Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Luận văn thực trạng và giải pháp cho vấn đề bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 137 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH





TRẦN THỊ MƠ TRẦN THỊ MƠ








Chuyên ngành : Tài chính doanh nghiệp Chuyên ngành : Tài chính doanh nghiệp
Mã số : 60. 31. 12 Mã số : 60. 31. 12


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN TS. NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN



TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2009 TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2009



Lôøi caûm ôn

Tôi xi
n bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi thực hiện tốt luận văn này cũng như hoàn
thiện kiến thức chuyên môn của mình.
Tôi xin trân trọng cám ơn đến các Thầy Cô các khoa tài chính Trường
Ðại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý
báu trong thời gian tôi học tập tại trường.
Tôi xin trân trọng cám ơn Khoa tài chính doanh nghiệp, Phòng quản lý
đào tạo sau đại học – Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện gi
úp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả

TRẦN THỊ MƠ







DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TTCK : Thị trường chứng khoán

UBCK : Uỷ ban chứng khoán
TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
CTCK : Công ty chứng khoán
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán nhà nước
CBTT : Công bố thông tin
TTTC : Thị trường tài chính
BCXTT : Bất cân xứng thông tin
CTNY : Công ty niêm yết
TP. HCM : Thành Phố Hồ Chí Minh
NĐT : Nhà đầu tư
TTCK VN: Thị trường chứng khoán Việt Nam
CK : Chứng khoán
CP : Cổ phiếu
TP : Trái phiếu
TK : Tài khoản
DN : Doanh nghiệp
CTCP : Công ty cổ phần
VN-Index : Chỉ số trung bình giá chứng khoán trên thị trường Việt Nam.

IPO : Initial Public Offering – Việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công
chúng.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các phân tích, số liệu và kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả


TRẦN THỊ MƠ









































MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6. Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN VÀ BẤT CÂN XỨNG
THÔNG TIN
1.1 Thông tin
1.1.1 Thông tin là gì?
1.1.2 Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán
1.2. Thị trường chứng khoán
1.2.
1. Khái niệm về thị trường chứng khoán
1.2.2. Thành phần tham gia thị trường chứng khoán
1.3. Bất cân xứng thông tin

1.3.1. Bất cân xứng thông tin là gì?
1.3.2. Các dạng của bất cân xứng thông tin trong thị trường tài chính
1.3.2.1. Sự lựa chọn trái ngược
1.3.2.2 Tâm lý ỷ lại
1.3.2.3 Chi phí giám sát
1.3.3. Tác động của bất cân xứng thông tin đối với các chủ thể tham gia thị
trường
1.3.
3.1 Tác động của bất cân xứng thông tin đối với nhà đầu tư
1.3.3.2 Tác động của bất cân xứng thông tin đối với các doanh nghiệp
1.3.3.3 Tác động của bất cân xứng thông tin đối với thị trường
1.3.4 Các nguyên nhân gây ra bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng
khoán
1.3.5. Những giải pháp lý thuyết để hạn chế vần đề bất cân xứng thông tin
1.3.5.1 Giảm thiểu sự lựa chọn bất lợi
1.3.
5.2 Kiểm soát tâm lý ỷ lại
1.4. Kinh nghiệm hạn chế bất cân xứng thông tin của các nước trên thế giới
1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.4.2. Kinh nghiệm của Mỹ
1.4.3. Kinh nghiệm của Pháp
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1
1
2
2
3
3
3


4
4
4
4
5
5
6
7
7
7
8
9
9

10
10
10
11

12
14
14
16
18
18
19
19
21
Kết luận chương 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRÊN THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt nam
2.1.1.1 Giai đoạn từ 20/07/200 đến tháng 06/2001
2.1.1.2 Giai đoạn từ tháng 07/2001 đến tháng 12/2004
2.1.1.3 Giai đoạn từ tháng 01/2005 đến tháng 09/2007
2.1.1.4 Giai đoạn từ tháng 10/2007 đến nay
2.1.2 Thị trường c
hứng khoán Việt Nam hàm chứa nhiều rủi ro
2.1.3 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thị trường chứng khoán Việt
Nam
2.1.4 Đánh giá tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.4.1 Trong Thị trường chứng khoán Việt Nam có hiện tượng “tâm lý
bầy đàn” hay không?
2.1.4.2 Kiểm định về tính độc lập của tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu
2.1.5 Nhìn nhận những vấn đề còn tồn tại
2.2. Bất cân xứng thông tin trên thị trường c
hứng khoán Việt Nam
2.2.1 Tính minh bạch thông tin
2.2.1.1 Sự lựa chọn bất lợi
2.2.1.2 Rủi ro đạo đức
2.2.2 Cơ sở hạ tầng thông tin
2.2.3 Khả năng tiếp nhận thông tin
2.3. Các biện pháp khắc phục bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng
khoán đã thực hiện trong thời gian qua
2.3.1 Giai đoạn trước khi luật chứng khoá
n ra đời
2.3.1.1 Nghị định 144/2004/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng
khoán
2.3.1.2 Nghị định 161/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
2.3.1.3 Quyết định số 79/2000/QĐ- UBCK về việc ban hành quy chế
thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán
2.3.1.4 Thông tư 57/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 hướng dẫn về việc
công bố thông tin trên thị trường c
hứng khoán
2.3.2 Giai đoạn từ sau khi Luật chứng khoán ra đời vào ngày 29/06/2006
Kết luận chương 2
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG
BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
22

23
23
23
24
24
25
26
30

35
36

36
44
48
50
50

50
59
62
66

69
70

70

70

70

70
71
72


73
3.1 Chiến lược phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán của Việt
Nam đến năm 2020
3.2 Những quan điểm chiến lược về thông tin trên thị trường chứng khoán Việt
Nam
3.3 Những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
3.3.1 Giải pháp nhằm làm minh bạch thông tin
3.3.1.1 Hoàn thiện khung pháp lý
3.3.1.2 Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm
3.3.

