Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Ngành sữa với vấn đề tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.6 KB, 24 trang )

A.Tổng quan về ngành sữa
Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển kinh tế mạnh mẽ với tốc độ
“thần tốc” kéo theo mức thu nhập, mức sống của người dân cũng được cải thiện rõ
rệt. Sữa và các sản phẩm từ sữa đã gần gũi hơn với người dân, nếu trước những năm
90 chỉ có 1-2 nhà sản xuất, phân phối sữa, chủ yếu là sữa đặc và sữa bột ( nhập
ngoại), hiện nay thị trường sữa Việt Nam đã có gần 20 hãng nội địa và rất nhiều
doanh nghiệp phân phối sữa chia nhau một thị trường tiềm năng với 80 triệu dân.
Nhìn vào biểu đồ ta thấy tổng lượng tiêu thụ sữa Việt Nam liên tục tăng mạnh với
mức từ 15-20% năm, theo dự báo đến năm 2010 mức tiêu thụ sữa tại thị trường sẽ
tăng gấp đôi và tiếp tục tăng gấp đôi vào năm 2020
Việt Nam là nước nông nghiệp trong đó bò là động vật phục vụ sản xuất rất tốt,
khoảng vài chục năm trở lại đây bò sữa mới trở nên quen thuộc với người dân qua
nhiều dự án phủ rộng diện tích đàn bò làm nguyên liệu.
1
Theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp sữa VN đến năm 2010 và định
hướng đến 2020 mà Bộ Công nghiệp vừa ban hành, sản lượng sữa toàn ngành trung
bình tăng khoảng 5-6%/năm trong giai đoạn 2006-2010.Trong đó, sữa đặc có mức
tăng trưởng 1%, sữa bột 10%, sữa tươi thanh trùng 20%, sữa chua các loại là 15%
và kem là 10%. Hiện năng lực sản xuất toàn ngành đạt khoảng 547,3 triệu lít/năm
(quy sữa đã chế biến). Tuy nhiên, để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ đang có xu
hướng tăng, trong năm nay, toàn ngành phải đầu tư bổ sung thêm năng lực sản xuất
120 triệu lít và đến năm 2010 là 248 triệu lít.
Nhưng ngành sữa vẫn phải nhập tới 80% tổng nhu cầu về nguyên liệu. Đó là kết
luận mới đây của Bộ Công Thương sau khi kiểm tra quy hoạch công nghiệp sữa.Dễ
hiểu vì sao thị trường sữa trong nước có thể bị ảnh hưởng tức thì và trực tiếp mỗi
khi nguyên liệu sữa thế giới biến động về giá hay chất lượng .
Vừa qua thị trường sữa phải hứng chịu năng nề do cơn bão melamine gây ra.Hàng
loạt các sản phẩm sữa được kiểm nghiệm nhiễm chất melamine.Trước những thông
tin về sữa không nguồn gốc, sữa nhiễm melamine gây sạn thận, nhiều người dân bất
an thấy rõ khi chọn mua sữa cho con mình.Nó đã khiến không ít cửa hàng sữa trở
nên ế ẩm.Các siêu thị, trường học nhà phân phối đã tạm dừng lưu thông, phân phối


và đưa vào kho bảo quản. Chỉ đơn vị nào có Giấy chứng nhận kiểm nghiệm không
có chất Melamnie mới được giải tỏa.Nó đã gây thiệt hại lớn cho ngành sữa, cổ
phiếu của Công ty cổ phần sữa VN (Vinamilk), Công ty sữa Hà Nội đều xuống giá
do thông tin xấu về thị trường sữa trong nước và Trung Quốc những ngày vừa
qua.Người nông dân thì bị ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề nhất. Điều quan trọng
hơn là qua đợt này, đàn bò sữa trong nước chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và suy giảm
tổng đàn. Ngành chăn nuôi bò sữa mà cả Nhà nước, DN và nông dân đã mất bao
công sức gây dựng sẽ bị tổn thương nặng nề
Rồi câu chuyện sữa siêu nghèo đạm, tuy đang nóng bỏng trên các mặt báo, nhưng
thực ra bắt đầu sau đợt thanh tra do Sở Y tế TP.HCM thực hiện hồi tháng 8/2008,
với kết quả 100% số mẫu sữa chưa công bố tiêu chuẩn không đạt hàm lượng
protein, 31/49 mẫu sữa bột nội địa có hàm lượng protein thấp hơn công bố. Nhiều
2
loại sữa mức chênh lệch giữa hàm lượng protein kiểm tra thực tế thấp hơn nhiều so
với ghi trên bao bì sản phẩm đã công bố chất lượng từ 1 - 30 lần, nhất là sữa cho trẻ
em.
Điều này đang cho thấy, sản xuất và kinh doanh sữa tuy có nhiều qui định và hình
thức kiểm tra rất nghiêm ngặt, nhưng vẫn chưa mang lại niềm tin cho người tiêu
dùng. Vậy mà nghịch lý giá sữa thế giới giảm nhưng trong nước tăng vẫn đang diễn
ra. Dù chính phủ củng đã có một loạt các biện pháp nhằm cải thiện thị trường sữa.
Ngay từ hồi cuối năm 2007, thuế nhập khẩu sữa đã được Chính phủ cho phép điều
chỉnh xuống dưới mức thuế cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới, nhằm tăng
nguồn cung và góp phần giảm sức ép giá cả cho thị trường nội địa.Trong khi đó,
nhiều người dân đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế trong nước
và khủng hoảng kinh tế thế giới, thu nhập giảm bớt và buộc phải cắt giảm chi tiêu.
Vậy những yếu tố về môi trường vĩ mô,vi mô tác động đến ngành sữa như thế
nào,sẽ được phân tích kĩ dưới đây.
B.Nội dung
I. Phân tích áp lực từ môi trường vĩ mô cho ngành sản xuất và chế biến
sữa Việt Nam :

1.Từ các yếu tố kinh tế:
Đối với các doanh nghiệp nói chung cũng như đối với ngành chế biến và
sản xuất sữa của Việt Nam nói riêng, yếu tố kinh tế luôn là yếu tố đầu tiên, quan
trọng nhất trong việc kinh doanh của doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê, thu nhập
bình quân đầu người ở Việt Nam năm 2006 là 7,6 triệu đồng, đây là mức sống thấp.
Chỉ một bộ phận dân cư có thu nhập khá mới tiêu dùng sữa thường xuyên. Thực tế
cho thấy thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tiêu thụ 80% lượng sữa cả nước.Tuy
vậy,Việt nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người
ngày càng tăng.đó là tiền đề thúc đẩy việc nâng cao đời sống nhân dân đồng nghĩa
với việc tiêu thụ sữa tăng cao.Nó sẽ là cơ hội tốt cho doanh nghiệp phát triển thị
phần sữa.Nhưng trong bối cảnh 2008,2009 lạm phát và khủng hoảng đã làm cho
3
thu nhập thực tế của người tiêu dùng giảm đi.Họ tiêu dùng sẽ thận trọng hơn nên sẽ
cân nhắc hơn trong việc mua các sản phẩm sữa.Điều này ảnh hưởng lớn đến doanh
nghiệp bởi doanh số bán hàng giảm trong khi đó doanh nghiệp cũng bị chịu tác
động của lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Việc nắm bắt tình hình biến động kinh
tế và những tác động của nó sẽ giúp các doanh nghiệp sữa có kế hoạch và điều
chỉnh hợp lý phù hợp với tình hình mới.
2.Từ các yếu tố chính trị, pháp luật:
Việc ổn định chính trị hay ra quyết định các chính sách trong vấn đề
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuát kinh
doanh của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam,chính sách của nhà nước về sữa nhập khẩu trong những
năm qua chưa thúc đẩy được phát triển sữa nội địa. Trước hết là do giá sữa nhập
khẩu tăng trong khi sản lượng sữa sản xuất trong nước chỉ đáp ứng 20-22% nhu cầu
nguyên liệu của các nhà máy. Như vậy cần có chính sách thích đáng khuyến khích
các công ty chế biến sữa Việt Nam giảm dần lượng sữa bột nhập khẩu tái chế, tăng
dần tỷ trọng sữa tươi sản xuất trong nước. Tuy nhiên, Việt Nam đã ra nhập WTO, từ
2010 nếu dùng chính sách thuế để khuyến khích hay hạn chế nhập sữa bột sẽ không
khả thi, vì vậy cần có những chính sách thích hợp cho lộ trình đến năm 2015 trở đi

