Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.17 KB, 14 trang )

SKKN: BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM VĂN
PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài

II. Mục đích nghiên cứu

III. Kết quả cần đạt

IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

1
PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu

II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

III. Mô tả nội dung
A. NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC BỘ MÔN TẬP LÀM VĂN
1/ Những nguyên nhân về phía người dạy:
Có rất nhiều nguyên nhân về phía người dạy nhưng tôi thấy nổi lên những điểm lớn
sau đây:
- Người dạy chưa xác định được chuẩn kiến thức của làm văn, nghĩa là: bài
viết của học sinh như thế nào là do thể công nhận được ?
do đó: dạy thế nào có thể la tiết tốt ? nếu xác định được chuẩn này thì chúng ta mới
có thể thống nhất dược khi đánh giá chất lượng dạy cũng như chất lượng học.
- Hiện nay, chúng ta đang có xu hướng nâng cao dần nâng cao mãikết quả bài
làm văn của học sinh. Nghĩa là chúng ta đang mơ tưởng những bài văn quá sức học
sinh trong khi việc dạy của thầy, cô giáo lại chưa đạt dược yêu cầu hướng dẫn, dìu
dắt người học từng bước. Chấm bài thi dễ dàng tìm ra sai sót nhưng làm sao cho
học sinh khỏi sai sót thì nhiều khi, phần lớn chúng ta lại không chỉ ra dược môt
cách đầy đủ đúng hướng cho học sinh.


- Bản thân thầy lúng túng thì làm sao học trò có thể thảnh thơi mà học tốt mà
làm văn tốt dược.
Lớp nào cũng có 4 loại trình độ: Gỏi, Khá, Trung bình, Yếu. Nhưng xác định cho
đúng trình độ này cũng là một vấn dề còn nhiều bàn cãi.
Điểm lúng túng của người dạy còn thể hiện ở những điểm sau:
+ ở mỗi dạng bài, hướng dẫn học sinh thế nào là đủ là đúng hướng dẫn bằng cách
thế nào cho học sinh có hứng thú học, mà viết.
2
Người dạy dang bị quá nhiều ràng buộc trong giờ lên lớp, mà mỗi giờ phải
dạy đầy đủ, không được bỏ sót phần việc nào: Nào ghi bảng ra sao thì được coi là
tố ? Ghi những gì là đủ ? Phiếu học tập thế nào ? Phiéu gồm mấy câu hỏi thì
đủ ?.
- Sách viết về phương pháp dạy làm văn, sách tham khảo hiện nay tuy nhiều
nhưng nói chung đều chưa tốt, gây cho giáo viên không ít khó khăn.
- Về sách giáo khoa : Được viết từ hàng chục năm nay thời gian thay sách kể
cả nội dung và phương pháp đều có nhiều điểm đã lạc hậu lỗi thời, rất khó sử dụng.
- về sách tham khảo : kể cả sách hướng dẫn, đã lạc hậu cả về nội dung và
phương pháp. Điểm khó dùng nhất cho học sinh và giáo viên là có cả gần chục loại
sách “ để học tốt tiếng Việt” nếu dùng tất cả các loại sách thì kết quả sẽ ngược lại.
- Thường là những người viết sách chưa dạy tiểu học bao giờ, tuy có đi dự giờ,
thăm lớp nhưng vẫn không nắm vững bằng những người trực tiép giảng dạy nên
sách vẫn chưa thật hợp lý.
- Do không xuất phát từ thực tế trình độ học sinh, nên sách nào cũng có bài
mẫu. Nhìn chung các bài mẫu còn quá đầy đủ, đến lúc học sinh chỉ việc chép bài
mẫu là đã vượt yêu cầu của thầy,cô. Học sinh chép nhưng thực chất không hiểu mà
chép mọtt chác máy móc. Nên ở một khía cạnh nào đó sách không giúp sự phát
triển mà kìm hãm, đè nế sự phát triển.
- Về phía giáo viên : Nhìn chung giáo viên tiểu học chưa phân tích điều tốt,
chưa tốt của sách cứ có sách là dùng, dùng nhiều sách quá lại đâm ra lúng túng.
Vì vậy cả dạy và học cứ gặp hết khó khăn này đến cản trở khác.

