Tải bản đầy đủ (.pptx) (19 trang)

PPT Chuyện người con gái Nam Xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.86 KB, 19 trang )



Phân tích nhân vật Vũ Nương “ Chuyện người con gái
Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Từ đó em có nhận được điều
gì về thân phận và vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến.
Bài làm
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một
truyện phóng tác dựa trên câu chuyện xảy ra và lưu truyền trong
dân gian từ thế kỉ trước. Thông qua truyện ông đã tố cáo xã hội
phong kiến suy tàn với bao cuộc chiến tranh liên miên, gây đau
thương tang tóc cho dân lành. Truyện còn thể hiện niềm
thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca
ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ, tiêu biểu qua nhân
vật chính Vũ Nương.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng nhân vật Vũ Nương.
Ơng đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ
được phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu
thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son


Trước tiên Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều
phẩm chất tốt đẹp, là người phụ nữ xuất thân từ gia đình
nghèo, nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh: Tính đã
thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Khi làm vợ Trương
Sinh, trong đạo vợ chồng nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh,
đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã “ln giữ
gìn khn phép… thất hịa” chứng tỏ nàng rất khéo léo trọng
việc vun vén hạnh phúc gia đình. Nàng quả là một người vợ
hiền, biết ăn ở, khéo léo trọng việc vun vén hạnh phúc


gia đình.
Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh
xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm
trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật
chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”.
“Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin
chồng trở về bình yên vơ sự”. Ước mong của nàng thật bình dị,
lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia
đình mà xem thường mọi cơng danh phù phiếm. Nàng cảm


thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu
đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khơn lường.Giặc cuồng
cịn lẩn lút, qn triều cịn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà
mùa dưa chín q kì, khiến thiếp ơm nỗi quan hồi, mẹ già triền
miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc
khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa
soạn áo rét, gửi người ải xa, trơng liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn
hàng,cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổn g”. Đúng là lời nói,
cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Câu văn
nhịp nhàng, hình ảnh ước lệ, sử dụng điển tích cho thấy trái tim
của người vợ trẻ khát khao yêu thương đang thổn thức lo
âu cho chồng thấm vào lòng người, khiến ai ai cũng xúc
động.
Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trơng đến
thổn thức “Giữ trọn tấm lịng thủy chung, son sắt”, “tơ son điểm
phấn từng đã ngi lịng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”.
Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn



đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể
nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương
xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cơ đơn vị võ. Thể
hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa
cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lịng chung thủy
của nàng.
Khơng chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là
một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận
vừa trịn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù
đắp thiếu vắng cha nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là
cha Đản. Cịn với mẹ chồng già yếu, nàng chăm sóc rất chu đáo, thuốc
thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm trọnđạo
hiếu. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan
hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy
những định kiến khắt khe. Tấm lòng của nàng cũng đã được người mẹ
chồng ghi nhận qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau
này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia
quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương
chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa với đầy
đủ: Công, dung, ngôn, hạnh.


Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải
được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng cuộc sống của Vũ
Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang
buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan
Trương Sinh trở về nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư, mắng
nhiếc,đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm
giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ. Tình tiết được sắp xếp

đầy kịch tính, Vũ Nương khơng có cơ hội để thanh minh, trái tim
tan nát, tuyệt vọng bởi “bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan,
sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ”. Đến bến Hồng Giang, người
thiếu phụ đau khổ nguyền rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận
hẩm hiu chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sơng có linh xin ngài chứng giám, thiếp nếu đoan trang
giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, xuống nước xin làm ngọc Mỵ
Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…” ”. Nói rồi nàng nhảy xuống
sơng tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ
vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.


Hành động tự trẫm mình của nàng là hành động quyết liệt
cuối cùng cần phải có để bảo tồn danh dự. Nhịp văn dồn dập,
lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm, xót thương
của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh!
Thương nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm
trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một
nàng tiên. Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả: người
tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành?
Phần cuối truyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo.
Sau khi nghe câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn
giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rõ uy nghi nhưng chỉ
thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi
mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm
mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người
phụ nữ trong xã hội xưa.
Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp nết đó
phải tìm đến cái chết bi thảm? Có phải chăng vì cuộc hơn
nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương khơng bình đẳng. Chính sự



cách biệt về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm
cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng,
người đàn ông gia trưởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là
những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ kiện
nghi ngờ làm cho Trương Sinh - một người chồng hay có tinh đa
nghi ghen tng, hồ đồ và độc đốn kia trở thành kẻ thô bạo,
vũ phu là kẻ bức tử vợ mình trong sự mù qng, kẻ giết người
lại hồn tồn vơ can trong vụ án. Đó là chưa kể tới một nguyên
nhân khác nữa : do chiến tranh phong kiến–dù không được
miêu tả trực tiếp, nhưng cuộc chiến tranh ấy đã tác động hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp tới số phận từng nhân vật trong tác. Đó
cịn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc
đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để
ngàn đời trên bến Hồng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi
ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp,
hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh!
Tóm lại, “Chuyện Người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt


đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt
đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là
những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của
nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong
thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là
một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi
mà nam giới được hưởng. Vì vậy chúng ta hãy phát huy

những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và
thương cảm trước số phận của họ. trân trọng xã hội tốt
đẹp mà ta đang sống hôm nay.


Câu hỏi. Viết đoạn : Phẩm chất của nhân vật Vũ
Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” ?
“Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã giới
thiệu Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt
đẹp” để tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hồn hảo. Vũ
Nương con một gia đình nghèo, từ khi lấy chồng Trương Sinh,
con gia đình phú hào, trong cuộc sống vợ chồng nàng ln
“giữ gìn khn phép, khơng lúc nào để vợ chồng phải đến thất
hòa”. Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước
xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải
xa xơi. Lời dặn dị khi tiển chồng đi lính thật ân tình, đằm
thắm, xúc động làm sao: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng
dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ
xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.
Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ
nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi
cơng danh phù phiếm. Đúng là lời nói, cách nói của một người
vợ hết mực thuỷ chung . Trái tim ấy giàu lòng yêu thương.


chồng. Khi xa chồng, nỗi buồn nhớ của nàng cứ dài theo năm tháng: “Mỗi
khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời
khơng thể nào ngăn được”. Phép ẩn dụ tượng trưng đã diễn tả đầy đủ
được nỗi mong nhớ tháng ngày như biển trời cũng như đức hi sinh và tinh
thần chịu đựng của người Vũ Nương. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy

của cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn
lạc xưa nay. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ già chu
đáo. Tận tình chăm sóc khi ốm đau. Lời trăn trối của mẹ chồng trước khi
chết con dâu hiếu thảo: “Sau này, trời xét lòng lành ban cho phúc đức
giòng giống tươi tốt”. Ở nhà vừa phải phụng dưỡng mẹ chồng, vừa phải
chăm sóc con thơ , lại vừa thay chồng thực hiện chức trách của người cha
dạy dỗ bé Đản. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản
cũng xuất phát từ tấm lịng của người mẹ yêu thương con hết mực, không
muốn thiếu vắng tình cảm của người cha. Lúc bị nghi oan dồn đẩy đến bước
đường cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước Hồng Giang để giãi tỏ tấm
lịng trong trắng, thủy chung. Hành động của nàng là một hành động quyết
liệt để bảo toàn danh dự. Bằng cách đặt nhân vật vào những hồn cảnh,
tình huống khác nhau, tác giả đã khắc hoạ đậm nét nhân vật Vũ Nương là
một người phụ nữ nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, hết lịng vun
đắp hạnh phúc gia đình. Đó là phẩm hạnh tốt đẹp, cao quý của người phụ
nữ Việt Nam


Câu hỏi. Viết đoạn văn ngắn (8 - 10 câu) phân tích ý nghĩa của việc Vũ Nương khơng trở về nhân gian
nữa trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ
Việc nhân vật chính trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ - nàng Vũ Nương không trở lại nhân gian nữa sau khi trầm mình xuống sơng vì nỗi oan khơng gì tháo gỡ được là một chi tiết đầy ý
nghĩa. Trước hết, điều đó khẳng định nhân cách tốt đẹp, lòng tự trọng của Vũ Nương. Nàng dù vẫn còn lưu luyến
và khao khát hạnh phúc trần gian nhưng nàng thà lìa bỏ những khao khát của mình chứ khơng trở lại nơi đã ruồng
rẫy nàng một cách cay nghiệt. Sự việc này đồng thời là một lời nhắc nhở nghiêm khắc thói đa nghi ghen tng hồ
đồ của Trương Sinh. Chính Trương Sinh đã vội vã kết tội đẩy Vũ Nương đến cái chết thì nay, dù chàng có ăn năn
hối lỗi thế nào Vũ Nương cũng không quay lại. Điều đó cảnh tỉnh người đọc rằng: hạnh phúc đã mất đi thì khơng
bao giờ lấy lại được; bởi vậy mỗi chúng ta cần biết nâng niu trân trọng những hạnh phúc của đời mình. Mặt khác,
đây cũng là một chi tiết mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nó tố cáo xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng: đó là nơi
khơng có chỗ dung thân cho những tâm hồn đẹp đẽ, cao thượng như Vũ Nương.
Câu hỏi. Viết đoạn văn phân tích ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong tác phẩm Chuyên người con gái Nam

