà văn đã dựng nên. Trong câu chuyện ở tòa án huyện, người đàn bà
đã bất ngờ thay đổi cách xưng hô trước Phùng và Đẩu - những con người tri thức
đang cố thay đổi cuộc đời chị. Ban đầu đến phiên tịa, chị "sợ sệt, lúng túng", "tìm
đến một góc tường để ngồi", "rón rén ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người
lại", chỉ dám xưng "con" - "q tịa", một dáng vẻ vơ cùng thảm thương, tội nghiệp
và yếu ớt. Nhưng sau đó, chị bỗng chuyển sang xưng "chị" - "các chú". Đúng như

Các Mác đã từng nói: "Ngơn ngữ là lớp vỏ vật chất của tư duy", chỉ đổi cách xưng
hô, chị đã chuyển đổi cả tâm tế từ bị động, yếu ớt sang chủ động, mạnh mẽ. Nhưng
"người đàn bà lộ ra vẻ sắc sảo chỉ đến thế", bởi chị không muốn lên mặt dạy dỗ ai,
mà chỉ muốn rũ bỏ vẻ khúm núm để chia sẻ câu chuyện của mình. Sở dĩ người đàn
bà bày tỏ thái độ kiên quyết: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó" là bởi chị hiểu - cái thấu hiểu của một người đã dành
phần lớn cuộc đời lênh đênh trên sơng nước. Chị hiểu chồng mình cũng có nỗi khổ
riêng, nghèo đói, túng quẫn, lại khơng uống rượu, bởi "giá mà lão uống rượu...thì
tơi cịn đỡ khổ", nên lão đánh vợ như liều thuốc để giải tỏa bức xúc. Chị hiểu cái


nghề chài lưới ngày đêm phiêu diêu trên biển phải có bóng dáng của người đàn
ơng: "đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tơi cần phải có người đàn ông để chèo
chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp nhà nào cũng trên
dưới chục đứa". Khơng có chồng, chị cũng khơng ni nấng được đàn con. Từ
những lời giải thích ấy, chân lý đã hiện ra: Nếu khơng có một người đàn ơng khỏe
mạnh, thạo nghề trên thuyền, một mình người vợ và những đứa con sao có thể
chèo chống khi phong ba bão táp ập đến? Chưa kể những đứa trẻ luôn cần sự bảo
vệ của người cha để đứng vững trước giông tố cuộc đời. Rõ ràng trong hoàn cảnh
này, dù từng là những người lính dũng cảm trên chiến trường hay những người học
rộng hiểu sâu, Phùng và Đẩu cũng còn quá non trẻ để hiểu thấu lẽ đời như người
đàn bà. Những lí lẽ thuyết phục của chị khơng hề đến từ sách vở giáo điều khơ
cứng mà chính từ sự từng trải trong cuộc sống mưu sinh cực nhọc.
Một trong những vẻ đẹp phẩm chất đáng quý nữa nơi người đàn bà chính là lịng
bao dung, vị tha và giàu đức hi sinh. Dù sống cực nhọc, đói khổ, chịu đánh đập, chị
vẫn ln nhận hết lỗi về mình: "giá tơi đẻ ít đi, hoặc chúng tơi sắm được một chiếc
thuyền rộng hơn", "cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền
lại chật". Chị vẫn ln mặc cảm mình chính là kẻ làm nặng thêm cái gánh mưu
sinh. Người đàn bà ấy còn cảm thơng, thấu hiểu cho chồng. Có thể với Phùng và
Đẩu, đó là gã chồng vũ phu, man rợ. Với Phác, nó căm hận lão đến xương tủy vì

