Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.33 KB, 7 trang )

I. Xuôi về đồng bằng & ngoại vi thành phố:
Mang trong mình âm sắc, khí trời của cố đơ Huế, bởi vậy những cảm nhận của
Hoàng Phủ Ngọc Tường về con sông Hương cũng vô cùng đặc sắc, riêng biệt dưới
lăng kính của tâm hồn ơng. Trước khi trở thành người tình dịu dàng, chung thủy
của mảnh đất cố đơ, sơng Hương đã trải qua một hành trình dài và đầy thử thách.
Trong cái nhìn tình tứ, lãng mạn của nhà văn, hành trình của dịng sơng khi xi về
đồng bằng và ngoại vi thành phố giống như "một cuộc tìm kiếm có ý thức" người
tình nhân đích thực của cơ gái đẹp trong câu chuyện cổ tích về tình u. Ơng đã ví
Hương giang như " người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa dại" đang chờ "người tình mong đợi đến đánh thức". Câu văn với phép so
sánh độc đáo, nhuốm màu cổ tích làm ta khơng khỏi liên tưởng tới câu chuyện
"Cơng chúa ngủ trong rừng": nàng công chúa say ngủ trong lời nguyền của mụ phù
thủy và thức dậy nhờ nụ hơn định mệnh của hồng tử, nụ hơn say đắm của tình
yêu. Và "người tình" ấy đối với Hương giang, khơng ai khác chính là kinh thành
Huế. Dịng sơng mang dáng dấp của người gái đẹp, dưới ngòi bút thi họa của tác
giả đã trở nên sinh động, hấp dẫn đến lạ kì, vừa mang nét trữ tình, lại vừa trẻ trung
đầy sức sống.
Tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, sơng Hương "chuyển dịng một cách liên tục, vịng
giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm", "theo
hướng nam bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây
bắc, vịng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình
cung thật trịn về phía đơng bắc, ơm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế". Với
những câu văn dài nối tiếp như chính dịng chảy miên man của con sông Hương và
một loạt động từ mang sắc thái nhân hóa, nhà văn đã vẽ nên một hành trình đầy
sinh động, hấp dẫn của dịng sơng. Ở đó, "người gái đẹp" khơng chỉ yểu điệu, dịu
dàng khi "uốn mình theo những đường cong thật mềm" mà cịn khốc lên mình lớp
áo thanh xuân trẻ trung, sức sống mạnh mẽ như còn "dư vang của Trường Sơn" khi
"chuyển dòng liên tục", "vòng đột ngột", rồi lại "đột ngột vẽ một hình cung thật
trịn",... Rõ ràng, hành trình gian khổ tìm đến mảnh đất Huế lại chính là cơ hội để
nàng Hương phô khoe tất cả những vẻ đẹp, những đường cong quyến rũ của mình.
Hành trình ấy cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, một bản lĩnh kiên cường


giấu trong vẻ dịu dàng, duyên dáng mà chỉ riêng dịng sơng mới có được. Tại sao
sơng Hương lại phải trải qua nhiều khó khăn, phải "chuyển dịng một cách liên


tục", phải vượt qua nhiều chướng ngại vật đến thế? Phải chăng việc tìm kiếm tình
u đích thực chưa bao giờ là điều dễ dàng? Có thể đơi bàn chân ấy phải bôn ba
trên khắp nẻo đường như dân gian từng viết:
"Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở
Anh đến tìm đị thì đị đã sang sơng
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng"
Mỗi bước đường mà sơng Hương đi qua lại gắn liền với một địa danh cụ thể của
xứ Huế, người đọc lại như được chu du, ngắm nhìn, được mở mang tầm mắt về
những tuyệt cảnh của Huế thương. Quả đúng như ca dao đã ngợi ca:
"Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ"
Từ điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, đồi Thiên Mụ
đến Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, hành trình về xi của sơng Hương khơng
chỉ được tái hiện chân thực theo dịng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí mà cịn thấm
đượm nét trữ tình lãng mạn khi hình dung đó là cuộc kiếm tìm bến bờ tình u của
một người gái đẹp.
Dịng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong con mắt
cảm nhận tinh tế của nhà văn, Hương giang như soi chiếu những cảnh sắc của đôi
bờ. Con sông như cô gái Digan hoang dã sau khi ra khỏi những cánh rừng đại
ngàn, vẫn mang trong mình những "dư vang của Trường Sơn" đầy mạnh mẽ, rồi lại
tự làm mới mình trong sắc "xanh thăm thẳm" của dưới chân núi Ngọc Trản. Cô gái
ấy cũng hiền dịu, nhẹ nhàng, "mềm như một tấm lụa" khi lượn quanh những Vọng
Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã họa nên một bức tranh
bằng nghệ thuật ngược sáng của điện ảnh. Dịng sơng nhận lấy ánh phản quang đầy
màu sắc của những ngọn đồi "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" để trở nên rực rỡ,
kiêu sa. Đến đây, ta lại nhớ đến dáng vẻ thẹn thùng, e lệ của sông Hương trước khi