1.3 Cải thiện hệ thống kế toán, kiểm toán
3.3.1.4 Các công ty niêm yết
3.3.1.5 Các công ty chứng khoán
3.3.1.6 Đối với trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giai dịch chứng
khoán nói chung
3.3.2 Giải pháp về cơ sở hạ tầng thông tin
3.3.2.1 Hướng tới việc xây dựng và phát triển một hệ thống thông tin số
hóa sử dụng XML
3.3.2.2 Nâng cấp và phát triển hệ thống công nghệ thông tin trong hệ
thống giao dịch
3.3.
2.3 Nâng cao chất lượng các bản tin thị trường chứng khoán, các
website của SGDCK, TTGDCK và UBCKNN
3.3.2.4 Nâng cao năng lực của giới truyền thông
3.3.3 Giải pháp về tiếp nhận thông tin
3.3.4 Các giải pháp hỗ trợ
3.3.
4.1 Phát triển nguồn nhân lực - con người
3.3.
4.2 Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với đội ngũ cán bộ
3.3.
4.3 Nâng cao cơ chế quản lý giám sát của nhà nước
Kết luận chương 3
Kết luận
Tài liệu tham
khảo
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phụ lục 4



73

74

74
74
74
76
77
77
80

81
82

82

83

83
84
85
86
86
86
86
87
88

90
93
97
104
117




DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 2.1: Biểu đồ chỉ số VN-Index và khối lượng giao dịch tăng trong tuần đầu
tháng 4/2008, giảm dần sau đó
Hình 2.2: Biểu đồ chỉ số VN-Index và tổng khối lượng giao dịch hằng ngày
trong giai đoạn từ 01/05/2008 đến 31/12/2008
Hình 2.3: Biểu đồ chỉ số VN – Index sàn TP. Hồ Chí Minh
Hình 2.4: Biểu đồ chỉ số HASTC – Index Hà Nội
Hình 2.5a. VN- Index và khối lượng giao dịch từ 28/7/2000 đến 25/6/2001
Hình 2.5b. REE, SAM, HAP, TMS. LAF từ 28/7/2000 đến 25/6/2001
Hình 2.6a: VN-Index và khối lượng giao dịch từ 25/
6/2001 đến 31/12/2003
Hình 2.6b: REE, SAM, HAP, TMS, LAF, BBC, DPC Từ 25/6/2001 đến
31/12/2003
Hình 2.7a VN-Index và khối lượng giao dịch từ 01/01/2004 đến 31/01/2006
Hình 2.7b: REE, SAM, HAP, LAF, BBC, DPC từ 01/01/2004 đến
31/01/2006
Hình 2.8a VN-Index và khối lượng giao dịch từ 06/02/2006 đến 27/12/2007
Hình 2.8b: REE, SAM, HAP, LAF, BBC, DPC từ 06/02/2006 đến
27/12/2007



27

28
29
29
37
37
39

39
41

41
43

43














DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Hệ số tương quan giữa 4 chứng khoán trong giai đoạn từ 28/7/2000
đến 25/6/2001
Bảng 2.2: Hệ số tương quan giữa các cổ phiếu REE, SAM, HAP, TMS, LAF,
BBC, DPC trong khoảng thời gian từ 25/6/2001 đến 31/12/2003
Bảng 2.3. Hệ số tương quan giữa các cổ phiếu REE, SAM, HAP, LAF, BBC,
DPC trong khoảng thời gian từ 01/01/2004 đến 31/01/2006
Bảng 2.4: Hệ số tương quan giữa các cổ phiếu REE, SAM, HAP, LAF, BBC,
DPC trong khoảng thời gian từ 06/02/2006 đến 27/12/2007
Bảng 2.5: Kết quả kiểm định Jarque-Bera của VN-Inde
x và các cổ phiếu



38

40

42

44
45



- 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 2008 đã đi vào lịch sử của những biến động kinh tế và cũng là năm mà

giới đầu tư trên thế giới nhận ra rằng hệ thống tài chính có lớn và vững mạnh đến
đâu cũng có những hạn chế và rủi ro nhất định của nó. Cục diện thế giới tài chính
có thể sẽ thay đổi nhiều sau năm 2008, trong đó khủng hoảng hệ thống tài chính,
nợ dưới chuẩn và khủng hoảng tr
ong lĩnh vực bất động sản được nhắc tới như là
những chủ đề trọng tâm nhất của năm. Thị trường tài chính Việt Nam nói chung và
thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng cũng không tránh khỏi những bước
thăng trầm, những sự kiện về tình hình tài chính, kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước
là yếu tố đã tác động đến tâm lý của nhà đầu tư và được phản ánh vào trong TTC
K.
Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã có những bước phát triển
nhất định kể từ khi ra đời vào tháng 07/2000.
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007 đạt được mức tăng trưởng
vượt bậc, giá trị vốn hóa thị trường đạt 43,7% GDP, quy mô hoạt động của thị
trường không ngừng mở rộng; nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu mới đư
ợc niêm yết
trên thị trường; các chủ thể quan trọng của thị trường như các tổ chức niêm yết;
các công ty chứng khoán; các nhà đầu tư đã thực sự thích nghi với môi trường hoạt
động của một thể chế tài chính bậc cao – Thị trường chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức được chuyển đổi
thành Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM vào giữa năm 2007, đồng thời SGDCK
đã thực hiện gia
o dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển
khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển.
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng thay đổi thời gian giao dịch
để tạo điều kiện cho nhà đầu tư có thêm nhiều thời gian và cơ hội để đầu tư
TTCKVN đã thu hút được ngày càng nhiều sự chú ý của những nhà đầu tư
từ những nhà đầu tư nhỏ lẻ đến những quỹ đầu tư tổ chức, từ những nhà đầu tư
trong nước đến nhà đầu tư nước ngoài.
Với tư cách là phương thức khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh

doa
nh thị trường chứng khoán có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế: Thúc
đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền ki
nh tế. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng
- 2 -
khoán ra nước ngoài. Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm đối với các hoạt động
kinh tế, là thước đo hiệu quả các hoạt động kinh tế. Thị trường chứng khoán tạo
điều kiện để sử dụng vốn có hiệu quả hơn đối với cả người có tiền đầu tư và người
vay tiền để đầu tư. TTCKVN đã và đang phát triển như một kênh sử dụng vốn
nhà
n rỗi của xã hội, góp phần tối đa hoá nguồn lực xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập.
Một trong số đó là vấn đề bất cân xứng thông tin trong thị trường tài chính nói
chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Vấn đề này có tác động không những
lâu dài mà còn gây ra những ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, niềm tin của nhà đầu tư
vào thị trường chứng khoá
n và những cơ quan quản lý. Cùng với quá trình toàn
cầu hoá thế giới và tiến trình hội nhập của Việt Nam với các nền kinh tế trong khu
vực và cả thế giới, yêu cầu làm sao để hạn chế bất cân xứng thông tin trong TTCK,
làm cách nào để nâng cao chất lượng công bố thông tin, đảm bảo cho TTCK vận
hành công bằng, hiệu quả, công khai và minh bạch được đặt ra rất cấp thiết.
Trên cơ sở nhận thức đư
ợc tầm quan trọng của những vấn đề trên, và với
mong muốn góp phần xây dựng và phát triển TTCKVN thành một thị trường bền
vững và ổn định, em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp cho vấn đề bất cân
xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá các lý luận cơ bản về thị trường chứng khoá