xương của Nguyễn Dữ
Yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" đã được tác giả Nguyễn Dữ thể hiện thật
nhiều ở phần kết với những yếu tố trong truyện cổ tích. Đó là chi tiết Phan Lang - người cùng làng với Vũ Nương
nằm mộng thả rùa và khi Phan Lang chạy nạn bị chết đuối đã được thần rùa Linh Phi cho uống thuốc tiên sống
lại, cho trở về trần gian. Đó là chi tiết Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan trên bờ Hoàng Giang và trở
về trên chiếc kiệu hoa lấp lánh giữa dòng lúc ẩn, lúc hiện. Đây cũng là những chi tiết làm hoàn thiện nét đẹp tâm
hồn của Vũ Nương: vẫn luôn khát khao được phục hồi danh dự, vẫn mong muốn được chàm lo cho chồng con,
nhà cửa. Và đồng thời đây cũng là một kết thúc có hậu, thể hiện được ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự
công bằng trong cuộc đời người tốt dù có bị nghi oan rồi cũng được đền trả xứng đáng và cái thiện luôn luôn
chiến thắng cái ác.


Câu hỏi. Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người
con gái Nam xương của Nguyễn Dữ
Trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, nhân vật Trương Sinh là người
đàn ơng gia trưởng, vốn tính đa nghi và hồn tồn có cái thế của người chồng trong xã hội phong kiến. Cuộc
hôn nhân của Trương Sinh và Vũ Nương là cuộc hơn nhân khơng có tình u,Trương Sinh "mến vì dung
hạnh" nên đem trăm lạng vàng cưới về. Và khi Trương Sinh đi lính về, tâm trạng đang nặng nề vì mẹ mất. Sự
nặng nề đó, kết hợp với thói đa nghi và lời nói của đứa con nhỏ đã kích động thói ghen tuỏng của Trương.
Chàng đinh ninh là vợ trắc nết lăng loàn: "mối nghi ngờ ngày càng sâu, khơng có gì gỡ ra được". Hành động
ghen tuông của Trương Sinh không phải là một trạng thái tâm lí bột phát trong cơn nóng giận bất thường mà là hệ
quả của một tính cách – sản phẩm của xã hội đương thời. Trương Sinh đã xử sự hồ đồ, độc đoán, la mắng, đánh
đuổi vợ, khơng bình tĩnh phán đốn, phân tích sự việc, cũng khơng tin hàng xóm bênh vực Vũ Nương và những
lời phân trần của nàng. Đó là thái độ độc đốn, vũ phu, hồ đồ, đẩy người vợ đến cái chết.


Câu hỏi. Viết đoạn văn ngắn (8 - 10 câu) phân tích ý nghĩa của việc Vũ Nương khơng trở về nhân gian
nữa trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ
Việc nhân vật chính trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ - nàng Vũ Nương không trở lại nhân gian nữa sau khi trầm mình xuống sơng vì nỗi oan khơng gì tháo gỡ được là một chi tiết đầy ý
nghĩa. Trước hết, điều đó khẳng định nhân cách tốt đẹp, lòng tự trọng của Vũ Nương. Nàng dù vẫn còn lưu luyến

và khao khát hạnh phúc trần gian nhưng nàng thà lìa bỏ những khao khát của mình chứ khơng trở lại nơi đã ruồng
rẫy nàng một cách cay nghiệt. Sự việc này đồng thời là một lời nhắc nhở nghiêm khắc thói đa nghi ghen tng hồ
đồ của Trương Sinh. Chính Trương Sinh đã vội vã kết tội đẩy Vũ Nương đến cái chết thì nay, dù chàng có ăn năn
hối lỗi thế nào Vũ Nương cũng không quay lại. Điều đó cảnh tỉnh người đọc rằng: hạnh phúc đã mất đi thì khơng
bao giờ lấy lại được; bởi vậy mỗi chúng ta cần biết nâng niu trân trọng những hạnh phúc của đời mình. Mặt khác,
đây cũng là một chi tiết mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nó tố cáo xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng: đó là nơi
khơng có chỗ dung thân cho những tâm hồn đẹp đẽ, cao thượng như Vũ Nương.