nguồn nguyên liệu từ sữa tươi sản xuất trong nước tối thiểu phải đáp ứng được trên
40% nhu cầu sữa nguyên liệu. Cụ thể là trong bối cảnh giá sữa thế giới tăng cao như
hiện nay chính phủ đã có chính sách thúc đẩy nhằm phát triển đàn bò trong nước
như tăng giá thu mua sữa.
Mặt khác nhà nước tham gia vào ngành sữa với sự góp mặt của rất nhiều
cơ quan, các kênh cung cấp dịch vụ trùng lặp (kể cả các kênh song song với nhau),
và các mối quan hệ cực kỳ phức tạp giữa các bên tham gia. Điều này dẫn đến một
môi trường không thuận lợi cho sự phát triển hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư
nhân trong ngành sữa. Các công ty tư nhân sẽ phải thận trọng tìm kiếm một điểm
trung tâm để tham khảo và phối hợp hiệu quả.Ngoài ra sự chồng chéo giữa chức
năng quản lý nhà nước và hoạt động thương mại cũng là một nguy cơ bóp chết sự
4
tham gia của khu vực tư nhân vào việc cung cấp đầu vào và việc cung cấp dịch vụ
trong ngành sữa
3.Từ các yếu tố văn hoá xã hội và dân cư:
Văn hóa cũng là yếu tố cần nói đến.Trong kinh doanh cần có văn hóa để
ứng xử thỏa đáng đối với khách hàng.Vừa qua, các công ty sữa đã đưa ra rất nhiều
thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm “đính chính” việc ghi “nhầm” tên gọi của
sản phẩm sữa tươi trên bao bì. Khi phát hiện sai sót các doanh nghiệp nhanh chóng
sửa chữa, đó là phản ứng tự nhiên cũng là cách để bảo vệ uy tín và thương hiệu của
chính doanh nghiệp. “Xin lỗi” là văn hóa kinh doanh dù rằng xin lỗi không bù đắp
thiệt hại vô hình cho người tiêu dùng nhưng chắc hẳn sẽ làm khách hàng dễ chịu
hơn Hơn nữa mức chênh lệch thu nhập giữa bộ phận dân cư sống ở thành thị và
nông thôn cũng là tác nhân cản trở việc mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp
sữa theo chiều rộng. Theo nghiên cứu thì mức tiêu thụ sữa ở 2 thành phố lớn là Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm 80% mức tiêu thụ sữa của cả nước.Như vậy
việc phát triển ngành sữa ở Việt Nam trước mắt chỉ có thể “trông cậy” vào nguồn
thị trường ở các thành phố,nơi tập trung bộ phận dân cư có thu nhập cao và có nhu
cầu tiêu dùng lớn. Đây là mặt hạn chế mà các doanh nghiệp thuộc ngành sữa cũng
như chính phủ ta đang từng bước cải thiện để nâng cao mức sống cho người dân và

hoàn thành mục tiêu dinh dưỡng. Điển hình như chương trình “1 triệu ly sữa cho trẻ
em nghèo” của Công ty cổ phần sữa miền Bắc Vinamilk. Tuy nhiên đây không phải
là việc của một công ty hay các tổ chức từ thiện mà là trách nhiệm của chính phủ.
Dự án cải thiện dinh dưỡng người Việt Nam cần dành một khoảng kinh phí thích
đáng cho người nghèo được tiếp cận với sản phẩm sữa.
4.Từ các yếu tố công nghệ:
Công nghệ là yếu tố quan trọng trong việc sản xuất.Một doanh nghiệp nêu
muốn cạnh tranh được với đối thủ thì nếu có dây truyền sản xuất tốt,trang thiết bị
hiện đại ,sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu đi chi phí sản xuất,nâng cao chất lượng
sản phẩm,tăng sản lượng sản xuất.Hiện các doanh nghiệp sữa :hệ thống thu mua yếu
kém,thiếu thiết bị bảo quản và làm lạnh nên chất lượng sữa không cao. Và những
vấn đề thuộc về đảm bảo vệ sinh an toàn trong sản xuất lại rất đáng phải quan
5
tâm.An toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm là trách nhiệm của nhiều đơn vị,
nhưng sự phối hợp giữa các đơn vị lại kém. Đây là một trong những nguyên nhân
chính trực tiếp tạo nên những câu chuyện đáng buồn như sữa nhiễm melanin,sữa
siêu nghèo đạm mà các phương tiện truyên thông hiện nay đang lên án gay gắt. Hậu
quả từ những sự kiện trên thật đáng phải quan tâm.Vậy các nhà sản xuất sữa ở Việt
Nam đã thực sự quan tâm chưa và quan tâm ở mức độ như thế nào? Trả lời được
câu hỏi này cũng chính là tìm ra giải pháp phát triển cho các thương hiệu sữa Việt
Nam.
5.Từ các yếu tố tự nhiên:
Sự biến động của các yếu tố tự nhiên tác động gián tiếp đến ngành sản
xuất và kinh doanh sữa ở Việt Nam thông qua tác động lên đàn bò sữa được chăn
nuôi tại các nông trại trong nước. Nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào từ trong
nước của ngành sản xuất sữa nội địa mới chỉ đáp ứng được hơn 20% nhu cầu của
các doanh nghiệp. Số còn lại chúng ta vẫn phải nhập từ nước ngoài. Như vậy chúng
ta vẫn phải đối mặt với một thực trạng là ngành chăn nuôi bò sữa của chúng ta vẫn
chưa đạt được chỉ tiêu như mong đợi. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thực
trạng trên là do các yếu tố tự nhiên. Cụ thể như do thiếu đất trống cỏ và đồng cỏ

