Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Dán ý và văn mẫu Từ ấy Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.14 KB, 6 trang )

Từ ấy trong tơi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tơi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Tơi buộc lịng tơi với mọi người
Để tình trạng trải với trăm nơi
Để hồn tơi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ….
-

Liên hệ hoàn cảnh sáng tác: Tố Hữu là lớp tri thức tiểu tư sản, được học tập và dạy
dỗ theo tư tưởng Pháp như bao nhà thơ cùng thời. Thế nhưng, Tố Hữu rất may mắn
khi đã sớm lĩnh hội được ảnh sáng của Đảng Cộng sản, tìm thấy cho mình một lối đi
riêng.
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vịng quanh quẩn
Muốn thốt, than ơi, bước chẳng rời

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời
→ Hai thái cực hoàn toàn khác biệt của nhà thơ trước và sau khi tìm được lí tưởng Cách
Mạng và “Từ ấy” đánh dấu những sự thay đổi trong tư tưởng và lẽ sống của nhà thơ,
chuyển mình từ những mê cung mơ hồ đến nơi ánh sáng tràn ngập, chan chứa.
Đoạn 1: Đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong cuộc đời nhà thơ


+ Bừng: bừng, rộn ràng và mạnh mẽ
+ Nặng hạ: ánh sáng mùa hạ là ánh sáng rực rỡ nhất, chói chang nhất→ tình
yêu nước mãnh liệt, nồng nàn.
+ Mùa hạ: là mùa của vạn vật sinh sôi, nảy nở→ sự sống cho chính cuộc đời nhà thơ
+ Mặt trời chân lí: hình ảnh ẩn dụ ấn tượng và hấp dẫn
● Khơng có mặt trời sẽ khơng có sự sống thế gian → thái độ trang
trọng, ngợi ca
● Tác giả: không có Cách Mạng thì cuộc đời ơng như đi vào ngõ cụt


Đề: Phân tích Từ ấy của Tố Hữu
Bài làm:
Thi hào Nguyễn Đình Chiểu:
Chở bao đạo thuyền khơng khảm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Cây bút nhỏ bé dưới tay của Nguyễn Đình Chiểu lại hóa ra sắc bén,
hùng mạnh hơn bất cứ thứ gì. Văn chương từ xưa đã trở thành một thứ vũ khí
uy vũ của các bậc thi nhân, khơi dậy một khối đoàn kết toàn dân và làm mài
mịn ý chí của qn giặc. Và thấm nhuần được tư tưởng và khát vọng của các
vị tiền nhân, nhà thơ Tố Hữu đã dùng những lời thơ của mình để “chinh chiến”
trên sa trận đầy bom đạn. Và làm nên sự nghiệp của ông, không thể không
nhắc đến “từ ấy” đánh dấu một sự tiến bộ trong tư tưởng và bước chuyển biến
to lớn trong cuộc đời của nhà thơ.
Nếu thơ Xuân Diệu tràn ngập một tình yêu của đơi lứa, thì thơ của Tố
Hữu cũng chứa đựng một tình yêu, một tình yêu dành cho quê hương, dành
cho dân tộc, dành cho những kiếp người đang gánh chịu bom đạn chiến
tranh. Như bao nhà thơ đương thời, Tố Hữu cũng mang xuất thân là tầng lớp
tiểu quý tộc, bị cái tư tưởng của Pháp “bào mòn”. Nhưng ông vô cùng may mắn
khi đã sớm tìm ra một lí tưởng đúng đắn, tìm ra lẽ sống riêng cho chính bản
thân mình. Và từ dạo ấy, ơng bắt đầu sáng tác và được coi là cánh chim đầu