n, thông tin, bất
cân xứng thông tin, bất cân xứng thông tin ảnh hưởng đến thị trường tài chính nói
chung và thị trường chứng khoán nói riêng
Tìm hiểu tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi
thành lập 7/2000 đến nay qua đó nhận diện những rủi ro trên thị trường chứng
khoán hiện nay. Đồng thời tìm hiểu sự bất cân xứng thông tin trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm g
iải quyết tình trạng
bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm giúp Việt Nam
hòa nhập vào quá trình toàn cầu hóa thế giới, hội nhập với các nền kinh tế trong
khu vực và thế giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là sự bất cân xứng thông tin ảnh hưởng đến thị
trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng về mặt lý luận
cũng như thực tiễn
- 3 -
- Phạm vi nghiên cứu là tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán
Việt Nam từ khi thành lập 7/2000 đến nay và sự bất cân xứng thông tin trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của luận văn được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện
chứng kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn dịch.
Phương pháp thu thập xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp được lấy từ cơ quan
thống kê, tạp chí, các website và được xử l
ý trên máy vi tính.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Cùng với quá trình toàn cầu hoá thế giới và tiến trình hội nhập của Việt
Nam với các nền kinh tế trong khu vực và cả thế giới đòi hỏi thị trường chứng
khoán Việt Nam phải phát triển ổn định, vận hành công bằng, hiệu quả, công khai
và minh bạch. Để góp phần làm được điều đó thì cần phải hạn chế bất cân xứng

thông ti
n trong TTCK nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho
những người ít vốn tham gia thị trường. Vì vậy luận văn nêu lên tầm quan trọng
của sự bất cân xứng thông tin ảnh hưởng đến thị trường tài chính nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng
Tìm hiểu tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi
thành lập 7/2000 đến nay và sự bất cân xứng thông tin trên thị trường c
hứng khoán
Việt Nam. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết tình trạng bất cân xứng
thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu như sau:
- Lời mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận về thông tin và bất cân xứng thông tin
- Chương 2. Thực trạng bất cân xứng thông t
in trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
- Chương 3: Các giải pháp nhằm giải quyết tình trạng bất cân xứng thông
tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.
- 4 -
- Phụ lục.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN
VÀ BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN
1.1 Thông tin
1.1.1. Thông tin là gì?
Thông tin đựơc hiểu là sự truyền đạt các tin tức giữa con người với con
người về một sự vật, hiện tượng nào đó mà các bên đều hiểu rõ. Khái niệm thông
tin (information) được sử dụng thường ngày. Con người có nhu cầu đọc báo, nghe

đài, xem phim, video, đi tham quan, du lịch, tham khảo ý kiến người khác, … để
nhận được thêm thông tin mới. Thông tin mang lại cho con người sự hiểu biết,
nhận thức tốt hơn về những đối tượng trong đời sống xã
hội, trong thiên nhiên, …
giúp cho họ thực hiện hợp lí công việc cần làm để đạt tới mục đích một cách tốt
nhất.
“Biểu đồ tỷ trọng giá trị các loại chứng khoán niêm yết trên HoSE” chứa
đựng các thông tin về giá trị của cổ phiếu, của trái phiếu,…trên tổng giá trị của các
loại chứng khoán niêm yết trên HoSE. “Nốt nhạc trong bản sô-nat ánh trăng của
Beethoven”
làm cho người nghe cảm thấy đựơc sự tươi mát, êm dịu của đêm trăng.
Những thông tin về cảm xúc của tác giả đã được truyền đạt lại.
Khi tiếp nhận đựơc thông tin, con người thường phải xử lý nó để tạo ra
những thông tin mới, có ích hơn, từ đó có những phản ứng nhất định. Người tài xế
chăm chú quan sát người, xe cộ đi lại trên đường, độ tốt xấu mặt đường, tính năng
kĩ thuật cũng như vị trí của chiếc xe để quyết định, cần tăng tốc độ ha
y hãm
phanh, cần bẻ lái sang trái hay sang phải… nhằm đảm bảo an toàn tối đa cho
chuyến xe đi.
1.1.2. Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán
Thị trường được xem là hiệu quả khi nó thể hiện ở ba khía cạnh: phân phối
hiệu quả, hoạt động hiệu quả và thông tin hiệu quả.
- Phân phối hiệu quả: Khi các nguồn vốn được đầu tư có
hiệu quả nhất, tức
có nghĩa vốn của nhà đầu tư đầu tư vào những công ty có tiềm năng phát triển
nhất.
- Hoạt động hiệu quả: Khi các chi phí giao dịch trong thị trường được
quyết định theo quy luật cạnh tranh. Chi phí giao dịch hiệu quả là chi phí mà nhà
- 5 -
đầu tư trả cho các nhà môi giới có sự cạnh tranh lẫn nhau và chi phí này được xem

là chi phí bình thường mà nhà đầu tư phải bỏ ra. Hoạt động của thị trường được
xem là hiệu quả nhất khi nó có chi phí giao dịch bằng không. Thực tế thì điều này
không xảy ra vì phí môi giới là nguồn thu giúp các nhà tạo lập thị trường, nhà môi
giới được tồn tại.
- Thông tin hiệu quả: Khi giá giao dịch phản ảnh đầy đủ và tức thời các
thông ti
n có ảnh hưởng tới thị trường.
Để đánh giá được vai trò của thông tin, chúng ta hãy xem xét hành vi mua
bán cổ phiếu của nhà đầu tư trên thị trường theo phương pháp của Kendall, theo
Ông các nhà đầu tư sẽ tìm cách mua khi giá có khuynh hướng tăng và bán khi giá
có khuynh hướng giảm. Thực tế, khi nhà đầu tư dự đoán giá có khuynh hướng tăng
thì ngay lập tức giá chứng khoán trên thị trường sẽ tăng.
Vì vậy giá chứng khoán sẽ phản ứng ngay lập tức khi có thông tin dự đoá
n
giá sẽ tăng và ngược lại đối với trường hợp dự đoán giá sẽ giảm.
Như vậy, thông tin là một trong ba yếu tố cấu thành để làm nên một thị
trường chứng khoán hiệu quả. Trong đó thông tin có vai trò quyết định đến giá
chứng khoán trên thị trường. Thị trường có thông tin minh bạch và đầy đủ sẽ hình
thành nên giá chứng khoán hợp lý và tạo được niềm tin của công chúng vào thị
trường chứng khoá
n.
1.2. Thị trường chứng khoán
1.2.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có
giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là hoạt động của thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, đó có thể là thị trường chứng khoán có tổ chức hoặc không có tổ chức,
tập trung hay không tập trung.
Thị trường tập trung là các Sở giao dịch chứng khoán hay Trung tâm giao
dịch chứng khóan. Tại Sở giao dịch chứng khoá
n, các giao dịch được tập trung tại