chăn thả nên hầu hết các cơ sở chăn nuôi bò sữa phải nuôi bò theo phương thức bán
thâm canh và nuôi nhốt trong chuồng. Mặc dù nước ta có điều kiện khí hậu nhiệt
đới nhưng vẫn thiếu các giống cỏ có năng suất, chất lượng cao và các loại cây thức
ăn xanh trồng vào mùa khô và mùa đông. Như vậy nhà nước ta cần phải có chính
sách thật cụ thể về quy hoạch vùng chăn nuôi, đất trồng cỏ để nâng cao chất lượng
đàn bò trong nước và tăng nguồn nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản
xuất sữa trong nước.
6.Từ yếu tố toàn cầu hoá:
Toàn cầu hoá là điều kiện tạo ra 1 thị trường chung cho các doanh nghiệp
được tự do thông thương buôn bán, là cơ hội cạnh tranh mang tính quốc tế.Các
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sữa ở trong nước sẽ không chỉ cạnh tranh với
nhau mà còn phải cạnh tranh với các thương hiệu khác trên Thế giới. Đây chính là
điều kiện để cải tạo, hoàn thiện sản phẩm và cũng đồng thời là một thách thức lớn
6
cho các doanh nghiệp trong nước do sản phẩm nước ngoài đa dạng hơn và có nhiều
ưu điểm hơn. Tuy nhiên trước hiện trạng chúng ta mới gia nhập WTO như hiện nay,
thách thức đối với ngành sữa nước nhà quả thật là không nhỏ. Vấn đề này đòi hỏi
các doanh nghiệp luôn luôn vừa phải tìm bước đi,vừa phải tìm hướng khắc phục hạn
chế để khẳng định vị thế của mình khi bơi ra biển lớn.
II.Phân tích môi trường ngành sữa
1.Áp lực cạnh tranh từ khách hàng
a.Nhà phân phối
Hiên nay các nhà phân phối chính của ngành sữa là hệ thống siêu thị và các đại
lý.Hệ thống này trải khắp toàn quốc và có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của doanh ngiệp.hơn 70% lượng sữa tiêu thụ thông qua 2 kênh phân phối
gián tiếp này.các siêu thị và đại lý nhờ đó có được những quyền lực ảnh hưởng đặc
biệt lên nhà sản xuất.
Áp lực về giá cả :
Giá cả có vai trò quan trọng trong việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sữa. Các
nhà phân phối là khách hàng chính của các doanh nghiệp.Quyết định sức mua của

hàng hóa.Việc bình ổn giá và đưa ra mức giá hợp lý cho nhà phân phối là bài toán
có tính quyết định trong việc chiếm lĩnh thị phần.các nhà sản xuất thường đưa ra
mức giá ưu đãi cho các nhà phan phối nhằm thu hút họ bán sản phẩm của
mình.Việc có nhiều nhà sản xuất trong khi chỉ có ít nhà phân phối đã tạo nên cuộc
cạnh tranh về giá gay gắt.các nhà phân phối cũng có xu hướng đa dạng hóa sản
phẩm bán hàng nghiễm nhiên tao thành 1 thị trường cạnh tranh nhỏ trong phạm vi
thị trường của nhà phân phối.
Do nhà phân phối có nhiều đặc quyền về bán hàng nên việc quản lý giá bán trên thị
truờng đối với các nhà cung cấp cũng là sức ép lớn với các doanh nghiệp sữa.Các
quy định rang buộc về giá đối với nhà cung cấp cần các doanh nghiệp sữa thực hiện
nghiêm túc để tránh gây ảnh hưởng đến đánh giá và lựa chọn của người tiêu dùng
cuối cùng.
7
Sức ép về chất lượng :
Chất lượng là yếu tố cạnh tranh quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp sữa.sữa là
thực phẩm không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại.việc đảm bảo chất lượng dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn là yếu tố đánh giá lựa chọn của người tiêu dùng. Các nhà
phân phối cũng dựa vào đánh giá lựa chọn này để quyết định kinh doanh.cạnh tranh
về chất lượng cũng gay gắt không kém cạnh tranh về giá.Đòi hỏi trình độ công nghệ
sản xuất và quản lý cao. Yếu tố công nghệ và chất lượng đầu vào quyết định chất
lượng của sản phẩm.Hiện nay công nghệ luôn luôn phát triển đã tạo nên cuộc cạnh
tranh công nghệ rất lớn với các nhà sản xuất.Những sản phẩm chất lượng cao với
nhiều ưu điểm tác dụng sẽ quyết định lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sữa.
Sức ép từ các dịch vụ đi kèm :
quyết định mua của nhà phân phối cũng bị chi phối bởi các dịch vụ và ưu đãi đi
kèm, đã tạo nên sức ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp sữa. Đòi hỏi các doanh
nghiệp cần có nhưng dịch vụ và ưu đãi hấp dẫn nhà phân phối và người tiêu dung.
b.Khách hàng lẻ
Bộ phận khách hàng không lớn nhưng cũng là thị trường tiêu thụ không nhỏ có ảnh
hưởng khá lớn tới hệ thống bán hàng và tạo nên sức ép cạnh tranh giữa các doanh

nghiệp.việc khai thác và thu hút khách hàng lẻ cũng là con bài chiến lược cạnh
tranh và mở rộng thị phần của doanh nghiệp sữa.Xây dựng hệ thống đại lý độc
quyền và hệ thống bán lẻ trưng bày sản phẩm là 1 chiến lược kinh doanh lớn của
doanh nghiệp sữa nhằm tranh dành lượng khách hàng không nhỏ này.
Mức giá bán lẻ cần phải hợp lý với mức giá bán của các nhà phân để tránh tình
trạng chênh lệch về giá đẫn đến cái nhìn sai khác từ phía người tiêu dùng.
Các dịch vụ ưu đãi tiếp thị sản phẩm đến tay khách hàng lẻ cũng tạo nên lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp.
VD: Trong vụ bê bối sữa nhiễm độc vừa qua, trong nước doanh nghiệp sữa
hanoimilk bị chịu hậu quả nghiêm trọng nhất từ việc tẩy chay của khách hang.
Trong nhiều tháng doanh số bán hàng của doanh nghiệp bằng không.sản xuất đình
8
trệ.hàng trăm ngà tấn sữa bị tiêu hủy.thiệt hai của doanh nghiệp lên tới hàng trăm tỷ
đồng.Sua khi có kết luận lại sữa của doanh nghiệp hanoimilk ko có melamine thì
người tiêu dùng vẫn xa lánh sản phẩm của hanoimilk.Đó là ví dụ điển hình về sức
mạnh của người tiêu dùng nếu các doanh nghiệp quên lãng.
2.Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế của sữa và các sản phẩm từ sữa là các sản phẩm có khả năng
thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng như sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa.
Ngày nay, các sản phẩm có khả năng thay thế này ngày càng phong phú và đa dạng
với chất lượng khá tốt mà giá cả lại tương đối rẻ hơn. Đó là thức uống thay thế sữa
và những thức uống trung gian như sữa đậu nành, các loại nước hoa quả, các thức
uống được chế biến từ các loại ngũ cốc ; hay các sản phẩm có thể cung cấp chất
dinh dưỡng cần thiết như sữa và các sản phẩm từ sữa mà giá cả lại tương đối rẻ và
dễ thay đổi khẩu vị như bánh mỳ, nước cam, đậu hạt, cá mòi
Trong tình hình hiện nay, khi ngành sữa vừa trải qua hàng loạt các vụ rắc rối về
chất lượng một số sản phẩm được chế biến từ sữa thì áp lực từ phía các sản phẩm
thay thế không hề nhỏ.
Về mặt chất lượng: chất lượng của sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa phải
cao vì chất lượng các sản phẩm thay thế là tương đương, thậm chí là có những sản