đàn của nền thơ Cách mạng Việt Nam. Đọc thơ của ông, ta có thể cảm nhận
rõ ràng cái chất trữ tình nồng nàn của tình u q hương, hịa hợp cùng
chất chính luận hào hùng và mạnh mẽ. Mỗi một tác phẩm của ông bước song
song cùng với những giai đoạn lịch sử của đất nước. Ở ông luôn hiện hữu một
cái tôi đầy trách nhiệm với nhân dân, đối với đất nước.
Bài thơ “từ ấy” được viết trong phần “máu lửa” của tập thơ cùng tên. Tập
thơ “ Từ ấy” là tập thơ đầu tiên của người thanh niên Tố Hữu, thể hiện mối
duyên của người thanh niên trẻ trước ánh sáng của Cách Mạng, bao hàm cả
phong cách thơ cùng một đề tài “bất di bất dịch” trong suốt sự nghiệp của
ông- Tổ quốc. Vậy nhan đề “từ ấy” có ý nghĩa mà Tố Hữu tâm đắc đặt tên cho
bài thơ đến cả tập thơ? Giữa những tháng ngày đen tối, chàng thanh niên Tố
Hữu cứ mãi băn khoăn, trăn trở cuộc đời mình rồi sẽ ra sao:
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thốt, than ơi, bước chẳng rời
Và rồi ơng tìm thấy ánh sáng của Đảng Cộng Sản, sẵn sàng dấn thân vào con
đường đầy gian nan nhưng lại vô cùng thiêng liêng, cùng nhân dân chống lại
kẻ thù xâm lược:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời
Và “từ ấy” chính là khoảnh khắc mà ơng tìm ra chân lí, cuộc đời ơng “từ ấy”
sang trang, tiến đến những hạnh phúc và hơi ấm của quê hương.


“Từ ấy” được mở đầu bằng một dòng cảm xúc sung sướng, sung sướng
đến tột cùng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim

Hai câu thơ đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tơi..."Ta có thể
tưởng tượng được một Tố Hữu của tuổi 18, giác ngộ tư tưởng của Cộng sản,
đang sống trong niềm vui sướng vơ cùng, bắt đầu một hành trình hoạt động
say mê và nhiệt huyết sau khi được kết nạp vào Đảng. Câu thơ như sống dậy
với cụm từ “bừng nắng hạ”. Ánh nắng mùa hạ là thứ ánh sáng chói chang
nhất, rực rỡ nhất, tan chảy các rét buốt của mùa đông, đập tan cái buồn
buồn, ảm đạm của tiết trời mùa thu, thổi vào tia nắng xuân một luồng sáng,
một luồng nhiệt khác, mạnh mẽ hơn, mãnh liệt hơn. Ánh sáng mùa hạ đang
tràn ngập, lấp đầy, chan chứa trong từng nhịp đập con tim, tô điểm thêm cho
“mặt trời chân lí”. Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời chân lý” được thể hiện đầy ấn
tượng, giàu sức gợi, tượng trưng cho một lý tưởng Cách Mạng, của chủ nghĩa
Mác- Lênin xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất
nước. Khơng có mặt trời thì nhân loại này khơng thể tồn tại, trái đất này sẽ
khơng cịn sự sống. Khơng có Đảng, khơng có Cách mạng sẽ khơng có một Tố
Hữu của bây giờ, khơng có một tâm hồn tưng bừng nắng ấm, một trái tim khát
khao với cuộc đời, với quê hương. Và hơn thế, Mặt trời là vĩnh cửu, sẽ khơng
bao giờ bị che lấp, xóa nhịa bởi bất kỳ bom đạn hay vũ khí nào, vĩnh viễn soi
sáng, lan tỏa và chói thẳng vào tim. Nếu “bừng” là sự xuất hiện mạnh mẽ, rạo
rực thì đến chữ “chói” mang đến cho người đọc một sự chống ngợp, lóa mắt
trước ánh sáng của “mặt trời chân lí”. Chữ “chói” giờ đây như muốn vươn lên,
muốn biến mình từ một tính từ để hóa thành động từ, để soi rọi, chiếu sáng
đến khắp muôn nơi. Cách Mạng đến với Tố Hữu, là chân lý, là lẽ sống, là một
thứ trường sinh bất diệt đang chói lọi giữa những hoang tàn, đen tối của thế
gian.
Nhà thơ đón nhận lí tưởng khơng những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận
thức đúng đắn mà cịn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí
tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới
đầy hương sắc, âm thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng
tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân
chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh và ẩn dụ “hồn tôi” với “vườn
hoa lá” đầy nghệ thuật và ý nghĩa. Ông đã biến cái trừu tưởng thành một sự
vật cụ thể, mời gọi độc giả đến thăm “khu vườn” tươi đẹp, cùng ơng trải lịng,
sống trong dịng chảy của Đảng. Chính “nắng hạ”, chính “mặt trời chân lí” đã
xuyên qua những lớp mây mù, đâm vào những khối băng giá buốt, che lấp trái
tim của của thanh niên trẻ tuổi, để nó lại một lần nữa tái sinh, nóng bỏng. Đó
là một bức tranh tuyệt đẹp, “rất đậm hương và rộn tiếng chim”, căng tràn nhựa
sống, bắt đầu một thời kì mới, đầy hứa hẹn. Ngồi ra, lối vắt dịng được tác giả
áp dụng xuyên suốt khổ đầu lại một lần nữa diễn tả niềm vui sướng đang
dâng trào trong lịng nhà thơ, chúng cứ thế tn ra đến mức khơng thể nào bị
trói buộc trong một câu thơ 7 chữ ngắn ngủi mà chảy dài, nối tiếp nhau từ
câu này qua câu khác. Từ đó, ta có thể nhận thấy, khổ đầu bài thơ chính là