đã đánh đập, hành hạ mẹ nó. Hình ảnh gã chồng trong mắt người khác hiện lên đầy
xấu xa, tàn độc như một lồi ác quỷ, rắn rết. Nhưng trong lịng người đàn bà hàng
chài, lão chồng vũ phu ấy lại là kẻ đáng thương, là nạn nhân của nghèo đói, túng
quẫn. Qua lời kể của chị, trước đây, gã vốn là người hiền lành, tử tế: "Lão chồng
tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, khơng bao giờ đánh
đập tơi". Người chồng cịn từng từ chối đi lính cho ngụy. Với chị, người từ chối
cầm súng chĩa vào đồng bào mình khơng thể là người xấu. Hơn hết, chị coi người
chồng là ân nhân của cuộc đời mình. Chị biết ơn anh vì ngày ấy, chính anh đã
giang rộng cánh tay rộng lớn để chở che chị, chở che cho một người đàn bà xấu xí,
để chị có một gia đình, được làm vợ, làm mẹ - hai thiên chức lớn nhất của người
phụ nữ. Trong góc nhìn này, ta nhận thấy người chồng khơng hồn tồn xấu xa mà
cũng có nét tốt đẹp, thánh thiện. Tình nghĩa vợ chồng và sự hàm ơn khiến người
đàn bà cam tâm tình nguyện trở thành một "bao cát" để chồng mình trút hết mọi
cay cực phẫn uất, khơng oán hận cũng quyết không bỏ chồng mặc cho Phùng và
Đẩu hết lời can ngăn. Nếu chỉ nhìn bề ngồi như Phùng và Đẩu, có lẽ ta cũng


khơng bao giờ hiểu được lý do dẫn tới tính vũ phu, tàn nhẫn cũng người chồng.
Qua đó Nguyễn Minh Châu đã nêu ra quan niệm của ông về con người: đó là một
thực thể phức tạp mà để nhìn nhận, đánh giá đúng một con người, khơng thể nhìn
một cách hời hợt, dễ dãi.
Bersot đã từng nói: "Trong vũ trụ có lắm kì quan, nhưng kì quan đẹp nhất là trái
tim người mẹ". Quả thật, tình yêu thương, đức hi sinh vì con cái ln là thứ gì đó
ln chảy mãnh liệt trong trái tim người mẹ. Người đàn bà hàng chài cũng vậy.
Thâm tâm chị luôn ý thức được thiên chức và bổn phận của một người mẹ: "Ông
trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn nên phải
gánh lấy cái khổ". Khi được hỏi về lí do chị không chịu ly hôn, chị đã mạnh mẽ
tuyên bố rằng: "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ khơng thể sống
cho mình như ở trên đất được!". Dù sống trong đói nghèo, cơ cực, bần hàn, chị vẫn
luôn là một người mẹ tuyệt vời. Chị sẵn sàng cắn răng chịu đựng địn roi để giữ lại

cuộc hơn nhân này vì chị hiểu nếu ly hơn, người thiệt thịi nhất chính là những đứa
trẻ. Khơng chống cự trước địn roi, chị thậm chí cịn xin chồng cho lên bờ đánh khi
các con đã lớn. Ngay cả khi sắp bị đánh, chị vẫn "ngước mắt nhìn ra ngồi mặt phá
nước chỗ chiếc thuyền đậu một thống". Chị khơng muốn tạo ra vết sẹo tinh thần
cho con, để con phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình xấu xí và hơn hết là để bảo
vệ tuổi thơ cho các con của mình. Người đàn bà ấy cịn dành tình u thương đặc
biệt cho thằng Phác - thằng con ương bướng nhất cho những đứa con của chị bởi từ
ngoại hình đến tính cách, nó đều giống bố hơn cả. Chị thậm chí phải gửi nó lên
rừng cho ơng vì sợ xảy ra xơ xát giữa hai bố con. Vì vậy khi nó đánh lại cha, chị
mới phản ứng một cách quyết liệt: "người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng
bé, ơm lấy nó rồi lại bng ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy". Hành
động của thằng Phác khiến ngay người đọc cũng bất ngờ, nó như mũi tên đâm
thẳng vào trái tim người mẹ, khiến chị "vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục
nhã". Nỗ lực bảo vệ tuổi thơ đã bất thành, người đàn bà cịn lo lắng con mình phạm
phải điều đại nghịch, lo sợ con mình sẽ hình thành tính cách lệch lạc trong tương
lai. Người đọc nhận thấy một nghịch lí trong cách hành xử của người đàn bà. Bị
hành hạ đánh đập, chị không hề chống trả, chỉ biết cam chịu, nhẫn nhục ngày qua
ngày. Nhưng khi chứng kiến thằng Phác đánh bố, chị lần đầu tiên biết hành động,
trái tim đau đớn, xót xa đến tột cùng. Bởi mẹ lúc nào cũng là người giang rộng đôi
cánh chở che cho đàn con, muốn mang đến cho con những điều tốt đẹp nhất, đó