một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình
ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Thị trường chứng khoán phi tập trung
còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC, các giao dịch
được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc
gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này đư
ợc hình
- 6 -
thành theo phương thức thỏa thuận. Thị trường chứng khoán TP.HCM là thị trường
tập trung, các lệnh giao dịch được khớp tại Sở giao dịch chứng khoán.
1.2.2. Thành phần tham gia thị trường chứng khoán
Thành phần tham gia thị trường chứng khoán có 6 thành phần như sau: Các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư riêng lẻ, các tổ chức tài chính, nhà môi giới kinh do-
anh chứng khoán, người tổ chức thị trường và Nhà nước.
- Các doanh nghiệp: Tham gia thị trường với tư cách là chủ thể tạo ra hàng
hóa để cung cấp c
ho thị trường. Các doanh nghiệp này cũng có thể được gọi là các
công ty niêm yết hay nhà phát hành theo cách gọi thông thường. Ngoài chức năng
chính tạo ra hàng hóa (cổ phiếu) để huy động vốn, các doanh nghiệp cũng có thể
mua đi bán lại các chứng khoán do các công ty khác phát hành.
- Nhà đầu tư riêng lẻ và các tổ chức tài chính: Hai thành phần này ta có
thể gọi chung là nhà đầu tư. Trong đó nhà đầu tư riêng lẻ là những người có vốn
nhỏ nhà
n rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích
kiếm lời. Các tổ chức tài chính bao gồm công ty đầu tư quản lý quỹ, công ty bảo
hiểm, công ty tài chính, ngân hàng, các công ty chứng khoán…tham gia thị trường
cả tư cách người mua và người bán. Thông thường các tổ chức tài chính có thời
gian đầu tư và khối lượng giao dịch trên thị trường dài và lớn hơn nhà đầu tư riêng
lẻ. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức trên thị trường thì rất ít so với số lượng nhà đầu
tư riêng lẻ.
- Nh

à môi giới kinh doanh chứng khoán: Có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Đa phần các hoạt động môi giới hiện nay là những công ty chứng khoán. Ngoài
nghiệp vụ môi giới các công ty này có thể thực hiện nhiều chức năng khác như tự
doanh, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán.
- Người tổ chức thị trường: Ch
iếm vai trò chủ yếu của người tổ chức thị
trường là các Trung tâm giao dịch chứng khoán hay Sở giao dịch chứng khoán.
Các Trung tâm, Sở này cung cấp địa điểm và phương tiện để thực hiện việc mua
bán chứng khoán cho các chủ thể tham gia giao dịch, điều hành thị trường để các
giao dịch diễn ra công bằng và minh bạch. Ngoài các Trung tâm và Sở giao dịch,
Trung tâm lưu ký, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, cũng có chức năng
không kém
phần quan trọng làm cho thị trường hoạt động hiệu quả.
- Nhà nước: Góp phần đảm bảo cho thị trường hoạt động theo đúng các qui
định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đầu tư, đảm bảo thị
- 7 -
trường hoạt động bền vững và hiệu quả. Ngoài ra Nhà nước cũng có thể tham gia
thị trường với tư cách là nhà phát hành. Đó là thông qua Chính phủ hoặc các chính
quyền địa phương phát hành các trái phiếu nhằm huy động vốn trên thị trường
chứng khoán để vay nợ hoặc tài trợ các dự án công. Nhà nước cũng có thể bán
hoặc mua các chứng khoán của các doanh nghiệp nhằm kiểm soát quyền chi phối
các doanh nghiệp theo mục đích.
1.3. Bất cân xứng thông tin
1.3.
1. Bất cân xứng thông tin là gì ?
Trong khoảng 2 thập kỉ vừa qua, một bộ phận trong lĩnh vực nghiên cứu
kinh tế, đôi khi được biết đến như là môn kinh tế học thông tin, đã mở rộng phạm
vi nghiên cứu của nó đến việc thị trường sản sinh và truyền tải các thông tin như
thế nào. Nhiều thông tin có giá trị trên thị trường đã có tác động lên những nét
riêng của thị trường, và gây ra một số vấn đề nhất định trên t

hị trường tài chính.
Như vậy, gần đây thông tin đang trở nên ngày càng có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế tài chính.
Sự bất cân xứng thông tin xuất hiện khi một bên trong một tình huống ra
quyết định nắm đựơc nhiều thông tin hơn hoặc nắm đựơc những thông tin tốt hơn
bên kia. Ví dụ, trong một thị trường khi người bán có nhiều thông tin hơn hoặc
thông tin tốt hơn về sản phẩm hơn người mua, hoặc khi người đi va
y biết nhiều
hơn chủ nợ về khả năng không trả đựơc khoản vay. Một cách ngắn gọn, sự bất cân
xứng thông tin xuất hiện khi chỉ có một số người chứ không phải tất cả mọi người
nắm đựơc một số thông tin nào đó (thông tin riêng hoặc thông tin ẩn) trong những
tình huống ra quyết định.
1.3.
2. Các dạng của bất cân xứng thông tin trong thị trường tài chính
Sự bất cân xứng thông tin trong thị trường tài chính có thể xuất hiện ở
những dạng sau đây: Sự lựa chọn trái ngược, tâm lí ỷ lại (mối nguy đạo đức), và
chi phí giám sát. Người cho vay phải gánh chịu vấn đề “sự lựa chọn trái ngược”
khi không có khả năng phân biệt giữa những dự án với những rủi ro tín dụng khác
nhau khi phân bổ tín dụng. Khi đự
ơc trình 2 dự án với cùng một mức tỷ suất sinh
lợi mong đợi, người cho vay thường thích dự án nào có rủi ro thấp hơn và ngựơc
lại, người đi vay thường thích những dự án có rủi ro cao nhất. Trong tình huống
này, những ai thực hiện những hoạt động mang tính rủi ro cao sẽ cảm thấy dễ dàng
hơn khi che dấu đi bản chất thật sự của dự án đó, do đó họ tận dụng được sự th
iếu
- 8 -
hụt thông tin của bên cho vay. Trong trường hợp “tâm lí ỷ lại” hay “ mối nguy đạo
đức”, bất cân xứng thông tin thể hiện ở khả năng của người đi vay có thể sử dụng
nguồn vốn vay khác với mục đích đã trình bày với bên cho vay khi hợp đồng được
hình thành. Cũng giống như trường hợp tâm lí ỷ lại, trường hợp “chi phí giám sát”