phẩm thay thế có thêm một số tác dụng chữa bệnh, hoặc giúp người sử dụng hấp thụ
các chất dinh dưỡng nhiều hơn.
Ví dụ: Hiện nay, hàng triệu người trên khắp thế giới mắc các bệnh liên quan
đến xương do cơ thể họ không dung nạp đường lactose có trong các sản phẩm sữa.
Tuy nhiên, họ có thể chống lại hiện tượng này khi sử dụng các sản phẩm thay thế
sữa, chứa nhiều lactose. Nhiều người cho rằng đường lactose chỉ có trong các sản
phẩm sữa nhưng thực tế chúng cũng được tìm thấy rất nhiều trong các thực phẩm
như: bánh mỳ, ngũ cốc, một số món tránh miệng và nhiều loại kẹo. Ngoài ra, có thể
bổ sung calcium từ nhiều loại thực phẩm bên cạnh sản phẩm sữa như: cải xanh, các
loại đậu hạt, rau diếp, cá ngừ, cá hồi, cá mòi, sữa đậu nành và nước cam.
9
Về giá cả: giá của sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa cần phải giảm bớt; đặc
biệt là hiện nay giá của sữa và các sản phẩm từ sữa là quá “ nóng”, quá cao. Một
hộp sữa có giá đến vài trăm nghìn thậm chí hàng triệu đồng. Mức giá đó là quá sức
đối với những gia đình có thu nhập trung bình, hoặc thấp nhưng vẫn phải mua như
các bà mẹ có con nhỏ hay một loại sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa dùng riêng
cho những người có bệnh như tiểu đường Từ đầu năm đến nay, giá sữa liên tục có
những đợt điều chỉnh tăng mạnh. Trong tháng 3, sữa bột của rất nhiều hãng đã đồng
loạt tăng trung bình từ 5-6%, chủ yếu là các sản phẩm nhập ngoại. Chỉ có một số ít
các hãng như Dutch Lady Việt Nam, France Bé Bé, và sản phẩm của Hanco Food
cố gắng giữ giá trong suốt 6 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, các hãng cho biết,
nguyên liệu đầu vào tăng, tỷ giá USD gần đây dao động mạnh, nếu giữ giá bán cũ
thì doanh thu không đảm bảo, nên bước sang tháng 7 họ phải áp dụng biểu giá mới
cho các dòng sản phẩm.Theo đó, sữa bột nhãn hiệu Cô gái Hà Lan sẽ tăng 5-7 %,
khiến mỗi lon "phình to" ra từ 20.000-30.000 đồng. Giá sữa tươi loại nhỏ nhất là
100 gram cũng nhỉnh lên 500 đồng mỗi hộp.Ngoài ra, sữa đặc Hoàn Hảo, sữa bột
Friso của Dutch Lady bán tại siêu thị Hapro giá cũng tăng trung bình 6%. Sữa bột
Friso loại 900 gram cho trẻ trên 3 tuổi có giá bán mới là 171.000 đồng, giá cũ
155.000 đồng.Một số nhãn hiệu khác đã tăng giá theo cách giảm trọng lượng,
nhưng giữ nguyên giá bán. Chẳng hạn, sữa đặc có đường sản xuất trong nước của

Vinamilk gói lớn 250 gram, cũng bị "ngót" lại còn 220 gram. Dòng ngoại nhập như
sữa Similac Mom hộp sắt 400 gram của hãng Abbott nay còn 300 gram, Dumex hộp
900 gram còn 800 gram nhưng giá bán không thay đổi. Thực chất đây là một
chiêu thức tăng giá mới mà người tiêu dùng phải tinh mắt mới phát hiện ra. Mức giá
quá cao, chất lượng chưa đảm bảo khiến người tiêu dùng e dè, lo sợ khiền thị phần
của ngành sữa thời gian qua giảm đi.
Trong khi đó, giá cả các sản phẩm thay thế sữa lại tương đối thấp. Một hộp sữa
đậu nành không đường không cholesterol giá 13.000/ hộp.Các loại hộp giấy 200ml
có giá 3000/ hộp; bịch finô 220ml có giá 2500/bịch hay các sản phẩm tự nhiên như
thịt, cá, các loại đậu hạt rất dễ tìm kiếm, chế biến mà giá cả lại thấp rất thuận
tiện cho người tiêu dùng. Một số bà mẹ chuyển cho gia đình nình sang sử dụng song
10
song nhiều loại sản phẩm vừa dùng sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa vừa sử
dụng các sản phẩm thay thế để tiết kiêm chi phí mà cả gia đình vẫn được cung cấp
đầy đủ dưỡng chất khiến thị phần các sản phẩm thay thế ngày càng tăng; xuất hiện
nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường như các hãng sản xuất sữa đậu nành
Vinasoy, V.Fresh
Như vậy, áp lực từ sản phẩm thay thế của ngành sữa là mạnh. Đặc biệt là trong
thời gian qua, Bộ y tế và cục vệ sinh an toàn thực phẩm đã xét nghiệm và kết luận
hàng loạt nhãn hàng sữa nhiễm melamine khiến người tiêu dùng lo sợ và chuyển
sang dùng các sản phẩm thay thế. Ví dụ: Sau khi các phương tiện thông tin đại
chúng đưa tin về các loại sữa nhiễm melamine, chị Trần Trúc Quỳnh (đường Hồng
Hà, Hoàn Kiếm, Hà Nội) đã cho cả gia đình chuyển hẳn sang dùng sữa đậu nành:
Gia đình tôi sử dụng sữa tươi khá thường xuyên, mỗi tuần khoảng 4 - 5 lít, nhưng từ
khi có thông tin về sữa nhiễm melamine thì tôi dừng hẳn, chuyển sang chế biến đậu
nành thành sữa thay thế. Tại một cửa hàng bán đậu phụ và các sản phẩn từ đậu nành
trên phố Dương Quảng Hàm (Cầu Giấy, Hà Nội), chị Hương - chủ cửa hàng - cho
biết: Thời gian gần đây lượng khách tăng khá mạnh, phần lớn là hỏi mua sữa đậu
nành. Có người còn cầu kỳ đặt hàng loại sữa đậu nguyên chất, đặc sánh để thay thế
sữa tươi. Áp lực lớn đặt ra yêu cầu bức thiết đối với ngành sữa Việt Nam khi đứng

