Tải bản đầy đủ (.pptx) (18 trang)

Phân Tích Đoạn Thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.67 KB, 18 trang )

Phân Tích Đoạn Thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích trích
Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Dàn ý
1. Mở bài:
– Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay
nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều.
– Tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp
điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh ngụ tình, lấy cảnh vật để
nói lên nỗi lịng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu
ý hợp hòa quyện vào nhau.
2. Thân bài:
a. Khung cảnh Lầu Ngưng Bích và hồn cảnh của Kiều:
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
Cảnh đẹp, thơ mộng thống đãng nhưng mênh mông, lặng lẽ và
heo hút
Kiều rất chán nản, buồn tủi và cô đơn
b. Tâm trạng thương nhớ của Kiều
Kiều nhớ Kim trọng da diết, khôn nguôi, Kiều là một người rất
chung thủy và có tình u sâu sắc
Đồng thời Kiều là một người con hiếu thảo, lo lắng về cha mẹ
c. Tâm trạng buồn lo của Kiều
Kiều nhớ về quê hương, nhớ về gia đình
Kiều buồn cho thân phận mình, số kiếp trôi nổi
Kiều cảm thấy cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, khơng đáng sống
Kiều có một nỗi lo sợ hãi hùng, bang hoàng
Nỗi buồn của Kiều tầng tầng lớp lớp khơng thể tả được
3. Kết bài:
– Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”là một bức tranh được
vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng
sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai ốn.



Phân Tích Đoạn Thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích trích
Truyện Kiều của Nguyễn Du
Bài làm
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh
tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình,
Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách
xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng
của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, và vô vọng, bế
tắc; là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim
Trọng và cha mẹ.
Mở đầu đoạn trích là bức tranh thiên nhiên, ở lầu
Ngưng Bích nơi mà Kiều đang bị giam lỏng, một
khơng gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật
đồng hiện:
Trước lầu Ngưng Bích khố xn,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.


Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng.
Ẩn dụ “khố xn” ở đây khơng phải nói tới những cơ
gái cịn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân
phận nàng Kiều, đã cho thấy tình cảnh cảnh cá chậu
chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xn
của nàng. Khung cảnh trữ tình, thơ mộng được mở ra
cả ba chiều cao, xa và rộng: "non xa", "trăng gần", “cát 
vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”. Những hình ảnh mang

tính ước lệ, liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/”trăng 
gần”, đảo ngữ, từ láy “bát ngát” gợi sự mênh mông,
hoang vắng, rợn ngợp thiếu vắng cuộc sống của con
người. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không
gian hoang vắng trong hồn cảnh tha hương, cơ đơn,


tương lai mờ mịt. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ
cịn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lịng mình.
Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên
trên là vầng trăng đơn cơi, nhìn xuống mặt đất thì bên
là cồn cát nhấp nhơ lượn sóng, bên là bụi hồng cuốn
xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ
giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước.
Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thận
phận trơ trọi. Khơng một bóng người, khơng một sự
chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn.
Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính
mình. Trong cái khơng gian rợn ngợp và thời gian dài
dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vịng tuần
hồn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con
người, như khắc sâu thêm nỗi dơn côi khiến Kiều
càng thấy bẽ bàng chán ngán, buồn tủi. Thành


ngữ “mây sớm đèn khuya” thời gian tuần hồn khép
kín, quanh đi quẩn lại hết “mây sớm” lại “đèn khuya”, cứ
thế trôi đi, rồi lặp lại, Kiều thấy tuyệt vọng với tâm trạng
cô đơn, buồn tủi, hổ thẹn đến “bẽ bàng”. Sớm và khuya,
ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê

người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Từ láy
“bẽ bàng” diễn tả tâm trạng xấu hổ, tủi thẹn cho thân
phận của mình. Bốn chữ “như chia tấm lịng” diễn tả nỗi
niềm chua xót, xấu hổ, tủi thẹn nỗi lịng tan nát của
Kiều.
Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền
cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con
người nhỏ bé, đơn côi. Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu
Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lịng của Th Kiều.
Đó là sự cơ đơn, vơ vọng đến tuyệt đối và đó là những
dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy.


Nỗi đau khổ buồn bã của Kiều càng khiến nàng
nhớ về những người thân yêu:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Kiều sót
xa hình dung Kim Trọng vẫn chưa biết tin mình bị bán
mình chuộc cha, bị đưa đẩy vào góc bể chân trời mà
vẫn ngày đêm mong ngóng, chờ đợi mỏi mịn. Nàng
thấy mình có lỗi, dằn vặt. Nỗi nhớ ấy được miêu tả xúc
động, cảnh Kiều cùng Kim Trọng uống rượu thề
nguyền dưới ánh trăng. “Tưởng” là một nhãn tự vừa là
nhớ, vừa là hình dung, Kiều như tưởng tượng thấy, ở
nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang
ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống



những rày trơng mai chờ”. Hình ảnh ẩn dụ “chén đồng”,
các động từ - vị ngữ: "tưởng", "trông", "chờ", "bơ vơ",
"gột rửa", "phai" đã liên kết thành một hệ thống ngôn
ngữ độc thoại nội tâm, chỉ không gian và thời gian cách
biệt; bộc lộ sâu sắc cảm động tình cảm thương nhớ
người u khơn ngi, xót xa cho mối tình đã nặng lời
thề son sắt vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn. Nàng liên
tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của
mình; băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gợt rửa bao giờ cho 
phai”. Câu thơ có hai cách hiểu: tấm lịng son là tấm
lịng nhớ thương Kim Trọng khơng bao giờ phai dù thân
mình đang “bên trời gớc bể bơ vơ”, vừa nói tấm lòng son
của Kiều bị dập dùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa được.
Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Trong
nỗi nhớ cịn có cả nỗi xót xa, ân hận, tủi hổ. Đó là tấm
lịng chung thuỷ của nàng.


Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ
thương, lo lắng cho cha mẹ của mình:
Xót người tựa cửa hơm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gớc tử đã vừa người ơm.
Với ngơn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm
trạng ngổn ngang của Kiều hiện lên thật rõ nét. “Xót"
xót thương da diết và day dứt khơn ngi, diễn tả tấm
lịng Kiều dành cho đấng sinh thành. Nàng tưởng tượng
cha mẹ đang tựa cửa ngóng trơng đứa con lưu lạc. Các

từ ngữ "hơm mai", "cách mấy nắng mưa" chỉ nỗi nhớ
mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Thành ngữ
quạt nồng ấp lạnh, điển cố sân Lai, gớc tử đều nói lên
tâm trạng nhớ thương, tấm lịng hiếu thảo của Kiều.
Nàng lo sợ cha mẹ ngày thêm già yếu không ai chăm


sóc, phụng dưỡng. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa
cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được
sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người
và cảnh vật. Nàng ân hận mình đã phụ cơng sinh
thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.
Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu
lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương
nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng
ln hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân
để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của
mình. Từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo,
một người tình thủy chung và là một con người giàu
lịng vị tha, thật đáng trọng.
Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua
cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng
nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng


của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời
chiều hồng hơn thật cơ độc, lẻ loi:
Buồn trơng cửa bể chiều hơm,
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?
Buồn trơng ngọn nước mới sa

Hoa trơi man mác biết là về đâu?
Buồn trơng nợi cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất mợt màu xanh xanh.
Buồn trơng gió ćn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ "buồn trơng" xuất hiện
bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu 6 của mỗi cặp lục bát. Hai
chữ "buồn trông" là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng !‘tê
tái: đau thương ,thương mình và thương người thân,
thương cho thân phận và duvên số... "Buồn trơng" vì


càng buồn thì càng trơng, càng trơng lại càng buồn. Đây
là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “Truyện
Kiều". Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn 
trông". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên
và biến diễn tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua
một hệ thống hình tượng và ngơn ngữ mang tính ước
lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:
"Buồn trơng cửa bể chiều hơm
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa”
Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm
tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc.
'Thuyền ai" lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa
xa' đầy ám ảnh. Câu hỏi tu từ “thuyền ai” như rơi vào
khoảng không, con thuyền kia cứ đi xa khuất hẳn về
phía chân trời. Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của
mình nơi quê người đất khách.



Rồi nàng lại "buồn trơng" về phía "ngọn nước mới
sa", dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi "về
đâu", đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man
mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dịng
đời khơng biết về đâu, đến đâu - Kiều nhìn hoa trôi trên
ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:
"Buồn trơng ngọn nước mới sa.
Hoa trơi man mác biết là về đâu"
Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai" lại hỏi hoa trôi
biết về đâu. Kiều "buồn trông" về bốn phía "chân mây
mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền
xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo
"rầu rầu" của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã
phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc
chốn giang hổ:
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu,


Chân mây mặt đất một mâu xanh xanh".
"Nội cỏ rầu rầu” tàn úa hiện lên giữa màu "xanh
xanh" nhạt nhịa của 'chân mây mặt đất" chính là tâm
trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo
tàn của mình, sắc cỏ "rầu rầu" ấy, nàng đã một lần nhìn
thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:
"Sè sè nắm đất bên dường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh".
Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa "buồn trơng" vừa lắng tai
nghe. Nghe tiếng gió, gió gào, "gió cuốn" trên mặt
duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm” của sóng, khơng phải là
sóng reo mà "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây

"xung quanh ghế ngồi". Mội tâm trạng cô đơn lẻ loi
đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu.
Phái chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu
tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây,


sắp giáng xuống số phận người con gái "nho bé"
đáng thương? Kiều "buồn trông" mà lo âu sợ hãi:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ấm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi".
Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu
Ngưng Bích, viển cảnh là con thuyền và cánh buồm
xa xa trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa
trôi, là nội cỏ rầu rầu giữa màu xanh xanh chân mâv
mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt
duềnh... mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị
thẩm mĩ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên
vừa bao la , mờ mịt, vừa dữ dội, tất cá như đang
bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi
buồn đau hãi hùng, lẻ loi.


Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và
nước mắt có "ma đưa lối, quỷ đem đường",... đối với
Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng
Bích" như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc,
đau khổ vì cơ đơn lẻ loi; buồn thương chua xót vì mối
tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho
thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim
nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu

nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.
Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ
láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh 
xanh”,”ầm ầm”, vừa thực vừa hư, vừa là thực cảnh, vừa
hư là tâm cảnh xoay trịn" … góp phần làm nổi bật nỗi
buồn sợ của Kiều: sự vô vọng, sự dạt trôi, sự bế tắc, sự
chao đảo, nghiêng đổ.


Tóm lại, đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích đúng là
“bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo
kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức
tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng
thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài
thơ mà cịn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân
vật, cho con người và cho cuộc đời. Qua đoạn trích
người đọc thấy được tấm lịng thương cảm, sẻ chia sót
xa của tác giả đối với người phụ nữ tài sắc đức hạnh.
Đoạn trích thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.





×