gắn liền với những hành động bị che dấu của người đi vay, họ tận dụng những
thông ti
n tốt hơn để đưa ra một mức lợi nhuận thấp hơn thực tế.
Trước khi tiếp tục, chúng ta cần phải chú ý những điểm khác nhau giữa ba
dạng biểu hiện của vấn đề bất cân xứng thông tin. “Lựa chọn trái ngược” xảy ra
trước khi bên cho vay giải ngân khoản vay, trái ngược lại là “tâm lí ý lại” và “Chi
phí giám sát”. Trong trường hợp “lựa chọn tr
ái ngược” và “chi phí giám sát” bên đi
vay đã chọn trước dự án đầu tư, trong khi trong trường hợp “tâm lí ý lại” hay “mối
nguy đạo đức” bên đi vay có thể sử dụng vốn vay vào mục đích khác khi đã nắm
đựơc khoản vay.
1.3.2.1 Sự lựa chọn trái ngược
Lựa chọn trái ngược hay lựa chọn bất lợi không phải là một quyết định ngẫu
nhiên mà quyết định này xuất phát việc che đậy thông tin của một bên trong thị
trường, và sự lựa chọn một bên sẽ gây bất lợi cho một bên khác trước khi xảy ra
giao dịch
(hợp đồng), sự lựa chọn này có thể làm một phân khúc thị trường trở nên
rủi ro và thậm chí đi đến xụp đổ hoàn toàn.
Điều mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng mong muốn là lợi nhuận, đối với thị
trường chứng khoán lợi nhuận được thể hiện thông qua việc mua cổ phiếu giá thấp
bán với giá cao (lợi vốn) hoặc đạt được giá trị cổ tức (lợi tức) kỳ vọng m
à nhà đầu
tư dự kiến. Nếu kết quả đầu tư của nhà đầu tư không hiệu quả tức nhà đầu tư vi
phạm những điều đã nói trên, thì ít nhiều đã tồn tại thông tin bất cân xứng trong
hoạt động đó và hệ quả của nó là chi phí lựa chọn bất lợi m
à nhà đầu tư phải gánh
chịu.
Thông thường trong hoạt động mua bán, người bán là người nắm rõ thông
tin về sản phẩm của mình và dĩ nhiên khi đó chi phí lựa chọn bất lợi sẽ do người
mua gánh chịu và trong thị trường hàng hoá lẫn lộn hàng thật và hàng copy cat thì

vì sự che đậy thông tin của những người bán hàng copy cat sẽ làm cho người mua
chỉ trả một mức giá trung bình, mức giá nà
y thấp hơn giá bán hàng thật nên điều
này tạo bất lợi cho những người bán hàng chân chính. Trên thị trường chứng khoán
cũng vậy công ty niêm yết luôn nắm thế chủ động hơn so với nhà đầu tư. Cụ thể,
căn cứ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và các hợp
- 9 -
đồng kinh doanh, các công ty niêm yết sẽ biết rõ khả năng đạt được lợi nhuận kỳ
vọng của mình là bao nhiêu nên các công ty này sẽ biết chắc chắn giá bán trên mỗi
cổ phiếu đó bao nhiêu là hợp lý. Thế nên, nếu nhà đầu tư không xác định chính xác
cổ tức kỳ vọng của công ty niêm yết thì sẽ định giá cổ phiếu không chính xác và
nếu định giá cao hơn giá trị thực của cổ phiếu thì sự bất lợi hoàn toàn thuộc về nhà
đầu tư.
1.3.
2.2 Tâm lí ỷ lại
Tâm lí ỷ lại là một trường hợp của BCX thông tin sau khi các bên của thị
trường đã cam kết thực hiện giao dịch (hợp đồng), trường hợp này xảy ra khi mà
một bên có hành động che đậy và bên khác của thị trường khó lòng kiểm soát,
hoặc muốn kiểm soát thì cũng phải tốn kém chi phí. Ví dụ như trong thị trường tín
dụng người cho vay không biết đích thực người đi vay sử dụng khoản vay như thế
nào, c
ó thể người đi vay sau khi được vay đầu tư vào các dự án rủi ro và khó lòng
hoàn trả khoản vay
Với các hợp đồng vay ngân hàng hay bảo hiểm thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ
phía người đi vay hay đi mua bảo hiểm. Họ sử dụng tiền vay không đúng mục đích
hay do đã được bảo hiểm nên họ sẽ bất cẩn hơn so với trước khi mua bảo hiểm. Ở
thị trường chứng khoán, tâm
lý ỷ lại phát sinh nếu như những người đại diện điều
hành công ty không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng mục đích. Do tính chất
của đầu tư trên thị trường là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn đầu tư

của các nhà đầu tư phải thông qua một số người đại diện để điều hà
nh công ty.
Tâm lý ỷ lại sẽ gia tăng nếu như tỷ lệ sở hữu cổ phần của những người đại diện
thấp. Vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả thì trách nhiệm của họ
không cao và sự thiệt hại trên phần vốn góp là thấp. Chính vì thế, hiện nay tiêu chí
đầu tiên để những cổ đông muốn là thành viên của Hội đồng quản trị thì họ phải có
một tỷ lệ vốn góp nhất định nà
o đó.
1.3.2.3. Chi phí giám sát
Nếu người đi vay lợi dụng được những thông tin tốt hơn của họ đánh lừa
người cho vay bằng cách cố ý báo cáo lợi nhuận thấp hơn thực sự, thì người cho
vay – những người không thể trực tiếp theo dõi kết quả của việc đầu tư, sẽ bắt buộc
phải giám sát người đi vay bất cứ khi nào anh ta tuyên bố rằng anh ta không có khả
năng thanh toán tất cả khoản va
y. Để làm được điều đó, trong hợp đồng có đặt
những điều kiện là, mỗi người đi vay thông báo sự vỡ nợ, người cho vay có quyền
kiểm toán họ và phong toả tất cả những dòng tiền đã được kiểm tra. Mỗi lần kiểm
- 10 -
toán sẽ tốn chi phí, chi phí này được dùng để thuê những kế toán viên và luật sư để
làm công việc kiểm toán. Khi không có chi phí giám sát, những người không trung
thực sẽ có lợi hơn, nhưng sự gian lận sẽ không còn tác dụng khi có chi phí giám
sát. Khi người cho vay có khả năng kiểm toán bất cứ lúc nào, điều này khiến
những người đi vay không trung thực phải xem laị chiến lược của họ – nghĩa là,
việc giám sát sắp xếp lại động cơ của cả bê
n vay và bên cho vay
Một khía cạnh mới của vấn đề bất cân xứng thông tin là sự xuất hiện của
bên kiểm toán, họ có thể được một phần trong giá trị trông đợi của dự án. Mặc dù
người cho vay mới là người có quyền kiểm soát, việc giám sát làm nổi lên một vấn
đề nằm ngoài vấn đề bất cân xứng thông tin, nó tượng trưng cho một sự phung phí
nguồn lực xã hội mà có thể kết thúc trong tay của các doanh nghiệp.