2 / Nguyên nhân về phía người học.
Ở cả lớp 2, lớp 3, nhìn chung khi trả lời câu hỏi, làm các bài, tả, kể, theo
chương trình học sinh đều lúng túng không biết trả lời, viết thế nào là chuẩn là hay.
thông thường các em bắt chước theo bạn, theo thầy cô > Bắt chước hệt như người
khác. (Người khen) là rất thích.
3
Bản chất của làm văn không phải la sự bắt chước máy móc, bắt chước mãi, không
còn gì là của riêng mình, không còn gì của riêng mình thì sẽ trở thành người máy.
Một lớp toàn người máy thì không còn là lớp học. Lớp mà như vậy thì việc dạy và
học đã đi chệch con dường dạy tốt học tốt
- Các phân môn từ ngữ, ngữ pháp, chính tả. Được viết nhiều, viết kỹ nhưng
lại phục vụ ít cho làm văn. Quan điểm “dạy tiếng Việt cho ngưòi bản ngữ” chưa
được thấu triệt. sách viết đẻ dạy tiếng Việt hiện nay sẽ rất tốt nếu dạy cho người
ngoại quốc nhưng lại chưa tốt cho các em người việt học tiếng Việt.
- Nhược điểm rõ nhất là dạy tiếng Việt tách khỏi cuộc sống vốn có của tiếng
Việt. Lẽ ra phải dạy xuất phát từ văn bản tiếng Việt thì dạy tách khỏi văn bản, sau
đó mới trở lại văn bản. Hay nói một cách khác đi, sách tiếng Việt ở tiểu học đang
được viết như viết cho trung học cơ sở hay trung học phổ thông, cho nên học sinh
rơi vào tình trạng học một dường viết một nẻo. Cách dùng vốn tiếng Việt thế nào
cho làm văn thuận lợi trở thành một vấn đè chưa được giải quyết dễ dàng, đúng
đắn, chuẩn mực.
- Được học như vậy, được đọc như vậy, học sinh càng thấy môn văn nói
chung, môn tập làm văn nói rêng là lĩnh vực không thể nào chiếm lĩnh được. Có
chăng, chỉ một tỉ lệ phần trăm ít ỏi là có may mắn học gỏi môn này mà thôi.
3/ Nguyên nhân về phía cha mẹ học sinh:
- Cha mẹ học sinh có thể giúp học sinh Tiểu học, học tốt các môn khác. Riêng
môn tập làm văn, số người có thể phối hợp dạy cho con cái học tốt môn này còn
quá ít. Họ vừa thiếu điều kiện thời gian, vừa chưa được bồi dưỡng nội dung,
phương pháp dạy phối hợp. Vì vậy mà thiếu kiến thức để có thể dạy đôn đốc, dạy
hỗ trợ giáo viên.

- Một nét tâm lý khá phổ biến của cha mẹ học sinh là muốn cho con học thêm
về toán, về các môn tự nhiên, rất í cha mệ muốn cho con học làm văn nếu khoong
có yêu cầu của cô giáo.
4
- Cha mẹ học sinh cũng còn nhựoc điểm là ít mua sách môn tập làm văn cho
các em đọc thường chiều theo ý thích của con thích đọc truyểntang của cảu Nhật
Bản. Hiếm thấy nhữ gia đình xây dựng cho con tủ sách phục vụ tốt cho việc học
môn văn ở tiểu học.
4/ Các nguyên nhân khác:
Có rất nhiều nguyên nhân thuộc về xã hội, tôi chỉ xinn nhấn mạnh nguyên nhân
xuất bản sách:
a) Về phía ngư ời viết :
có nhiều cuốn sách được viết với dụng ý tốt vì muốn giúp cho học sinh học tốt môn
làm văn cho nên sách đều có tiêu đề. “Để học tốt. ” Tuy nhiên cách viết lại chưa
xuất phát từ tiểu học nên càng viết nhiều càng dối dắm. Hãy thử thống kê: Nừu một
học sinh mua cho bằng hết các sách “để học tốt ” thì sẽ tới bao nhiêu cuốn? Chưa
ai nghĩ đầy đủ: Học sinh lớp 4, lớp 5 phải đọc những gì, đọc như thế nào cho làm
văn tốt hơn.
b) Về phía ngư ời in:
Nhìn chung lợi ích của người in là in càng nhiều càng tốt. Do đó các loại truyện
tranh Nhật bản đang tràn lan. Truyện, tranh đang kích thích trí tò mò, khuyến khích
hết tập này đến tập khác. Nhưng nếu người ta không vì tiền mà in các loại sách
không có lợi ích thiết thực cho học sinh học môn văn cũng đẹp, cũng hấp dẫn như
thế thì tốt biết bao.
Công bằng mà nói, đã thấy bên cạnh những “Đô-rê-mon, bảy viên ngọc
rồng,. đã có Dế mèn phiêu lưu ký, lá cờ thêu 6 chữ vàng, An- đéc - xen”. Đáng
mừng là vậy nhưng đáng nói là sách in chưa đẹp (ngoài các bìa sách toàn chữ là
chữ, thiếu tranh ảnh minh hoạ cho học sinh).
Đất nước ta thiếu gì những Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Phạm Hổ, Võ Quảng,.
Thiếu gì những họa sĩ tài ba như: Thi Ngọc, Tạ Lựu Nừu chúng ta đầu tư tiền để