cũng là người mẹ vĩ đại trong cuộc sống thường nhật như mẹ Lê trong "Nhà mẹ
Lê" của Thạch Lam hay bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt" của Kim Lân.
Dẫu cuộc đời có đói nghèo, lam lũ, trăm đường khổ cực nhưng cái đáng quý ở
người đàn bà ấy là chị luôn biết chắt chiu những niềm vui, hạnh phúc bé nhỏ đời
thường mà vá víu mảnh đời cơ cực. Cuộc sống chị đâu chỉ có đau đớn, nước mắt
mà đơi khi cũng có những nụ cười, dù là hiếm hoi, ít ỏi. Nhắc đến lúc "vợ chồng
con cái chúng tơi sống hịa thuận, vui vẻ" ở trên thuyền, "lần đầu tiên trên khn
mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười" - đó là ánh sáng kì diệu tốt

lên từ một tâm hồn ln mơ ước hạnh phúc gia đình. Tơi cịn nhớ mãi một câu nói
của người đàn bà hàng chài, câu nói ấy khiến tôi trăn trở không ngừng về đức hi
sinh và tấm lòng của một người mẹ. Ở tòa án huyện, khi Phùng hỏi: "Cả đời chị có
một lúc nào thật vui khơng?", chị ngay lập tức trả lời: "Có chứ, chú! Vui nhất là lúc
ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no...". Nghĩ đến các con, nghĩ đến việc
chúng được ăn no, khơng phải chịu cảnh đói khổ ăn xương rồng luộc chấm muối
qua ngày, bao muộn phiền, đau đớn của chị như tan biến đi hết. Đàn con đã trở
thành điểm tựa giúp chị có động lực sống tiếp và hướng đến tương lai. Hình ảnh
người đàn bà hàng chài hiện lên viên ngọc tỏa sáng lấp lánh giữa cuộc đời bất
hạnh. Suy cho cùng, Phùng và Đẩu tuy học nhiều hiểu rộng, nhưng lại thiếu đi sự
từng trải. Hai người đưa ra giải pháp li hôn cũng đều xuất phát từ mong muốn tốt
đẹp là giải thốt cho người đàn bà, nhưng đó lại là giải pháp phi thực tế, quá giáo
điều, cứng nhắc. Hai người họ cịn q nơng cạn và có lẽ nếu khơng nghe người
đàn bà trải lịng, họ cũng khơng nhận ra đằng sau người đàn bà xấu xí, thất học kia
lại là những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý đến vậy. Nguyễn Minh Châu quả thực là
một cây bút viết truyện ngắn bản lĩnh và tài hoa, ông đã rất thành cơng trong xây
dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật người đàn bà hàng chài,
Phùng và cả Đẩu. Và cuối cùng, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, ông cũng đã
khám phá ra "hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người" mà mình tìm kiếm bấy lâu
nay. Nhà văn không những cho Phùng, Đẩu mà còn cả người đọc một bài học quý
giá: Đối với mọi sự vật, hiện tượng hay cả con người, ln phải có một cái nhìn
khách quan, đa chiều mới có thể thấu hiểu được cái đa đoan của cuộc sống.


II. Hai phát hiện của người nghệ sĩ:
Nhà văn Thạch Lam đã từng nói: “Cơng việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở
chỗ khơng ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc
một bài học trơng nhìn và thưởng thức”. Với quy chuẩn đó, “Chiếc thuyền ngồi
xa” đã mang đến cho người đọc “sự tự nhận thức” trong cái nhìn của mình về cuộc
sống và con người. Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật “tôi” - nghệ