1.3.
3. Tác động của bất cân xứng thông tin đối với các chủ thể tham gia thị
trường
1.3.3.1 Tác động của bất cân xứng thông tin đối với nhà đầu tư
Tác động của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư như sau:
- Lợi ích của một bên cao hơn lợi ích kỳ vọng của thị trường: Lợi ích kỳ
vọng của thị trường là lợi ích bình quân của toàn thị trường, nó thường đư
ợc đánh
giá thông qua các chỉ số như EPS hay chỉ số P/E.
Tuy nhiên, đối với mỗi công ty, căn cứ vào tốc độ tăng trưởng doanh thu,
lợi nhuận… mà các chỉ số này cao hay thấp. Thông thường lợi ích kỳ vọng khi đầu
tư vào thị trường phải cao hơn lợi ích khi gửi tiền vào ngân hàng, vì đầu tư vào thị
trường chứng khoán có rủi ro cao hơn. Vì thế trong trường hợp nhà đầu tư mu
a cổ
phiếu của một công ty có giá thấp hơn giá được kỳ vọng, khi đó khả năng đạt được
lợi tức từ việc đầu tư cổ phiếu này sẽ cao hơn so với lợi tức kỳ vọng.
- Chi phí kỳ vọng của bên bất lợi thông tin cao hơn chi phí kỳ vọng của thị
trường: ngược lại so với tác động trên, nếu như nhà đầu tư mu
a cổ phiếu của một
công ty có giá cao hơn giá trị kỳ vọng, khi đó khả năng đạt được lợi tức từ việc đầu
tư cổ phiếu này sẽ thấp hơn so với lợi tức kỳ vọng.
- Một bên đối tác có thể rời bỏ thị trường: vì là nhà đầu tư ít thông tin nên sẽ
chịu chi phí kỳ vọng cao hơn chi phí kỳ vọng thị trường, do đó không nhiều thì ít,
các đối tượng này sẽ là đối tượng rời bỏ thị trường trước tiên.
1.3.
3.2 Tác động của bất cân xứng thông tin đối với các doanh nghiệp
- 11 -
Minh bạch thông tin là yếu tố chủ chốt trong việc định giá tài sản hiệu quả
và phân bổ nguồn vốn. Giúp doanh nghiệp giảm đi chi phí sử dụng vốn và thuận
lợi trong việc tiếp cận được các nguồn vốn khác nhau, làm gia tăng mức vốn

hóa thị trường của doanh nghiệp. Do vậy, khi bất cân xứng thông tin ảnh hưởng
đến việc định giá tài sản, tăng chi phí sử dụng vốn, hạn chế mức vốn hóa của thị
trường của doa
nh nghiệp.
1.3.3.2 Tác động của bất cân xứng thông tin đối với thị trường
Bất cân xứng thông tin làm hạn chế tính hiệu quả của thị trường, nó làm
cho môi trường đầu tư cũng như kinh doanh trở nên khó dự đoán được những rủi
ro và cơ hội đầu tư. Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh không đúng giá trị
thực của nó. Thật vậy, Tr
ong những giai đoạn đầu khi thị trường chứng khoán
mới xuất hiện thì thị trường chứng khoán của một quốc gia có thể hoạt động độc
lập và tách biệt với các thị trường chứng khoán khác trên thế giới. Trong vòng
hai thập niên trở lại đây, các thị trường chứng khoán trên thế giới đã ngày càng
liên kết nhiều hơn; hiện nay các nhà quản lý và các nhà đầu tư tổ chức thường
theo dõi các thị trường khác trên thế giới để tìm ra những cơ hội đầu tư. Vấn đề
qua
n trọng nhất là một số lượng lớn (và ngày càng tăng) các loại chứng khoán
không chỉ giao dịch trên thị trường trong nước. Vì vậy, hiện nay nhiều thị trường
cạnh tranh để có được sự giao dịch của những loại cổ phiếu chính.
Nhìn chung, ảnh hưởng của xu hướng này là tích cực. Hiện nay những
nguồn vốn mới có thể “chảy” đến những nhà
phát hành trên toàn thế giới và sự liên
kết đó tạo điều kiện cho sự phân bổ nguồn vốn trên toàn cầu. Tuy nhiên, xu hướng
này cũng đã tạo ra sự phân khúc ở cấp độ quốc tế. Sự phân khúc này đã dẫn đến sự
phổ biến ngày càng nhiều của các luồng vốn đầu tư và ngày càng nhiều các loại
chứng khoán giao dịch trên những thị trường khác nhau (và có thể là hiệu quả cũng
khác nha
u) ở những mức giá khác nhau.
Tính không hiệu quả trong việc định giá phần lớn được tạo ra bởi
một thực tế là những chứng khoán có thể thay thế đang được giao dịch “trong

bóng tối”, có nghĩa là có sự bất cân xứng thông tin cho những giao dịch này. Khi
một thị trường cho phép những giao dịch không rõ ràng thì nó sẽ cấm những thị
trường khác không đư
ợc biết những giao dịch đó để có thể xác định được tổng cầu
và tổng cung của những loại chứng khoán đó.
Một thị trường không minh bạch nơi mà giá cả chủ yếu dựa trên giá ở thị
trường sơ cấp, thì sẽ thu hút dòng vốn đầu tư bằng cách sử dụng miễn phí công cụ
- 12 -
tìm hiểu về giá của một thị trường minh bạch hơn mà không cung cấp bất kỳ sự
minh bạch nào của chính nó. Kết quả trước mắt của việc này có thể giảm bớt tính
hiệu quả và thanh khoản của thị trường minh bạch và nếu việc giao dịch tiếp tục
được chuyển đến các thị trường minh bạch hơn thì sẽ giảm tính hiệu quả và thanh
khoản đối với tất cả các thị trường chứng khoá
n. Trong dài hạn thì tình trạng này
sẽ rất nguy hại đối với những thị trường không minh bạch.
Việc định giá không hiệu quả và việc sử dụng giá miễn phí gây ra bởi sự
phân khúc thị trường không đơn giản là một vấn đề liên quan đến việc giao
dịch. Chi phí của tính không hiệu quả như vậy cao hơn rất nhiều so với tác động
trực tiếp đối với một nh
à đầu tư cụ thể. Nói một cách tổng quát, việc định giá
không hiệu quả cản trở sự phân bổ các nguồn lực quốc gia và nguồn lực toàn cầu
bằng cách bóp méo tín hiệu giá cả mà nhà đầu tư dựa vào và vì thế làm ảnh hưởng
không chỉ nền kinh tế của những thị trường giao dịch các loại chứng khoán đó mà
còn ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. N
hư chúng ta đã biết, nền kinh tế thị
trường chủ yếu dựa trên giá chứng khoán để phản ánh một cách chính xác giá trị
cơ sở cũng như đảm bảo sự phân bổ hợp lý của những dòng vốn mới đến những
khu vực hiệu quả nhất của nền kinh tế. Như là một kết quả của việc định giá không
hiệu quả, những nguồn vốn đó có thể được phâ
n bổ một cách tiết kiệm nhưng