5
in và vẽ minh họa cho những “Dế mèn phiêu lưu ký, Đất rừng phương Nam, Chú
bò tìm bạn ” thì có lợi ích biết bao.
5. Nguyên nhân nào là chính, là cơ bản.
Xuất phát từ công việc người giáo viên cho nên dù đề cập đến nguyên nhân
nào đi nữa thì nguyên nhân đi giảng dạy vẫn là chính, là cơ bản. Cho nên suy cho
cùng vẫn cứ phải dạy sao cho tốt để người học đạt kết quả tốt.
Ở cương vị người đứng lớp, hàng ngày đối diện với tất cả những thực tế đã
nêu ra, tôi thấy: Dù sao, đến thế nào, người giáo viên vẫn phải làm đúng công việc
cụ thể, xuất phát từ những suy nghĩ trên, một lớp học với những học sinh mà tôi sẽ
trình bày ở phần sau đây
B. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ TÔI ĐÃ LÀM:
1. Dạy từ điểm xuất phát của trình độ học sinh nâng dần từng bước.
a) Thực ra điều này không mới. Giáo viên nào cũng phải làm. Riêng tôi
nghĩ, sau ít nhất một tháng tôi phải xác định được học sinh tôi dạy có những điều
tốt, những đièu chưa tốt như thế nào về làm văn.
Tất nhiên nhận xét kết luận ấy còn phải được bổ xung thường xuyên trong
suốt học kỳ, suốt năm học.
Yêu cầu đặt ra là giáo viên phải hiểu thực sự trình độ người học: Em nào loại giỏi,
loại khá, loại trung bình, loại yếu kém về làm văn của lớp mình (chứ không phải
lớp khác).
Điều đó làm cơ sở, làm điểm xuất phát cho bài soạn, cho lượng kiến thức,
cho phương pháp dạy mỗi bài.
b) ở lớp tôi đã dạy và đang dạy, học sinh có những điểm yếu làm văn cụ thể như
sau:
- Các em đều biết một bài văn có ba phần:
6
Mở bài, thân bài, kết luận. Nhưng viết từng phần như thế nào thì lại lúng túng, tôI
giúp các em bằng cách mỗi dạng bài, chọn một bài văn chuẩn để tập phân tích. Từ
đó xác định cho mình có ý từng phần, diễn đạt từng phần.