Câu hỏi. Viết đoạn văn phân tích ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong tác phẩm Chuyên người con gái Nam
xương của Nguyễn Dữ
Yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" đã được tác giả Nguyễn Dữ thể hiện thật
nhiều ở phần kết với những yếu tố trong truyện cổ tích. Đó là chi tiết Phan Lang - người cùng làng với Vũ Nương
nằm mộng thả rùa và khi Phan Lang chạy nạn bị chết đuối đã được thần rùa Linh Phi cho uống thuốc tiên sống
lại, cho trở về trần gian. Đó là chi tiết Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan trên bờ Hoàng Giang và trở
về trên chiếc kiệu hoa lấp lánh giữa dòng lúc ẩn, lúc hiện. Đây cũng là những chi tiết làm hoàn thiện nét đẹp tâm
hồn của Vũ Nương: vẫn luôn khát khao được phục hồi danh dự, vẫn mong muốn được chàm lo cho chồng con,
nhà cửa. Và đồng thời đây cũng là một kết thúc có hậu, thể hiện được ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự
công bằng trong cuộc đời người tốt dù có bị nghi oan rồi cũng được đền trả xứng đáng và cái thiện luôn luôn
chiến thắng cái ác.


Câu hỏi. Ý nghĩa của chi tiết cái bóng trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ.
Chiếc bóng xuất hiện hai lần ở hai thời điểm khác nhau, cả hai lần đều là lời nói của bé Đản, tuy vai trị hai
chiếc bóngkhơng giống nhau nhưng giá trị của tình tiết này làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn. Lần thứ nhất, “cái
bóng” trở thành đầu mối điểm thắt nút của câu chuyện, đẩy kịch tính lên đỉnh điểm, khiến chuyện rẽ sang một
hướng mới vượt khỏi tầm kiểm sốt của người tạo ra nó. Khi nói chuyện với con về chiếc bóng Vũ Nương muốn
con mình được sống trong cảnh đoàn viên hạnh phúc, nàng cũng vơi đi nỗi khắc khoải nhớ thương chồng nhưng
nàng lại qn mất người trị chuyện với mình là đứa trẻ lên ba. Vì thế, chiếc bóng làm cho độ căng của tác phẩm
lên cao và mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm dẫn đến cái chết của Vũ Nương. cần phải được giải quyết. Lần thứ hai,

“cái bóng” mở mắt cho Trương Sinh về sự thật tội ác do chính chàng gây ra. Cũng chính cái bóng cởi nút, giải tỏa
mọi khó khăn, thắc mắc cho Trương Sinh. Nếu như chiếc bóng một đẩy Vũ Nương vào chỗ chết thì chiếc bóng
hai lại là chiêu tuyết cho hồn Vũ Nương, nàng có thể ngậm cười nơi chin suối. Mặt khác, chiếc bóng tơ đậm thêm
nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trị làm vợ, làm mẹ. Cái bóng trở thành biểu tượng của tình chồng vợ
gắn bó tuy hai mà một. Chiếc bóng cịn là một ẩn dụ cho số phận mong manh của người phụ nữ trong chế độ nam
quyền; là bài học cho những người có tính ghen tng bóng gió, mùa qng; là thơng điệp mn đời cho mọi
người: đã yêu thương nhau phải tin tưởng, tơn trọng lẫn nhau, đừng để cái bóng rình rập, giết chết tình yêu, hạnh
phúc gia đình.


Câu hỏi. Nêu nguyên nhân dẫn đến nỗi oan khuất và cái chết của Vũ Nương.
Chuyện người con gái Nam Xương, người đọc khơng khỏi xót xa, phẫn uẫn trước cái chết của Vũ
Nương - một người phụ nữ thủy chung, trong trắng, đức hạnh vẹn toàn. Nỗi oan khuất của nàng do nhiều
nguyên nhân đưa đến. Nguyên nhân trực tiếp là do cuộc hơn nhân khơng bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “con
nhà kẻ khó”, cịn Trương Sinh là con nhà hào phú nhưng ít học, tính lại đa nghi,hay ghen. Khi đi lính trở về
lại nghe lời đứa trẻ lên ba vì thế tính hay ghen bùng lên khơng gì dập tắt được. Một ngun nhân nữa là do lễ
giáo hà khắc, người phụ nữ khơng có quyền được nói, tự bảo vệ mình. Trong cái lễ giáo ấy, chữ trinh là quan
trọng hàng đầu; khi người phụ nữ đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một
con đường chết để tự giải thoát. Nguyên nhân gián tiếp là do cái bóng trên tường và lời nói ngây thơ của bé
Đản tạo ra tình huống mà khơng có cơ hội cho nàng giải thích. Nhưng nguyên nhân sâu xa là do xã hội phong
kiến – Một xã hội gây ra bao bất công, đã đẩy thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm.
Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất cơng, vơ lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của
đứa trẻ, vì sự hồ đồ, ghen tuông của người chồng mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.
Tóm lại, bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và
của người đàn ơng trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt
của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không những khơng được bênh vực, trở che mà lại cịn bị
đối xử một cách bất cơng, vơ lý; chỉ vì lời nói thơ ngây của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay
ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.