không hiệu quả.
1.3.4 Các nguyên nhân gây ra bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng
khoán
Thông tin bất cân xứng trên TTCK xuất hiện khi người mua và người bán
có thông tin khác nhau, dẫn đến việc đưa ra quyết định đầu tư không chính xác,
gây cung - cầu ảo, tiềm ẩn nhiều rủi ro với thị trường. Thông tin bất cân xứng xảy
ra do:
* Về phía các doanh nghiệp:
- Ngoài thông tin bắt buộc th
eo luật định phải công bố thì DN không chủ
động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Ngoài ra, đối với DN chào bán cổ phiếu
ra công chúng, có thể chính ban lãnh đạo DN che giấu thông tin để "dìm giá" sao
cho những người trong DN có thể mua được cổ phiếu với giá thấp.
- Có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai, phổ
biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK ban
hành chỉ yêu cầu công bố tổng số NĐT tham gia đấu giá và tổng lượng cổ phiếu
- 13 -
đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng lớn đến việc đặt giá như số lượng
NĐT nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng cổ phiếu đặt mua của đối tượng này,
lại không được công bố cụ thể. Những thông tin này có thể không được bảo mật
chặt chẽ, mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu.
Nếu nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân, tổ
chức tham gia đấu giá sẽ tính t
oán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó
chiếm lợi thế so với các NĐT khác không có thông tin.
Sự rò rỉ thông tin còn thể hiện ở việc công bố các thông tin có lợi của DN.
Ví dụ, đối với các quyết định của hội đồng quản trị như chia cổ tức bằng cổ phiếu
thưởng, tăng quy m
ô vốn , do quan hệ cá nhân, một số NĐT biết trước khi thông
tin được công bố và tranh thủ thu mua cổ phiếu để chờ giá lên. Đến khi các NĐT

khác biết được thông tin thì đã quá muộn. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên
khi đầu tư trên TTCK Việt Nam diễn ra theo kiểu "bầy đàn", vì có sự suy diễn
rằng, việc mua hàng loạt hay bán hàng loạt cổ phiếu của một nhóm NĐT nào đó là
do có thông tin biết trước.
Thứ ba, DN cung cấp thông tin không công bằng đối với NĐT. Ưu tiên
cung cấp t
hông tin cho các NĐT chiến lược, NĐT tổ chức mà không công bố rộng
rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy, trong các cuộc đấu giá thì người
đấu giá thành công với mức giá thấp chủ yếu là NĐT tổ chức. Loại trừ khả năng
NĐT tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích, phán đoán và "trường vốn" hơn
thì người ta cũng nghi ngờ NĐT tổ chức nhận đư
ợc nhiều thông tin chất lượng hơn
so với NĐT cá nhân.
* Về phía thị trường:
- Việc tung tin đồn thất thiệt: có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của
DN niêm yết, đặc biệt tin đồn liên quan đến người đứng đầu DN. Những tin này
thường được tung ra trên các diễn đàn, sàn giao dịch chứng khoán hoặc được
truyền miệng. Do NĐT chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để kiểm chứng nguồn thông
tin, đồng thời do cơ chế thông ti
n của DN còn yếu kém, chậm chạp nên gây ra tâm
lý hoang mang cho NĐT, ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường. Trong khi
đó, cơ chế phát hiện và xử phạt đối với việc tung tin đồn chưa rõ ràng.
- Một số phương tiện truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy
đủ. Đây không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đôi khi khiến NĐT c
huyên
nghiệp không mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí, truyền
thông. Mặt khác, nội dung thông tin do các kênh truyền thông cung cấp, chủ yếu
- 14 -
vẫn là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều nhận định, phân tích mang tính
định hướng cho NĐT và thị trường.

* Về phía nhà đầu tư:
- Nhà đầu tư chưa chủ động tìm
kiếm thông tin, khả năng quan sát và tìm
kiếm thông tin còn hạn chế cũng như khả năng xử lý các nguồn thông tin có được
chưa cao. Ngoài ra, còn có hiện tượng như một số NĐT làm giá, tạo cung - cầu ảo
trên thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Sự t
hua thiệt thuộc về NĐT cá
nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì không thể nào tìm được nguồn
mua do NĐT lớn đã thâu tóm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào bán
được do thị trường bão hòa.
* Về phía nhà nước:
- Đội ngũ quản l
ý cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và
điều hành, đội ngũ quản lý thị trường giỏi, có kinh nghiệm không nhiều, cộng với
sự lôi kéo từ các công ty chứng khoá
n làm cho đội ngũ quản lý ngày càng thưa
thớt.
- Hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị
trường chưa chặt chẽ và đồng bộ hơn từ lĩnh vực công nghệ thông tin, thuế, kế toán
- kiểm toán, cổ phần hóa và đến cả giáo dục và đào tạo
- Cơ chế giám sát thông tin. Hiện nay ở VN, hầu như không có một cơ quan
nào giám
sát và đảm bảo chất lượng của các thông tin công bố trên TTCK. Với
tình hình hiện nay, rò rỉ thông tin là một điều không tránh khỏi nhưng trong đó có
một số thông tin không chính xác. Điều này càng bị phóng đại khi mà các nhà đầu
tư ở nước ta đa phần là các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, họ rất dễ bị dao động
bởi những tin đồn.
1.3.5 Những giải pháp lý thuyết để hạn chế vần đề bất cân xứng thông tin
1.3.
5.1. Giảm thiểu sự lựa chọn bất lợi (adverse selection)