một tiếng reo vui, một tiếng hát từ tận đáy lịng của nhà thơ, tốt lên cái chất
thơ rất riêng của Tố Hữu.
Tiếp nối với một niềm vui sướng đang chảy dọc trong từng tế bào, ở
những dòng thơ sau Tố Hữu đã cho ta thấy những chuyển biến trong tư tưởng
và hành động của ông sau khi được vào Đảng Cộng Sản, thể hiện mới sợi dây
gắn kết bền chặt giữa người với người:
Tơi buộc lịng tơi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tơi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Đoạn thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến về nhận thức bào hành
động của nhà thơ về lẽ sống thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác
nhau của quần chúng xã hội. Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ nét cái tôi cá nhân
vừa bộc lộ cái ta rộng lớn, bao la nhất. Trước “từ ấy”, Tố Hữu cũng như bao

nhà thơ đương thời, mang trên mình những gánh nặng của những sự khác
biệt giai cấp, nào của tư sản, của tiểu tư sản hay nơng dân. Chính chúng đã
trở thành rào cản “gơng” chân họ hịa hợp với cuộc đồng, trở nên bế tắc trong
cuộc sống. Như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng trăn trở:
Ai bảo giùm ta: có ta khơng?
Chạy trốn một tinh cầu giá lạnh
Chế Lan Viên cũng như những tri thức trẻ thuộc tầng lớp tiểu tư sản lúc
bấy giờ, tự giam lỏng mình trong các ốc đảo vơ hình, tù túng, chỉ muốn chạy
trốn về những miền cực lạc xa xăm, vô thực. Nhưng Tố Hữu thì may mắn hơn
thế, ơng đã sớm giác ngộ được Ánh sáng thực thụ, ánh sáng của hạnh phúc
và tự do, ánh sáng của Đảng Cộng Sản. Ơng tìm được bản thân mình giữa
dịng đời, trong đời sống lao khổ. Chính nó đã làm cho chàng thanh niên tiểu
tư sản trở nên mạnh mẽ hơn, cứng rắn hơn, vững chãi hơn, sẵn sàng phá vỡ
cái bức tường vơ hình ngăn cách giữa con người với con người để thấu hiểu
những khổ lao của dân tộc. Hai chữ “buộc lịng” đã nói lên tất cả, thể hiện cái
quyết tâm cao độ vượt qua giới hạn của cái tôi. Tố Hữu tự nguyện “buộc” lịng
mình với mọi người, tự nguyện san sẻ với họ người bao vất vả và nỗi đau mà
họ đang mang. Ơng muốn dùng tình u, tình thương của mình để “trang trải”
khắp mọi ngóc ngách, để sưởi ấm cho bao con người chịu nhiều áp bức, bất
cơng ngồi kia, mang sức người để gửi chút hương hoa cho thế gian. Trong
không gian, bỗng hiện ra một sợi dây gắn kết vơ hình nhưng dẻo dai, bền chặt
gắn kết con người với nhau. Tất cả cùng nhau tụ họp thành “khối đời”như anh
em ruột thịt, cùng chung một lí tưởng, đồn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với
nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống
và quyền độc lập dân tộc, Cùng nhau ta tạo nên một sức mạnh tập thể- một
sức mạnh bất diệt, khơng gì sánh bằng.
Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác,
giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của
mình. Đó là tình u thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái
giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên

cũng là một lời khẳng định: khi cái tơi chan hịa với cái ta, khi cá nhân hịa vào
tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội.
Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá


nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy cả
niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự
giác ngộ lí tưởng của nhà thơ Tố Hữu. Khổ 3, nhà thơ khép lại với sự chuyển
biến của tình cảm trong nhà thơ Tố Hữu. Từ thay đổi về nhận thức dẫn đến sự
thay đổi về tình cảm.
"Tơi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ"
Điệp từ “là” kết hợp cùng với cách xưng hô ruột thịt cho ta thấy tình hữu ái giai
cấp, thắm thiết như một gia đình. “Đã là” kể về một thứ tình cảm đã xuất phát
từ rất lâu, trở thành một thứ gắn liền với trái tim, thành một phần của cơ thể.
Với số từ ước lệ “vạn” nhấn mạnh, khẳng định lại một phần nữa tình đồn kết,
keo sơn giữa những con người trong xã hội, không phân biệt tuổi tác, giới tính
hay bất kì tầng lớp nào. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với
giai cấp vơ sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm
hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí
tưởng cộng sản khơng chỉ cảm hóa Tố Hữu mà cịn thay đổi cả một thế hệ trí
thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi
trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. Các nhà
thơ lãng mạn quan niệm:
"Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây"
(Xuân Diệu)

Nhưng quan niệm của các nhà thơ cách mạng, nhà thơ, nhà văn phải là người
chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Hồ Chí Minh đã viết:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
Không những thế, kết lại bài thơ bằng một dịng “khơng áo cơm, cù bất cù bơ”
bỗng để lại trong đầu ta những suy nghĩ bộn bề. Có chăng bên cạnh một tình
u, sự đồng cảm vơ ngừng của nhà thơ, cịn là một sự căm ghét, phẫn nộ của
ơng. Chính bọn thực dân Pháp, chính những bom đạn giá lạnh kia, chính cuộc
chiến tranh phi nghĩa kia đã đày đọa cho con người nơi đây như thế đấy,
thẳng thừng cướp đi những hạnh phúc, niềm vui, sự bình yên, ấm êm của dân
tộc Việt Nam. Chính chúng đã ngăn cách ơng đến với cuộc đồng, đến với cuộc
sống. Nhưng dù chán ghét cái xã hội đầy cạn bẫy, bất công, nhưng không ông
thể nào từ bỏ hay trốn chạy. Vì ơng u con người nơi đây, thương “vạn kiếp
phơi pha”, xót trong một dân tộc, một đất nước anh hùng. Những cảm xúc ấy
như tương phản nhưng lại thống nhất với nhau, như Nguyễn Đình Chiểu đã
từng viết:
“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng
linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngơn ngữ rồi sử
dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách
sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên
ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng
ngũ lãnh đạo của Đảng.
“Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ
ơng thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng”.
“Từ ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tun
ngơn về lí tưởng cách mạng, là tiếng hát trong trẻo của người thanh niên ở
năm những năm mười tám đôi mươi sung sướng, hạnh phúc khi được giác ngộ
bởi ánh sáng của Đảng cùng với những nhận thức và sự vận động mới mẻ



trong tình cảm của người chiến sĩ cộng sản.



×