trước nguy cơ bị thay thế, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng khiến giá thành sản
phẩm sản xuất ra tăng là phải tìm ra con đường cho sự phát triển của ngành.
3.Áp lực cạnh tranh từ nhà cung cấp
Hiện quy mô nhà cung cấp sữa ở trong nước hiện nay còn nhỏ lẻ và chỉ đáp ứng
được 20% nguyên liệu đầu vào cho ngành sữa. Hiện quy mô đàn bò sữa , bình quân
cả nước 5,3 con/hộ, nên hiệu quả chăn nuôi bò sữa ở nhiều nơi thấp. Chăn nuôi bò
sữa chủ yếu được thực hiện dưới hình thức hộ gia đình, chiếm 93% tổng đàn bò sữa
cả nước. Hiện tại, Việt Nam có trình độ chăn nuôi bò sữa thấp. Ngoại trừ một số
vùng còn lại đại đa số nông dân chưa có tập quán chăn nuôi, thiếu kiến thức về chọn
giống, chăm sóc nuôi dưỡng, khai thác sữa, thú y Chăn nuôi bò sữa trong điều
kiện khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm, người chăn nuôi gặp nhiều rủi ro do thiếu kiến
11
thức nuôi bò sữa.Trong khi đó kênh tiêu thụ sữa bò kém,các nhà máy chế biến sửa
thường ở xa nơi cung cấp nguyên liệu.Do khoảng cách xa với các nhà máy sữa nên
chí phí vận chuyển và bảo quản tương đối cao, chi phí vận chuyển trung bình từ trại
chăn nuôi đến nhà máy và bảo quản lạnh hết 300đ/lít.
Như vậy quy mô nhà cung cấp thì nhỏ lẻ ,nguồn sữa bò cung cấp thì không ổn định
do còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết.Điều này ảnh hưởng rât nhiều đến việc gây sức
ép đối với doanh nghiệp chế biến sữa.Doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào
không gây được sức ép đối với doanh nghiệp chế biến sữa,mà phải chịu sức ép từ
doanh nghiệp chế biến sữa. Lượng sữa của các cơ sở thu gom sữa bò chủ yếu bán
cho nhà máy chế biến sữa, chiếm tỷ trọng 97%. Trong đó, 2 nhà máy chế biến sữa
là Vinamilk (49%) và Dutch Lady (20%) đang gần như độc quyền thị trường. Do
đó, giá thu mua sữa chủ yếu do 2 công ty trên quyết định. Hiện nay, mức giá thu
mua sữa của các nhà máy sữa vẫn đang rất thấp. Thời gian qua, trong khi chi phí
thức ăn chăn nuôi tăng (5% năm 2005, và tăng 6,3% trong 6 tháng đầu năm), nhưng
giá thu mua sữa lại gần như không thay đổi.
Trong những năm gân đây,thu nhập và mức sống của người dân đã được nâng cao
và cải thiện rõ rệt. Nếu trước đây thành ngữ “ăn no mặc ấm” là ước mơ của nhiều
người thì hôm nay, khi đất nước đã gia nhập WTO lại là “ăn ngon mặc đẹp”. hiện

nay thị trường sữa Việt Nam đã có gần 20 hãng nội địa và rất nhiều doanh nghiệp
phân phối sữa chia nhau một thị trường tiềm năng với 80 triệu dân. Lượng tiêu thụ
sữa Việt Nam liên tục tăng mạnh với mức từ 15-20% năm, theo dự báo đến năm
2010 mức tiêu thụ sữa tại thị trường sẽ tăng gấp đôi và tiếp tục tăng gấp đôi vào
năm 2020.
Trong khi đó ta phải nhập khẩu đến 80% nguồn nguyên liệu nhập ngoại từ các nước
Úc, Newziland, Mỹ, Ấn Độ… và nguồn này hoàn toàn là sữa bột nguyên liệu. Phải
nói thêm một trong những lý do khiến các dự án bò sữa đi vào ngõ cụt là giá thu
mua sữa của các nhà máy tại Việt Nam luôn thấp hơn giá thị trường của thế giới,
khi các dự án đã thất bại, giá thu mua nguyên liệu lại nhảy vọt lên gấp 2 lần trong
thời gian ngắn² chưa kể việc giá sữa nguyên liệu trên thị trường thế giới liên tục
tăng cao trong 2 tháng vừa qua.Do ta nhập chủ yếu là nguyên liệu ngoại nên các
12
doanh nghiệp chế biến sữa trong nước có nhiều sự chọn lựa nhà cung cấp cho
mình,nguồn thông tin về các doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào trên thị
trường thế giới luôn sẵn có và dễ tìm.Nên việc chuyển đổi nhà cung cấp sẽ trở nên
dễ dàng hơn,các doanh nghiệp sẽ tìm những nhà cung cấp nguyên liệu với giá rẻ và
đảm bảo chất lượng.Dù vậy với việc giá nguyên liệu trên thị trường thế giới liên tục
tăng cao thì việc nhập nguyên liệu ngoại vẫn khiến sản xuất sữa trở nên khó khăn và
giá bán sữa trên thị trường trong nước tăng lên. Rõ ràng việc đầu tư phát triển ngành
cung cấp nguyên liệu đầu vào trong nước sẽ làm giảm đi sự phụ thuộc của doanh
nghiệp chế biến sữa trong nước với thị trường thế giới.Nó cũng làm tăng được sức
mạnh của doanh cung cấp nguyên liệu trong nước,cải thiện giá nguyên liệu đầu
vào,tăng giá thu mua sữa bò sẽ kích thích quy mô chăn nuôi bò sữa.
4.Áp lực cạnh tranh nội bộ nghành
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức
ép trở lại lên ngành tạo nên
một cường độ cạnh tranh. Trong một ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh
tranh trên các đối thủ
 TÌNH TRẠNG NGHÀNH

*Nhu cầu và tốc độ tăng trưởng:
Sau những năm đổi mới, đời sống của nhân dân được cải thiện, sức tiêu thụ các sản phẩm
sữa tăng nhanh. Năm 1990 lượng sữa tiêu thụ bình quân/người/năm chỉ đạt 0,47 kg, năm
1995 đã tăng lên đến 2,05 kg, năm 1998 trên 5 kg, năm 2000 là 6,5 kg và năm 2001 ước là
7,0 kg.
13
1,000 MT
Theo FAPRI, mức tiêu thụ của VN tăng rất nhanh, đặc biệt là sữa lỏng. Mức
tiêu thụ
sữa lỏng đạt 124,1 nghìn tấn, tốc độ tăng trưởng 8%/năm trong giai đoạn
1997 – 2007


Mức tiêu thụ một số sản phẩm sữa ở Việt Nam từ 1997 - 2007
So với năm 1990 thì năm 2001 sức tiêu thụ sữa của nước ta đã tăng gấp 14,8 lần,
tổng lượng sữa tiêu thụ được quy ra sữa tươi tương đương 460.000 tấn. Mức tiêu thụ sữa
tăng nhanh chủ yếu là ở các thành phố, đô thị, các khu công nghiệp và khu du lịch, trong
khi đó sản lượng sữa sản xuất hàng năm của ta mới đáp ứng được 10 - 11% nhu cầu tiêu
thụ sữa trong nước Theo Trung tâm nghiên cứu NN quốc tế Australia (ACIAR),con số này
thấp hơn 6 lần vào thập niên 1990-2001 (1,31kg/người năm 2001) (Quirke et al., 2003)
• Mục tiêu của kế hoạch tổng thể (Quyết định số.
22/2005/QD-BCN ): phấn đấu đạt mức tiêu thụ sữa 10kg/người (2010) & 20 kg
(2020)
Như vậy ,các doanh nghiệp trong cùng ngành cũng đang gây sức ép với
nhau.Doanh nghiệp cạnh tranh nhau để dành giật thị trường,bằng cách đưa ra những
14
chiến dịch cho sản phẩm sữa của mình:quảng cáo,khuyến mại,chính sách ưu đãi
dành cho nhà phân phối…
CẤU TRÚC NGHÀNH (nghành phân tán): có rất nhiều doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các