Lựa chọn bất lợi có thể được giảm thiểu bằng hai chiến lược khác nhau
nhưng có quan hệ mật thiết, đó là phát tín hiệu (signaling) và sàng lọc (sreening).
Sự khác nhau giữa hai chiến lược phụ thuộc vào bên có thông tin hay bên không có
thông tin đóng vai trò chủ động. Trong phát tín hiệu, bên có thông tin riêng đóng
vai trò chủ động trong việc thực hiện hành vi thông qua đó sẽ bộc lộ thông tin của
m
ình nếu hành động đó được diễn giải đúng. Sàng lọc là các hành động do bên
- 15 -
không có thông tin thực hiện để tách biệt các loại đối tác có thông tin riêng khác
nhau theo một khía cạnh nào đó.
a. Phát tín hiệu (signaling)
Bên nắm giữ thông tin riêng biệt chủ động thực hiện những hoạt động làm
cho đối tác trong giao dịch biết được thông tin về mình. Trên thị trường những
người bán sản phẩm chất lượng tốt sẽ có động cơ khuyến khích để phát ra tín hiệu,
với mục đích làm cho người mua biết đựơc mình bán sản phẩm c
hất lựơng tốt và
bằng lòng trả giá cao cho loại sản phẩm chất lượng tốt này.
Bên cạnh đó, giả định rằng nếu người bán muốn thực hiện một hành vi nào
đó để phát tín hiệu thì phải tốn chim phí,và người mua có thể thấy đựơc người bán
thực hiện hành vi này. Điểm then chốt là chi phí phát tín hiệu của người bán sản
phẩm chất lượng xấu luôn cao hơn chi phí phát tín hiệu của người bán sản phẩm
tốt. Và do vậy, người
bán sản phẩm chất lượng xấu không có động cơ tìm cách
phát tín hiệu và nói dối. Chẳng hạn, việc cung cấp chế độ bảo hành đối với người
bán sản phẩm xấu đòi hỏi nhiều chi phí hơn người bán sản phẩm tốt. Khi đó, bảo
hành sản phẩm có thể có tác động như một tín hiệu.
Các cá nhân tham gia thị trường có thể t
hành công trong việc khắc phục
đựơc những khó khăn do vấn đề không chắc chắn về chất lượng gây ra nếu những
người bán làm ăn lâu dài và coi trọng uy tín của họ về sự trung thực. Khi đó, tuyên

bố của họ về chất lượng của một loại hàng được coi là hành vi phát tín hiệu.
Bên có thông tin riêng biệt chủ động thực hiện những hoạt động nhằm gián
tiếp phân nhóm đối tác để từ đó áp dụng các chính sách khác nha
u cho từng nhóm
đối tác. Chẳng hạn như để giảm thiểu sự lựa chọn bất lợi trong hợp đồng bảo hiểm
rủi ro mất xe máy, công ty bảo hiểm thiết kế hợp đồng bảo hiểm sao cho có thể
tách biệt loại khách hàng: nhóm rủi ro mất xe cao và nhóm rủi ro mất xe thấp.
Hợp đồng bảo hiểm gồm hai lựa chọn, bất cứ khách hàng nào cũng có thể
lựa chọn một trong hai. Lựa chọn thứ nhất: bảo hiểm to
àn bộ giá trị của chiếc xe
với một mức phí bảo hiểm. Lựa chọn thứ hai: bảo hiểm một phần giá trị của chiếc
xe với một mức phí thấp hơn trong lựa chọn thứ nhất.
Vấn đề ở đây là xác định mức phí bảo hiểm và tỷ lệ giá trị xe được bảo
hiểm sao cho nhóm rủi ro
cao luôn thấy có lợi nhất khi chọn hợp đồng thứ nhất,
còn nhóm rủi ro thấp chỉ chọn hợp đồng thứ hai. Trước hết, phí bảo hiểm trong
hợp đồng thứ nhất được định ở mức cạnh tranh sao cho đủ bù đắp chi phí kì vọng
- 16 -
phải bồi thường đối với nhóm rủi ro cao cộng với chi phí quản lý. Đối với hợp
đồng thứ hai, ta chọn một mức phí thấp hơn phù hợp với mức rủi ro thấp hơn (ví
dụ bằng một nửa mức phí bảo hiểm trong hợp đồng thứ nhất), nhưng khách hàng
trong hợp đồng này chỉ đựơc bảo hiểm một phần giá trị tài sản (ví dụ được bảo
hiểm
40% giá trị). Nhưng người có rủi ro mất xe thấp thấy rằng chẳng tiếc gì chọn
hợp đồng thứ nhất vì mức phí quá cao, cho dù có đựơc bảo hiểm toàn bộ giá trị xe.
Còn những người có rủi ro cao lại thấy rằng hợp đồng thứ nhất là tốt hơn cả. Đối
với họ, đúng là có thể đựơc lợi từ mức phí thấp nhất trong hợp đồng thứ hai, nhưng
vì chỉ đự
ơc bảo hiểm một phần trong klhi rủi ro mất xe lại cao nên việc mua hợp
đồng thứ hai không còn hấp dẫn. Mặc dù tách biệt đựơc hai loại khách hàng,

nhưng nhóm người có rủi ro mất xe thấp không đựơc hưởng toàn bộ giá trị. Đó
chính là chi phí của thông tin bất cân xứng.
1.3.5.2 Kiểm soát tâm lý ý lại
a. Cơ chế trực tiếp
Gia tăng nguồn lực giành cho việc kiểm soát và kiểm chứng. Ví dụ như luật
phá
p quy định các công ty Mỹ không đựơc phép công bố các báo cáo tài chính cho
đến khi đựơc các công ty kiểm toán độc lập kiểm chứng, những bản thông báo mô
tả các dự án đầu tư đang cần nguồn tài trợ của công chúng cần phải đựơc sự đồng ý
của Uỷ ban chứng khoán…
b. Cơ chế gián tiếp
- Giám sát qua các công ty cạnh tranh với nhau:
Phương cách giám sát dựa vào sự cạnh tranh giữa các bên có xung đột về
lợi ích để phát triển những thông tin cần t
hiết. Những nhà sản xuất thường rất vui
mừng khi so sánh ưu điểm của các sản phẩm của họ với khuyết điểm của đối thủ
cạnh tranh mà chúng thường không được đề cập tới. Như vậy sẽ khắc phục được
tâm lý ỷ lại cho rằng khách hàng sẽ không nhận biết được khuyết tật của những sản
phẩm do
minh sản xuất ra.
- Sự giám sát của thị trường:
Vấn đề tâm lý ỷ lại trong quản lý thường có thể được giảm nhẹ nhờ vào sự
giám sát không tốn chi phí của các thị trường. Các nhà quản lý công ty trong các
thị trường sản phẩm hay thị trường nhập lượng tương đối cạnh tranh có khả năng
thất bại cao hơn nếu khả năng tạo ra lợi nhuận của họ ké
m. Nỗi sợ thất nghiệp hay

×