Ý nghĩa của chi tiết cái bóng trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ.
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Chuyện người con gái Nam
Xương.
- Dẫn dắt vấn đề: ý nghĩa cái bóng.
2. Thân bài
- Cái bóng trong câu chuyện là chi tiết tạo nên cách thắt nút cho câu chuyện.
+ Đối với Vũ Nương: trong những ngày ra chiến trường, vì khơng muốn con thiếu
vắng bóng người cha nên vào hằng đêm nàng chỉ vào cái bóng của mình và bảo đó là cha
của bé Đản - > Lời nói dối của Vũ Nương với mục đích hồn tồn tốt đẹp.
+ Đối với bé Đản: Mới 3 tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp nên
đz tin là có một người cha đem nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi, nhưng nít thin thít và khơng bao giờ bế nó.
+ Đối với Trương Sinh: Lời nói của bé Đản về người cha khác (cái bóng) đã làm
nảy sinh sự nghi ngờ vợ không thủy chung, nảy sinh thái độ ghen tng và lấy đó làm
bằng chứng để mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương. Hậu quả làm Vũ Nương phải gieo
mình xuống dịng Hồng Giang để minh oan cho bản thân mình.
- Cái bóng trong câu chuyện là chi tiết tạo nên mở nút cho câu chuyện.
+ Sau khi hiểu ra cái bóng chính là người cha mà bé Đản nhắc tới, Trương Sinh đã
hiểu được nỗi oan của vợ.
 Nỗi oan ức mà Vũ Nương phải gánh chịu đều được bắt đầu và hóa giải vì cái
bóng.
- Cách thắt nút và mở nút bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương
thêm oan ức, giá trị tố cáo đối với xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công đối với phụ
nữ càng thêm sâu sắc hơn.
3. Kết bài
- Nêu tóm lược giá trị nghệ thuật của hình tượng cái bóng.
- Đánh giá và rút ra bài học.



Đề bài: Ý nghĩa hình tượng nghệ thuật của cái bóng trong Chuyện người
con gái Nam Xương.
Bài làm
Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20
truyện của Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Nguồn gốc của truyện bắt nguồn
từ một truyện cổ tích dân gian tên là Vợ chàng Trương. Câu chuyện được xây
dựng theo lối truyền kì. Tình huống dựa trên truyện cổ dân gian. Thế nên tính
hoang đường trở thành yếu tố mang nhiều hàm nghĩa sâu sắc.
Hình tượng chiếc bóng trên tường của Vũ Nương là một yếu tố độc đáo. Chi
tiết có vai trị thắt nút và mở nút câu chuyện tình đầy ngang trái, oan khuất.
Trước hết, chi tiết cái bóng có ý nghĩa thắt nút. Nó gây ra mối hồi nghi
trong lịng Trương Sinh.
Chi tiết cái bóng có ý nghĩa mở nút cho câu chuyện. Nó tháo gỡ nỗi hoài nghi
trong Trương Sinh và minh chứng cho sự trong sạch của Vũ Nương. Chính nhờ
cái bóng ở trên tường được bé Đản gọi là “cha” mà sau này chàng nó nhận ra nỗi
oan của vợ. Bao nghi ngờ, oan ức đều được hóa giải nhờ vào chiếc bóng. Trương
Sinh đã hiểu ra tất cả nhờ chi tiết cái bóng.
Chỉ bằng một tình tiết hết sức đơn giản, thế mà Nguyễn Dữ đã tạo nên một
thiên truyện làm xúc động lịng người. Chính cách thắt nút và mở nút của câu
chuyện qua chi tiết cái bóng này đã làm cho cái chết của Vũ Nương càng thêm
oan khuất, có giá trị tố cáo đối với xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công
đối với người phụ nữ, đã đẩy họ vào bước đường cùng khơng lối thốt.



×