doanh nghiệp còn lại
Các rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành của doanh
nghiệp trở nên khó khăn :
* Rào cản về công nghệ, vốn đầu tư:Doanh nghiệp khi tham gia ngành sữa đều
phải đầu tư cơ sở hạ tầng bao gồm máy móc,nhà xưởng,dây chuyền sản xuất…nó
đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn nên việc rut lui khỏi ngành là khó khăn.
* Ràng buộc với người lao động :Đội ngũ lao đông khi tham gia vào sản xuất
của doanh nghiệp,họ đều ký kêt với doanh nghiệp hợp đồng lao động.Nếu doanh
nghiệp phá hợp đồng sẽ phải chịu gánh nặng bồi thường lớn.
* Ràng buộc với chính phủ, các tổ chức liên quan (Stakeholder) :Doanh nghiệp
muốn hoạt động được ,họ phải đăng kí giấy phép kinh doanh,rùi bản quyền sản
phẩm,Họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi của mình,cũng như
phải tuân theo những quy định mà tổ chức mình tham gia.DN muồn rút lui cũng
không phải là dễ dàng.
* Các ràng buộc chiến lược, kế hoạch.thì rào cản rút lui là không lớn.
Trong tình hình hiện nay, khi mà chất melamine đang "thống trị" tàn phá toàn
cầu thì sự cạnh tranh trong ngành khắc nghiệt. Những công ty có vài sản phẩm có
chứa chất melamine thường bị tẩy chay kể cả những sản phẩm sạch và những
công ty sữa sạch khác cũng bị tẩy chay (do sự cảnh giác quá cao độ của người dân
việt nam). Tuy nhiên, có thể nói trong cái nguy có cái cơ (cơ hội) đứng lên thống
lĩnh thị trường của công ty sữa sạch.
15
5.Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn của ngành sữa là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong
ngành nhưng trong tương lai có thể tham gia vào ngành. Khi các doanh nghiệp này
xuất hiện, sẽ dẫn tới tình trạng giành giật thị phần và khách hàng của các doanh
nghiệp khác đang hoạt động trong ngành. Trong những năm gần đây, ngành sữa là
ngành kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Giá sữa trên thị trường Việt Nam được
một tổ chức chuyên ngành đánh giá là cao nhất nhì thế giới, và lợi nhuận của công
ty kinh doanh sữa thì có thể lên tới 86%.Theo nghiên cứu của Dự án bò sữa Việt-

Bỉ, một dự án do Bỉ tài trợ về phát triển ngành sữa Việt Nam, giá sữa bán lẻ tại Việt
Nam là 1,4 đô la Mỹ/lít, ngang bằng với giá tại những nước phát triển như Mỹ,
Canada, Hàn Quốc, là mức giá cao nhất thế giới. Trong khi giá sữa bán lẻ tại Việt
Nam thuộc loại cao nhất thế giới thì mức lợi nhuận của các doanh nghiệp sữa cũng
ở mức cao nhất nhì thế giới. Cụ thể, lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh sữa
bột 22-86%. Đối với sữa nước, mức lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng lên tới
48%
Theo mức giá trên thị trường hiện nay mà một công ty sản xuất sữa vừa
mua hàng vào đầu tháng 2/2009, giá sữa nguyên liệu đạt chuẩn (về hàm lượng đạm,
béo, đường và một số vitamin khoáng chất thuộc thành phần tự nhiên của sữa) nhập
từ các nhà cung cấp cho các tập đoàn toàn cầu vào khoảng 60.000 đồng/kg (đã có
thuế). Tính trên giá thành, mỗi kg sữa có bổ sung tối đa các thành phần theo công
thức tốt nhất mà các hãng sữa nêu, sẽ vào khoảng 70.000 đồng/kg. Thậm chí, nếu
có bổ sung DHA lên gấp 4 lần, giá chỉ có thể tăng thêm khoảng 4.000 đồng mỗi kg
sữa bột. Nếu cộng thêm bao bì khoảng 7.000 - 8.000 đồng/lon thiếc, các khoản thuế
và chi phí khác cho kinh doanh thì bán trên 100.000 đồng/kg là các công ty đã có
lãi.Vậy mà người tiêu dùng đang phải trả từ 300.000 đồng/kg trở lên cho các loại
sữa được coi là cao cấp. Với tỉ lệ lợi nhuận bình quân của ngành cao như vậy,
ngành sữa là ngành có sức hấp dẫn cao, thu hút nhiều doanh nghiệp.Tuy sức hút
ngành sữa lớn song rào cản gia nhập ngành không hề nhỏ với bốn nhóm rào cản
chính:
Rào cản về thương mại:
16
+Về thương hiệu: hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều thương hiệu nổi tiếng,
đã tạo được lòng tin nơi khách hàng như Dutch Lady, Elovi Việt Nam, Abbott,
Vinamilk, sữa Ba Vì, Hà Nội milk các nhãn hiệu sữa trên đều có những thế mạnh
riêng sản phẩm độc đáo phân biệt với các sản phẩm khác đã được xây dựng bằng
những chiến lược định vị thương hiệu riêng của từng doanh nghiệp. Việc xây dựng
một thương hiệu là không hề dễ dàng do cần nhiều thời gian và công sức, bởi vậy
đây là môt rào cản lớn đối với các doanh ngiệp muốn gia nhập ngành sữa.

+ Về hệ thống phân phối: Hệ thống phân phối có thể gọi là mạch máu,
thông qua đó để hàng hóa đi từ nhà sản xuất dịch vụ tới người tiêu dùng cuối cùng.
Cần đảm bảo chi phí lưu thông từ nhà sản xuất kinh doanh đến người tiêu dùng cuối
cùng thấp nhất, thông qua cơ chế cạnh tranh. Hiểu rõ thế mạnh của một hệ thồng
phân phối rộng khắp, các doanh nghiệp hiện đang hoạt động trong ngành đều có
một hệ thống phân phối mạnh.
+ Về thị phần: thị trường tiêu thụ sữa tuy lớn song hiện nay có một số
doanh nghiệp sữa đang chiếm phần lớn thị phần thị trường sữa như với các nhà sản
xuất sữa bột trong nước thì Vinamilk dẫn đầu và chiếm 13,8% thị phần sữa bột cả
nước, kế tới là Dutch Lady, một liên doanh với Hà Lan có nhà máy ở Bình Dương
chiếm 11,3% thị phần, Nutifood, một công ty 100% vốn trong nước chiếm 5% thị
phần và Nestle, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có nhà máy ở Đồng Nai chiếm
4,4% thị phân.
+ Về sự chung thủy của khách hàng: Người Việt Nam có thói quen tiêu
dùng sản phẩm của các thương hiệu có uy tín. Đây cũng là một rào cản lớn cho các
doanh nghiệp muốn gia nhập ngành sữa đặc biệt là sau đợt khủng hoảng sữa nhiễm
melamine khiến thị trường sữa trong nước rơi vào “khủng hoảng” là đòn đánh nặng
đối với các hãng sữa nhỏ mới vào thị trường, nhưng mặt khác lại là cơ hội vàng cho
các thương hiệu sữa xịn mở rộng hơn nữa thị phần. Bởi người tiêu dùng đang bị mất
lòng tin với các thương hiệu sữa ít tên tuổi và có xu hướng chuyển sang dùng các
loại sữa đã được chứng nhận an toàn.
17
Rào cản về phương tiện kĩ thuật: vừa qua, vụ sữa nhiễm melamine đã khiến
nhiều doanh nghiệp điêu đứng, bởi vậy các doanh nghiệp muốn gia nhập ngành sữa
cần phải có một hệ thống phương tiện kĩ thuật hiện đại từ khâu xử lí nguyên liệu
đầu vào đến dây chuyền sản xuất và hệ thống lưu kho bảo quản sản phẩm để đảm
bảo chất lượng sản phẩm. Ta có thể lấy ví dụ điển hình là Hanoimilk trở thành
công ty sữa đầu tiên tại Việt Nam trang bị máy kiểm nghiệm Melamine, các độc tố
khác trong sữa và thực phẩm dinh dưỡng. Ngoài ra công ty còn đầu tư một dây
chuyên sản xuất thử nghiệm (Pilot) dùng để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm

về sữa, nước trái cây tiệt trùng, thực phẩm dinh dưỡng với công suất 50lít/ giờ.
Rào cản về tài chính: như đã đề cập ở trên, các doanh nghiệp muốn gia nhập
ngành sữa cần phải có tiềm lực tài chính lớn để đáp ứng các yêu cầu trên.
Rào cản về nguồn lực quí hiếm: các doanh nghiệp sữa đã có thương hiệu
hiện nay đều có một đội ngũ các chuyên gia dinh dưỡng hàng đầu, luôn tìm và nhập
các nguyên liệu đầu vào tốt nhất có thể, và đội ngũ các nhà khoa học luôn tìm tòi,
nghiên cứu và phát triển nhằm tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của mình. Rào
cản này khá lớn với các doanh nghiệp muốn gia nhập ngành vì rất là khó để có ngay
một đội ngũ các chuyên gia và nhà khoa học hàng đầu như vậy.Như vậy, ta có thể
thấy tuy ngành sữa là ngành có sức hấp dẫn lớn do có lợi nhuận cao, song các rào
cản gia nhập ngành là không hề nhỏ bởi vậy áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn
của ngành sữa là nhỏ. Bởi vì trong giai đoạn hiện nay rất khó để các doanh nghiệp
muốn gia nhập ngành có thể vượt qua tất cả các rào cản trên.
6.Các áp lực từ Chính Phủ tới ngành sữa
Trong điều kiện hiên nay ( sau khi chính thức trở thành thành viên của WTO ),
thì chúng ta chịu tác động rất lớn của nền kinh tế thế giới thì nếu Chính Phủ
không áp dụng những giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô thì sự đổ vỡ, thiệt hại của
các doanh nghiệp trong cả nước nói chung và các doanh nghiệp sữa nói riêng sẽ
là rất lớn vì vậy Chính Phủ cần phải kêu gọi các thành phần KT, các doanh
nghiệp cùng chia sẻ nhằm tìm biện pháp kiểm soát, ổn định KT vĩ mô trong tình
trạng hiện nay.
18
Các chính sách kìm nén giá cả của Chính Phủ đến một lúc nào đó sẽ làm giá cả
bung ra không kiểm soát được, do đó nó sẽ tạo ra rủi ro cho các ngành, các
doanh nghiệp, trong đó có các ngành và các doanh nghiệp sản xuất sữa, vì vậy
các doanh nghiệp nên tự rút ra cho mình các bài học, phân tích tác dụng của các
loại giá cả đối với nhau, Chính Phủ trên cơ sở đó sẽ đưa các giải pháp vừa phải.
Luật chất lượng sản phẩm được Chính Phủ bàn hành và có hiệu lực thực thi từ
ngày 1-7-2008, theo luật thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một vấn để hết
sức cấp bách và thiết thực, vì vậy mọi tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh sản

phẩm đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tuân thủ một cách nghiêm túc các
điều trong luật, và đặc biệt đối với ngành sữa, một loại sản phẩm liên quan trực
tiếp đến sức khỏe của người tiêu dùng thì việc tuân thủ các điều luật phải hết sức
nghiêm chỉnh, do đó áp lực sản xuất sản phẩm đảm bảo chất lượng là không nhỏ,
các doanh nghiệp phải tập trung vào vấn đề này nhiều hơn để tránh lặp lại tình
trạng sữa kém chất lượng vừa xảy ra trong thời gian gần đây gây tổn thất lớn tới
uy tín của các doanh nghiệp sữa trong và ngoài nước, đây là áp lực đáng kể cho
các doanh ngiệp sản xuất sữa của nước ta.
Ngoài ra các áp lực do nền KT của đất nước còn kém phát triển, đó là ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới tới các tổ chức sản xuất
trong nước, Chính Phủ cũng đã đưa ra các biện pháp để nhằm ổn định nền kinh
tế, song do ngân sách và khả năng có hạn nên các biện pháp của Chính Phủ chỉ
mang tính đối phó, mang nặng sự quan tâm tới chương trình cứu trợ thị trường
tài chính và kích cầu riêng, vì vậy các doanh nghiệp sản xuất ( bao gồm cả các
DN sản xuất sữa ) sẽ bị chịu ảnh hưởng , những thiệt thòi và phải tự lực mình
khắc phục khó khăn để có thể phát triển được sản phẩm của mình.
19
III.Chiến lược phát triển ngành sữa
1.chiến lược nhành sữa
Hiện nay, những hạn chế chủ yếu của ngành sữa Việt Nam là: Thiếu kinh
nghiệm quản lý, quy mô trang trại nhỏ, tỷ lệ rối loạn sinh sản và mắc bệnh của bò
sữa còn ở mức cao, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi không ổn định (đặc biệt là
ngô từ 2.280 đồng/kg năm 2003, nay đã tăng lên 4.700 đồng/kg). Ngoài ra, chi phí
đầu vào của người chăn nuôi cao nhưng các công ty chế biến trả giá mua thấp; hệ
thống thu mua sữa yếu kém, thiếu thiết bị bảo quản và làm lạnh; chính sách và cơ
chế cho ngành sữa không thống nhất.Vậy ngành sữa cần phải có chiến lược đẻ
phát triển ngành sưa:
Các doanh nghiệp thực hiện đăng ký nhãn hiệu, mẫu mã và chất lượng sản
phẩm theo quy định. Tăng cường tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc
sử dụng sữa trong việc nâng cao sức khỏe, tăng cường thể chất. Duy trì và cải tạo