sĩ nhiếp ảnh Phùng. Theo yêu cầu của trưởng phịng, để có được ảnh cho bộ lịch về
thuyền và biển, anh tới một vùng biển miền Trung, nơi từng là chiến trường cũ của
mình. Sau suốt một tuần kiên nhẫn ở đây, Phùng vẫn chưa săn được bức ảnh nào
ưng ý. Nhưng điều kì diệu đã đến vào một buổi sáng sớm. Đôi mắt tinh tường của
một người nghệ sĩ đã phát hiện ra một cảnh “đắt” trời cho nơi mặt biển mờ sương:
“Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha
đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Sở dĩ người nghệ sĩ gọi đó là
cảnh “đắt” bởi đó là cảnh tuyệt đẹp mà thiên nhiên, cuộc sống ban tặng nhưng trên
hết, đó cịn là một sản phẩm vơ giá của hóa cơng mà có lẽ cả cuộc đời bấm máy
anh chỉ có diễm phúc gặp một lần. Trong cảm nhận của Phùng, cảnh tượng ấy
chẳng khác nào “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, là cái đẹp cổ điển,
chuẩn mực tưởng như chỉ có trong một thời quá vãng nay lại bất ngờ hiện hữu
ngay trước mắt. Chiếc thuyền lưới vó, ánh sương sớm cùng nắng mặt trời chan hòa
tạo nên một vẻ đẹp “đơn giản và tồn bích”, thực ngun sơ, thuần khiết, lí tưởng
và thánh thiện. Đứng trước cái đẹp tuyệt đỉnh ấy, có lẽ khơng chỉ Phùng mà nhà
văn và cả người đọc cũng đều ngất ngây, say đắm. Cái đẹp đem đến cho Phùng
những xúc cảm mãnh liệt, anh “bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào”. Đó là
sự xúc động của một tâm hồn nhạy cảm, xúc động vì thấy mình được tạo hóa ân
hưởng, sự may mắn mà khơng phải những ai ln khao khát tìm kiếm và sáng tạo
cái đẹp cũng có được. Anh phát hiện ra “cái đẹp chính là đạo đức”, khám phá thấy
“chân lí của sự tồn thiện”, “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” - khoảnh khắc
con người cảm thấy như tâm hồn được thanh lọc, gột rửa để trở nên trong sáng,
thánh thiện. Đây cũng là sự giác ngộ, nhận thức về sức mạnh kì diệu của nghệ
thuật, của cái đẹp xưa nay đối với con người. Như Dostoiepxki đã từng quan niệm:
“Cái đẹp cứu rỗi thế giới”, khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến
cái xấu, cái ác, cái dung tục, tầm thường mà để tâm hồn mình bay bổng, hướng
thiện. Sự giác ngộ ấy cũng từng xuất hiện nhiều trong văn học, như viên quản ngục
trước cái đẹp do ông Huấn Cao tạo nên trong “Chữ người tử tù” hay bát cháo hành,



biểu tượng của tình người đã thức tỉnh Chí Phèo trong truyện ngắn của nhà văn
Nam Cao. Vậy là phát hiện thứ nhất đã diễn ra trong khoảnh khắc gặp gỡ kì diệu
giữa một tâm hồn nghệ sĩ say mê sự tận thiện, tận mĩ với bức tranh thiên nhiên
toàn bích của tạo hóa. Để từ đây, Phùng có được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị
thẩm mĩ mà “mãi mãi về sau vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình
sành nghệ thuật”.
Nếu “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết vào trước năm 1975, khoảng thời gian mà
Nguyễn Minh Châu vẫn luôn hướng đến cảm hứng lãng mạn, có lẽ tác phẩm sẽ chỉ
dừng lại ở chỗ Phùng phát hiện ra cảnh đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên. Nhưng sau
năm 1975, ông “tỉnh táo” nhận ra rằng: Cuộc sống khơng chỉ có những cái hùng,
cái cao cả, cái trác tuyệt mà cịn có cái bi, cái thấp hèn, cái đời thường. Bước ra từ
con thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ, trong làn sương mù mờ ảo như cái đẹp hi
hữu trời cho kia lại là bi kịch của cuộc sống thường ngày, là cái xấu, cái ác do
chính con người tạo nên. Đối lập với cảnh thần tiên lãng mạn kia trước hết là hình
ảnh con người. Người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi”, “cao lớn với những đường
nét thô kệch”, “mụ rỗ mặt”, “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới,
tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa
thân dưới ướt sũng”. Dưới ngòi bút miêu tả đầy chân thực của nhà văn, người đàn
bà hàng chài hiện lên với dáng vẻ lam lũ, cơ cực, gợi một cuộc sống nhọc nhằn,
túng thiếu. Người đàn ông đi sau - chồng chị với “tấm lưng rộng và cong như lưng
một chiếc thuyền”, “mái tóc tổ quạ”, “hai hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai
con mắt đầy vẻ độc dữ” gây ấn tượng về nét hung dữ, thơ bạo thể hiện ngay trong
ngoại hình, nhưng cũng là hình ảnh đầy vất vả, nghèo đói của một người đàn ông
mang trên vai gánh nặng gia đình. Rõ ràng, hình ảnh đơi vợ chồng hàng chài khơng
hề đẹp, đó là sự xấu xí, trần trụi, là cái thơ mộc, gai góc của đời sống, khác xa với
khung cảnh “bức tranh của một danh họa thời cổ” lãng mạn, mê đắm mà Phùng
mới được thường thức một khắc trước kia.
Hình ảnh con người quá đỗi trần trụi đã vốn gây thất vọng, nhưng hành động dã
man sau đó lại càng khiến người nghệ sĩ kinh hồng và sợ hãi: đó là cảnh bạo lực
gia đình! Lão đàn ông bỗng chốc “trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay”, “rút trong người

ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy”, “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái
giọng rên rỉ đầy đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho


ông nhờ!”. Một loạt những hành động vũ phu, vô nhân tính giáng xuống người vợ
đầu ấp tay kề của hắn, hắn lấy việc đánh vợ như phương thức giải tỏa mọi đau khổ.
Nhưng điều kì lạ hơn lại là phản ứng của người vợ. Bị chồng đánh đập vô lí, chị
vẫn một mực cam chịu, nhẫn nhục, để yên cho lão đánh, không chống trả cũng
không chạy trốn. Thế nhưng ngay khi thấy con đánh trả lại bố, người đàn bà ngay
lập tức “ngồi xệp xuống trước mặt con, ôm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy
vái để, rồi lại ôm chầm lấy”, “vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã” khi để
con chứng kiến cảnh bạo lực xấu xí. Rồi cả thằng Phác - đứa con của cặp vợ
chồng, vì thương mẹ đã giằng lấy chiếc thắt lưng đánh lại bố nó mà suy cho cùng,
đó vẫn là hành động vơ đạo, là hình ảnh xuống cấp trầm trọng của ln thường đạo
lí. Nhờ đó, sự trái ngược giữa cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt mĩ và sự thật của hiện
thực đời sống đằng sau nó càng trở nên rõ ràng.
Chứng kiến cảnh bạo lực dã man, thơ bạo như thế, có lẽ bất cứ ai cũng khơng thể
giữ bình tĩnh, chưa nói gì đến một người nghệ sĩ có trái tim nhạy cảm, một người
mới tưởng mình đã khám phá ra “cái đẹp là đạo đức” mấy phút trước đây. Phùng
kinh ngạc, sửng sốt vô cùng, trong mấy phút đầu, anh cứ “đứng há mồm ra mà
nhìn”. Từ đỉnh cao của niềm vui hân hoan, hạnh phúc, anh bỗng chốc rơi xuống
đáy thất vọng. Phùng khơng thể ngờ đằng sau vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia lại là
cái xấu, cái ác đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh cịn thấy “bản thân
cái đẹp chính là đạo đức” mà ngay sau đó, đã chẳng cịn gì là cái tốt, cái thiện ở
đời. Hành động “vứt máy ảnh xuống đất”, lao ra bảo vệ người đàn bà là phản ứng
tự nhiên của con người có bản chất thiên lương, tốt đẹp. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh
ấy không ngần ngại bỏ đi cả tác phẩm nghệ thuật, bỏ đi bức ảnh tuyệt tác của thiên
nhiên mà mình đã cất cơng suốt cả tuần trời tìm kiếm mới có được, bởi anh không

thể đứng yên trước cái xấu, cái ác, sự bất cơng vơ lí và nhất quyết bảo vệ lấy người
đàn bà yếu đuối kia. Như vậy, qua hai phát hiện về nghệ thuật: cảnh chiếc thuyền
ngoài xa và cuộc đời: cảnh bạo lực gia đình của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc
ngộ ra một chân lí: Cuộc đời khơng hề đơn giản, xuôi chiều mà luôn chứa đầy
những nghịch lí, mâu thuẫn khơng thể lí giải: đẹp - xấu, cao cả - đê hèn, thiện ác… Và sứ mệnh của một người nghệ sĩ chân chính là phải có cái nhìn đa diện,
nhiều chiều, biết đánh giá khách quan mới có thể đưa nghệ thuật vươn tới chiều
sâu nhân bản. Đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, bởi giữa hình thức bên
ngồi với nội dung bên trong khơng phải bao giờ cũng hịa hợp, thống nhất. Xây
dựng tình huống truyện cơng phu và đầy nghịch lí như vậy, Nguyễn Minh Châu đã


thực sự mang đến cho độc sự “tự nhận thức” cùng “một bài học trơng nhìn và
thưởng thức” q giá về mối quan hệ giữa cuộc đời, con người và nghệ thuật. Suy
cho cùng, nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời, là tiếng nói của cuộc đời, đúng
như nhà văn Nam Cao đã từng tâm huyết: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng
đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.



×