gặp thành phố Huế. Có lẽ nàng Hương điệu đà đã chuẩn bị cho mình 3 sắc áo mà
nàng u thích nhất: xanh, vàng và tím để gặp người yêu, để làm duyên, làm dáng
với người tình. Chúng ta khơng phải chờ đến mùa xuân mới thấy được cái "xanh
ngọc bích" hay tận mùa thu để có cái "lừ lừ chín đỏ" của của sông Đà trong văn


Nguyễn Tuân, mà với sông Hương, ta được chiêm ngưỡng tất thảy những gam màu
khác nhau chỉ trong một ngày.
Có lẽ, xứ Huế sẽ không được gọi là "mảnh đất cố đơ" nếu thiếu đi vẻ cổ tích trầm
mặc "như triết lí, như cổ thi" của những lăng tẩm, đền đài của các vua chúa. Cái
đẹp của dịng sơng ở qng này khơng chỉ tốt lên từ dáng vẻ, màu sắc mà hơn hết
là từ thần thái khi chảy trôi qua những rừng thông u tịch và lăng tẩm đồ sộ, nơi
"giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín", nơi "niềm kiêu hãnh
âm u tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu". Nếu so sánh sông Hương như một bản
trường ca thì có lẽ, sơng Hương khi chảy qua quãng này chính là những nốt trầm
sâu lắng nhất của bản trường ca ấy. Phải chăng, cũng chính vẻ đẹp trầm mặc ấy của
dịng sơng đã khơi nguồn cảm xúc để những giai điệu da diết ngân vang trong nhạc
phẩm "Huế tình u của tơi":
"Đã đơi lần đến với Huế mộng mơ
Tơi ơm ấp một tình u dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư"?
Và rồi, con sông lại trở nên hư ảo khi gặp mênh mang "tiếng chuông chùa Thiên
Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà". Cái
hư vô tịch mịch của "tiếng chng chùa" hịa quyện với chất thơ ấm áp, giản dị của
"tiếng gà" nơi thôn dã đã đưa dịng sơng trơi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời
, như thực, như mơ. Suy cho cùng, vẻ đẹp của sơng Hương chính là sự hắt bóng kì
diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xứ Huế. Thiên nhiên Huế như
nguồn phù sa vô hạn, tuyệt diệu bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho người con gái dịu
dàng, nết na, chung thủy của mình.


II. Chảy giữa lịng thành phố:
Mang trong mình âm sắc, khí trời của cố đơ Huế, bởi vậy những cảm nhận của
Hồng Phủ Ngọc Tường về dịng sơng Hương cũng vơ cùng đặc sắc và riêng biệt
dưới lăng kính của tâm hồn ơng. Gặp được người tình trong mộng, được tự do xi


chảy giữa lịng thành phố thân u của nó, sơng Hương "vui tươi hẳn lên". Trong
liên tưởng thú vị dưới phép nhân hóa của nhà văn, đây chính là nét thay đổi đầu
tiên của nàng Hương khi gặp kinh thành Huế. Đó âu cũng là điều dễ hiểu, bởi lẽ có
ai từng dành q nửa cuộc đời mình kiếm tìm người thương, đến khi được tận mắt
gặp được lại không vui, lại không thổn thức hay sao? Chưa dừng lại ở đó, giáp mặt
với chủ nhân của trái tim mình, Hương giang còn "kéo một nét thẳng thực yên tâm
theo hướng tây nam - đông bắc". Cách miêu tả đặc sắc gợi ra cảm giác thanh thản,
bình yên, tin tưởng của một dịng sơng đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu
khi về tới thành phố dường như chỉ dành riêng cho nó, thuộc về nó, một thành phố
ln đợi chờ hành trình khơng mấy dễ dàng của dịng sông thân yêu trở về từ miền
thăm thẳm xa xôi của những cánh rừng đại ngàn. Nghệ thuật nhân hóa khiến dịng
sơng trở nên gần gũi vơ cùng với mảnh đất cố đơ và con người xứ Huế khi nó chảy
qua cầu Tràng Tiền trắng "in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng
non". Và đặc biệt nhất trong khoảnh khắc gặp gỡ Huế thương, con sông "uốn một
cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến", rồi lại "mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng"
khơng nói ra của tình u". Dịng sơng đã thực sự mang dáng dấp của một người
con gái nhẹ nhàng, dịu dàng, thuận tình nhưng cịn e lệ đến khơng nói nên lời. Cơ
gái ấy tình tứ, dun dáng nhưng cũng e thẹn và kín đáo. Những đường nét mềm
mại, mê đắm ấy của nàng Hương làm cho tất thảy những ai khi đọc thiên tùy bút
cũng đều sửng sốt, ngỡ ngàng và khao khát say đắm trong tình yêu để hiểu được
tiếng "vâng" kia ngọt ngào đến mức nào! Tiếng "vâng" đầy thẹn thùng ấy cũng
khiến ta nhớ đến cái lắc đầu tình tứ như chấp thuận của người con gái đáng yêu
trong thơ Xuân Quỳnh:

"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
Sông Hương đến với Huế như đến với điểm hẹn của tình yêu, như một cuộc hội
ngộ đầy duyên nợ sau nhiều thế kỉ tìm kiếm. Và hơn hết, đó cũng là cuộc hội ngộ
của chính tác giả, của chính người con đất Huế mang nặng tình cảm sâu sắc với
mảnh đất cố đô.


Khi gặp được người thương, mỗi giây mỗi phút đều đong đầy tình u, thổn thức
và mơ mộng, nên có ai lại nỡ rời xa? Chắc hẳn ai cũng muốn thời gian như ngừng
lại để níu giữ khoảnh khắc trân q ấy. Sơng Hương cũng vậy. Thế mới hiểu vì sao
Hồng Phủ Ngọc Tường lại ví con sơng như "điệu slow tình cảm dành riêng cho
Huế". Miêu tả dịng sơng chảy giữa lòng thành phố, nhà văn đã chọn cho mình
cách tiếp cận ở góc độ âm nhạc. Nhịp điệu êm đềm, những câu văn dài nối tiếp
miên man với ít dấu ngắt như phần nào lột tả được cái đẹp của giai điệu trữ tình
chậm rãi ấy. Như Nguyễn Trãi trong "Bình Ngơ đại cáo" đã đặt các triều đại Việt
Nam sánh ngang với các triều đại Trung Hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thật
khéo léo khi so sánh dịng chảy của sơng Hương với những dịng sơng khác trên
thế giới. Điểm giống nhau ở ba con sông này là chúng nằm trong lịng thành phố
thân u của mình. Nhưng khác với sông Hương, sông Xen và sông Nê-va chảy
quá nhanh như những đoàn tàu tốc hành băng băng để rồi khi chảy đi rồi mới nuối
tiếc vì chưa kịp nói gì với thành phố. Đặt Hương giang trong sự so sánh với 2 con
sông trên, tác giả đã làm nổi bật nét đặc trưng của riêng dòng chảy sơng Hương: đó
là sự đan cài giữa q khứ và hiện tại khi "giữ nguyên dạng một đô thị cổ" và lưu
tốc chậm rãi. Lí do khiến sơng Hương chảy chậm trước hết nằm ở đặc điểm địa lí:
"Những chi lưu ấy, cùng với hai hịn đảo nhỏ trên sơng đã làm giảm hẳn lưu tốc
của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi chậm, thực chậm,
cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh". Lưu tốc chậm rãi ấy cịn được nhà văn cịn

lí giải bằng trái tim: vì quá yêu thành phố và muốn được nhìn ngắm lâu hơn thành
phố thân thương trước khi rời xa nên con sông mới dùng dằng "muốn đi muốn ở,
chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lịng". Dịng chảy n
bình, lặng lẽ của dịng sơng đã khiến bao người mê đắm, ngẩn ngơ:
"Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
(Tạm biệt Huế - Thu Bồn)
Sở dĩ dịng sơng "muốn đi muốn ở", "dùng dằng". "khơng chảy" bởi nó dành riêng
cho Huế một tình cảm lắng sâu, đằm thắm. Nó muốn neo đậu bên đất Huế thật lâu,
neo đậu bên người tình mà nó đã trải qua cuộc hành trình vơ cùng gian trn mới
gặp được. Có thể nói, tình cảm của sơng Hương với Huế cũng chính là tình u mà
Hồng Phủ Ngọc Tường dành cho mảnh đất cố đô. Qua con mắt của một người


nghệ sĩ tài ba, ơng đã họa nên một dịng sông Hương với đầy đủ những nét quyến
rũ, sắc màu hài hòa: những cây đa, cây cừa cổ thụ, những xóm thuyền chài ríu rít,
cây cầu Tràng Tiền trăng trắng như vành trăng non, những ánh lửa thuyền chài,...
Phải là người giàu tình cảm, yêu say yêu đắm quê hương đất nước, Hoàng Phủ
Ngọc Tường mới viết nên được áng văn lay động lịng người đến thế. Đơi mắt tinh
tường của nhà văn cịn nhìn ra được mối quan hệ biện chứng giữa dịng sơng
Hương với con người xứ Huế. Nét dịu dàng, duyên dáng, đầy e lệ của dòng sơng
cũng chính là tính cách nết na, ý nhị, kín đáo của người con gái cố đô.