Trên đây tôi đã nói ở phần nguyên nhân về nhược điểm của sách tham khảo. Hiện
nay rất may mắn, chúng ta đã có cuốn “Tiếng Việt nâng cao lớp 4, lớp 5. Riêng tôi,
tôi thấy 2 cuốn sách đó đúng là sách tốt cho môn tập làm văn, dạy Tiếng Việt về nội
dung, còn có những điều bàn bạc nhưng các tác giả đã nêu ra quan điểm đúng đắn:
Từ một bài văn cụ thể mà dạy các phần từ ngữ, ngã pháp, làm văn đó mới là cách
dạy người bản ngữ. Đó mới đúng quy luật dạy văn vì sách có nhan đề “Nâng cao”
nên bài văn được chọn thường là của học sinh giỏi đã được biên tập. Nên nếu sử
dụng không tốt thì vẫn gây cho học sinh khó khăn.
Từ suy nghĩ đó, tôi sử dụng theo cách dựa sách, viết lại bài văn cho phù hợp với
trình độ của lớp. Tôi viết lại theo những suy nghĩ sau: sao cho phù hợp trình độ học
sinh của mình, sao cho sát hợp với lý thuyết mỗi loại bài; sao cho phát huy được
cái riêng của mỗi loại trình độ học sinh, sao cho các đối tượng học sinh đều được
phát triển và đảm bảa có chất văn chương.
Xin dẫn ra đây một ví dụ:
ở lớp 4, lớp 5, tả cảnh và tả cảnh sinh hoạt là loại bài khó, tôi đã dạy bằng cách
luyện cho học sinh phân tích bài văn:
Bài: Cảnh sắc mùa xuân vùng Trung du “Thuỷ -chợt nhận ra mùa xuân khi mở 2
cánh cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Trước mắt Thuỷ cảnh sắc hiện ra thật huy hoàng”.
Lớp cỏ non đã lác đác phủ lên từng mảng trên những quả đồi chạy tít tắp đến
cuối tầm mắt. Những con đường mòn cũng trở lên mềm mại lượn khúc, lúc ẩn, lúc
hiện trông nhẹ như những chiếc khăn lụa mềm lơ lửng trong gió. Xa hơn, một ít
7
dãy núi đá vôi bỗng nhiên sừng sững uy nghi hơn mọi ngày. Thuỷ hình dung nó
như những thành quách lâu đài cổ từ những thế kỷ xa xưa nào đó.
Mới thoáng trước đây thôi, mùa đông đã làm cho tất cả trở nên huy hoang
vu, già cỗi. Những quả đồi gầy xơ xác, những con đường khẳng khiu và dãy núi đá
vôi kia ngồi im lặng, trầm mặc như những cụ già đến lúc mãn chiều, sế bóng.
Phải chăng, mùa xuân kỳ diệu đã làm thay đổi tất cả? Mọi vật sáng lên, trẻ ra
dưới ánh nắng óng ả, mượt mà như nhung. Đôi mắt Thuỷ bao chùm lên mọi cảnh
vật. Thuỷ say sưa ngắm mãi không chán mắt!

*Sau đây là tr ình tự lớp dạy.
- Đầu tiên tôi đọc, đọc thật hay bài văn.
- Tôi giảng từ (Trung du) bằn cách vẽ nhanh với phấn mầu, cảnh sắc mà bài văn
miêu tả để học sinh có khái niệm: Quả đồi có những mảnh cỏ xanh non, những con
đường ẩn hiện trên các sườn đồi, dãy núi đá vôi sừng sững, uy nghi … và ngôi nhà,
có cửa sổ, vị trí mà Thuỷ đã quan sát.
- Tôi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi.
* Tìm câu mở bài:
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của Thủy?
- Thuỷ quan sát cảnh vật ở vị trí nào?
- Vì sao Thuỷ chợt nhận ra?
- Từ đó tôi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị trí
quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Nếu thử viết, Thuỷ mở cửa
sổ, trông thấy cảnh mùa xuân, thì câu đó chỉ có giá trị thông báa, không có giá trị
thông báa, không có giá trị câu văn.
Mở bài cs thể là một câu, hai câu nhưng phải bảo đảm hai ý đó. Nếu viết hay hơn
sẽ đạt loại giỏi.
8
*Tìm câu kế t thúc bài văn:
(Bài kết thúc bằng 2 câu).
- Câu 1: Kết thúc diễn tả điều gì?
(Một lần nữa, đôi mắt Thuỷ ngắm toàn bộ cảnh sắc mùa xuân.)
- Câu 2: Kết thúc diễn tả bài gì?
(Diễn tả niềm say sưa của Thuỷ và cảnh sắc xuân đẹp, nhìn mãi không chán)
Tôi kết luận: Kết thúc vừa tả cảm xúc của mình vừa gây ra truyền cảm cho người
đọc.
Nếu chỉ viết: Cảnh sắc mùa xuân đẹp thật thì cũng chỉ là thông báo, chưa phải là
câu văn, câu văn phải có cảm xúc của mình và truyền cảm.
- Vị trí quan sát của Thuỷ có gì đặc biệt?
(Thuỷ ngồi trước cửa sổ, Thuỷ không ra ngoài).