giống nòi. Thực hiện các chương trình về sữa học đường. Phối hợp với Bộ Thương
mại và các tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài giúp cung cấp thông tin,
xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm sữa.
Đầu tư mở rộng sản xuất đối với các nhà máy hiện có và đầu tư xây dựng các
nhà máy mới. Đầu tư nhà máy sản xuất bao bì phục vụ cho ngành Sữa để có thể tự
chủ về mẫu mã, đáp ứng việc thay đổi mặt hàng nhanh, giảm nhập ngoại những
công đoạn mà Việt Nam tự sản xuất được.
Tại các khu vực chăn nuôi bò sữa tập trung như miền Đông Nam bộ, đồng
bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam Trung bộ, tập trung đầu tư một số cơ sở sản
xuất có quy mô lớn để tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ. Tổ chức các nhà máy
chế biến quy mô nhỏ, công suất 4-5 triệu lít/năm tại những vùng có quy mô đàn bò
sữa nhỏ phân tán ở các tỉnh Trung du miền núi và một số tỉnh miền Tây Nam bộ.
Khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu sản phẩm mới, áp dụng công nghệ
mới, đặc biệt nghiên cứu sử dụng nguyên liệu trong nước thay thế nhập khẩu. Tăng
cường hoạt động của các cơ quan nghiên cứu khoa học xây dựng mối liên kết bền
vững giữa nghiên cứu và ứng dụng khoa học trong sản xuất kinh doanh. Tiếp tục
20
đầu tư, nâng cấp các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo để nâng cao chất lượng
nghiên cứu từ giống, kỹ thuật chăn nuôi, thú y, thức ăn và chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật cho người chăn nuôi.
Xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà
nước và Nhà khoa học trên cơ sở bảo đảm lợi ích và trách nhiệm của các chủ thể
thông qua hợp đồng kinh tế dài hạn.Rà soát quỹ đất hiện có, dành một phần đất phù
hợp để hướng dẫn nông dân phát triển đồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò sữa.Tạo quỹ
hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu bằng việc trích tỷ lệ 2-5% trên giá trị nguyên liệu
nhập khẩu để sản xuất sữa vào chi phí sản xuất .
Xây dựng chương trình và kế hoạch đồng bộ mang tầm chiến lược trong việc
đào tạo đội ngũ cán bộ và thợ lành nghề. Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho các
cơ sở đào tạo nhân lực tại chỗ. Kết hợp các khoa đào tạo chuyên ngành tại các
trường đại học trong nước, có chính sách tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp

đúng chuyên ngành về làm việc cho ngành; cử người đi đào tạo tại những nước
có truyền thống về sản xuất sữa.
Nguồn vốn ngân sách tập trung đầu tư vào xây dựng các trung tâm giống, các
trung tâm nghiên cứu sản xuất tinh, các viện nghiên cứu và đào tạo đội ngũ gieo
tinh viên, các trường để đạo tạo nguồn nhân lực cho ngành sữa.Nguồn vốn của các
doanh nghiệp tập trung vào việc đầu tư phát triển năng lực chế biến, ứng vốn hỗ trợ
một phần vốn cho người chăn nuôi, đầu tư xây dựng các trạm thu mua sữa tại các
khu vực, xây dựng đội ngũ cán bộ phát triển nguồn nguyên liệu.Huy động tối đa
mọi nguồn vốn trong xã hội như vốn tín dụng, vốn thuộc các chương trình của nhà
nước, huy động từ việc bán trái phiếu, cổ phiếu, vốn FDI, ODA cho việc đầu tư các
dự án chế biến sữa cũng như các dự án đầu tư phát triển vùng nguyên liệu.
2. chìa khóa thành công cho ngành sữa
Thang điểm :
1-Áp lực khách hàng :8 đ
2-Áp lực sản phẩm thay thế :6 đ
3-Áp lực nhà cung cấp :7 đ
21
4-Áp lực đối thủ tiềm ẩn :3 đ
5-Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành :9 đ
Vậy chìa khóa thành công ngành sữa trong thời gian tới:
-Giá:Cần hạ giá thành sản phẩm sũa,sẽ nhằm kích cầu cho thị trường sữa.
-Chất lượng sữa:Doanh nghiệp sữa cần đầu tư trang thiết bị và dây chuyền
sản xuất.
-Độc đáo sản phẩm:Cần đội ngũ chuyên gia dinh dưỡngcó trình độ chuyên
môn cao.
-Thương hiệu của doanh nghiệp
22
C.Kết luận
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ
nhanh trên mọi ngành và lĩnh vực. Ngành sữa Việt Nam cũng là một trong những

ngành phát triển mạnh với mức lợi nhuận cao thu hút nhiều nhà đầu tư. Sản xuất
sữa là một ngành quan trọng nằm trong chính sách tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp
của chính phủ Việt Nam. Chiến lược phát triển ngành sữa không chỉ đáp ứng nhu
cầu sữa của người dân mà còn nhằm tạo ra việc làm mới nhằm cải thiện điều kiện
sống và thu nhập cho người chăn nuôi ở nông thôn.
Tuy vậy ngành sữa cũng gặp nhiều áp lực từ cả môi trường vĩ mô và môi
trường ngành. Áp lực từ cả hai môi trường này là vô cùng lớn, khiến các doanh
nghiệp đang hoạt động trong ngành sữa gặp nhiều khó khăn .Điển hình là trong thời
gian vừa qua, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành sữa đã điêu đứng trước
“cơn bão” melamine như HaNoiMilk hay vụ sữa nghèo đạm. Giá cả sữa và các sản
phẩm từ sữa thì quá cao trong khi chất lượng thì lại không được đảm bảo khiến
người tiêu dùng e ngại, mất lòng tin.
Thông qua việc phân tích ngành sữa bằng mô hình năm áp lực canh tranh, ta
có thể thấy rõ những áp lực mà ngành sữa gặp phải. Từ đó rút ra được chìa khóa
thành công của ngành sữa Việt Nam là: giá cả, chất lượng thương hiệu và sự độc
đáo của sản phẩm. Trước tình hình thị trường sữa đầy biến động như năm vừa qua,
30/10), tại Hà Nội diễn ra hội thảo: “Chiến lược phát triển ngành sữa Việt Nam” do
Ngành sữa Việt Nam kết hợp với Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và PTNT) và Dự
án bò sữa Việt-Bỉ tổ chức. Hội thảo đã đạt được nhiều kết quả đáng kể trong việc
xác định phương hướng và chiến lược phát triển ngành sữa Việt Nam như Theo
kiến nghị của Cục Chăn nuôi, trong thời gian tới cần thành lập Uỷ ban sữa quốc gia
để thống nhất quản lý sản xuất sữa trong nước. Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện hệ
thống thu mua sữa, làm lạnh và bảo quản nhằm thu được sữa có chất lượng và giá
thành cao hơn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đưa ra mục tiêu phát
triển ngành sữa đến năm 2020 sẽ đạt mức tiêu thụ sữa trên đầu người là 12
23
kg/người, 2015: 16 kg/người, 2020: >20kg/ng. Sản xuất sữa đáp ứng tiêu dùng
trong nước năm 2010: khoảng 30%, năm 2015: 34% và 2020: 38%.
Tựu chung lại, áp lực lên ngành sữa Việt Nam trong tình hình hiện nay là vô
cùng lớn. Để ngành sữa Việt Nam phát triển vững mạnh cần thực hiện triệt để các

hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển của ngành như
đã nói ở trên.
24

×