III. Chia tay thành phố Huế:
Mang trong mình âm sắc, khí trời của cố đơ Huế, nên những cảm nhận của Hồng
Phủ Ngọc Tường về sông Hương cũng thật riêng biệt và đặc sắc dưới lăng kính của
tâm hồn ơng. Nếu khi ở trong lịng thành phố, con sơng mang tâm trạng vui tươi,
phấn khởi của một người thiếu nữ đang yêu thì rời khỏi kinh thành Huế, nàng lại
nặng trĩu tâm tình, luyến tiếc khơng muốn rời xa. Dịng sơng "chếch về hướng
chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói". Đó âu

cũng là điều tất yếu của tình yêu. Khi gặp được người thương, gặp được chủ nhân
của trái tim mình, mỗi giây mỗi phút đều đong đầy yêu thương, ngọt ngào và thổn
thức, có ai lại nỡ rời xa? Hẳn là ai cũng đều mong thời gian ngừng lại để tận
hưởng, để đắm chìm trong khoảnh khắc trân q ấy. Sơng Hương cũng vậy. Nó
muốn neo đậu bên đất Huế thật lâu, neo đậu bên người tình mà nó đã trải qua cuộc
hành trình khơng mấy dễ dàng mới gặp được. Trong liên tưởng thú vị dưới phép
nhân hóa của nhà văn, trước khi xa dần thành phố, dịng sơng đã "lưu luyến ra đi
giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ" - cảnh
thôn Vĩ đẹp như trong tranh mà Hàn Mặc Tử đã từng khắc khoải mong chờ được
trở lại khi nằm trên giường bệnh:
"Sao anh không về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"


Sắc xanh biêng biếc, màu nắng tinh khôi như chốn bồng lai tiên cảnh làm nàng
Hương đã lưu luyến lại càng lưu luyến hơn. Có lẽ bởi vậy mà ngay cả lúc rời xa
thành phố thân yêu, Hương giang vẫn cố ghi dấu những địa danh nổi tiếng, những
thắng cảnh chỉ có ở Huế thương.
Và cũng chính sự lưu luyến ấy đã khiến dịng sơng "như sực nhớ lại một điều gì
chưa kịp nói", "đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành
phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ". Hồng Phủ Ngọc Tường thực sự đã
rất tài ba trong cách miêu tả, lựa chọn những phép so sánh, nhân hóa đưa vào áng
văn của mình để dẫn người đọc đến nhiều liên tưởng mới lạ. Có thể sơng Hương
đổi dịng ở đoạn này là do đặc điểm địa lí, khi hầu hết các con sông ở nước ta đều
chảy về hướng Đông để đổ ra biển. Nhưng dưới con mắt của người nghệ sĩ, khúc
ngoặt này lại là biểu hiện của "nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình
u". Nhà văn cịn hình dung sơng Hương khi rời khỏi thành phố như "nàng Kiều
chí tình trở lại tìm Kim Trọng" để nói lời thề trước khi đi xa: "Còn non, còn nước,

còn dài, còn về, còn nhớ...". Đây là một liên tưởng hết sức bất ngờ, thú vị, đậm
màu sắc văn chương cổ điển mà nhà văn dành cho dịng sơng của mình. Lời thề
thủy chung son sắt ấy làm ta nhớ đến cảnh thề nguyền của Thúy Kiều và Kim
Trọng trong đêm tự tình:
"Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đơi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song"
Lời thề Kim - Kiều cũng chính là khúc hát thủy chung của sơng Hương dành cho
đất Huế. Đó là tất cả những gì sơng Hương có thể dành tặng cho Huế, dâng hiến
cho vùng đất kinh thành để bày tỏ tình u, lịng sắt son của mình. Mà tình u
giữa sơng Hương và Huế cũng chính là tình cảm Hồng Phủ Ngọc Tường dành cho
mảnh đất cố đơ. Qua vốn hiểu biết sâu sắc về dịng sơng Hương, lối hành văn uyển
chuyển đầy chất thơ cùng trí liên tưởng, tưởng tượng phong phú của ông, sông
Hương đã đẹp nay lại càng đẹp hơn, giống như một người con gái hoàn mĩ từ bề
ngoài đến tâm hồn.



×