Vị Trí chỉ cho phép diễn tả những điều trông thấy. Nếu Thuỷ ra ngoài thì phảI biết
cả những điều nghe thấy, cảm thấy nữa.
* Thân bài có mấy ý lớn?
- 2 ý lớn: + Cảnh sắc mùa xuân trước mắt Thuỷ
+ Cảnh sắc mùa đông trong trí nhớ Thuỷ
Đọc ý lớn thứ nhất:
+ Câu 1 diễn tả điều gì? (Diễn tả cái nhìn bao quát cảnh sắc)
+ Thuỷ - Tả tỉ mỉ cảnh sắc, nhìn thấy những chi tiết nào?
(Từ gần đến xa, đến xa hơn)
+ Tìm những từ láy trong câu miêu tả thời tiết? Thuỷ - tả chi tiết bằng cách nào?
+ Ngoài những từ láy, so sánh, nhân hoá, Thuỷ - còn diễn tả cảm xúc của mình, câu
nào diễn tả cảm xúc?
ý 2 miêu tả gì? Nếu bỏ ý 2 đi thì cảnh sắc mùa xuân được tả sẽ ra sao?
+ Như vậy ý 2 của thân bài ngược lại với ý 1, cảnh đó có tên gọi là gì?
(Cảnh đối lập)
+ Hãy tìm những chi tiết đối lập?
9
(Đối lập từ: Huy hoàng, hoang vu, già cỗi, mềm mại, lửng lơ, xác xơ, khẳng khiu,
sừng sững, uy nghi, im lặng, trầm mặc …).
(Đối lập ý: QUả đồi trong xuân, đồi trong đông. Dãy núi đá vôi mùa xuân, dãy núi
đá vôi mùa đông …)
- Hãy gọi tên những kiểu câu trong bài?
(Câu kể, câu cảm, câu hỏi).
- Nếu trong các câu cảm, câu hỏi bằng câu tả thì giá trị bài văn sẽ thế nào?
* Hãy luyện tậ p theo đ ề bài và yêu cầu sau.
- Dựa theo cách viết của bài đã phân tích, em hãy viết 2 câu mở bài giói thiệu cảm
xúc ngôi nhà của gia đình em? Hay trường tiểu học em đang học? Hoặc chậu cây
trồng của bố hay ông em trồng …
- Hãy viết 2 hay 3 câu kết bài của những đề trên đây:
- Bài làm ở nhà:

Theo cách viết của bài chọn viết cả bài văn miêu tả một trong những bài văn sau
đây.
* Tôi cũng dùng những câu hỏ i đ ể dạy từ ngữ, ngữ pháp mà sách đ ã nêu đ ể vừa dạ y
các phân môn đó vừa bổ sung cho dạy tập là m văn.
Tôi xin dẫn ra đây một bài đạt điểm 7:
Hôm nay đi học về gần đến nhà, tôi bỗng nhận ra vẻ đẹp của ngoi nhà mới sửa sang
của bố mẹ tôi, cái màu vôI xanh hiện ra trước mắt tôi thật đẹp. Nhà tôi chỉ có 2 tầng
thôi nhưng đẹp hơn mấy nhà 3 tầng bên cạnh. Trên tầng 2 cửa sơn màu nâu nhạt,
viền những khuôn nâu sẫm trông thật bóng. 2 cửa sổ nơi cho tôi ánh sáng vào góc
học tập và giường nằm của tôi cũng đẹp không kém ngoài hiên, những bông Hồng,
bông Cúc lấp ló sau dãy lan can bằng sắt sơn xanh. Cửa vào tầng một có 2 lớp, lớp
ngoài là cửa sắt sơn vàng nhạt, có những lơp tôn sáng óng ánh, cửa trong bằng sắt
sơn xanh. Cửa vào tầng 1 có hai lớp, lớp ngoài là cửa xếp bằng sắt sơn vàng nhạt,
có những lớp tôn sáng óng ánh …
10
Mới năm ngoái khi tôi đang học lớp 3, nhà tôi chỉ có một tầng. Tường có thể
đã nở vôi trơ cả gạch. Những hôm trời mưa to, dội tứ tung ướt cả áa quần, sách vở
của tôi.
Bố Mẹ tôi bảa đã dồn hết cả sức, cả tiền để sửa sang nhà đấy.
Tôi yêu nhà tôi lắm.
- Nếu đọc phần làm văn ở lớp 4 và 5 trong SGK thì thấy: Vừa đơn giản quá,
vừa bao quát quá, vừa có phần lạc hậu so với hoàn cảnh ngày nay.
Tôi thấy đã đến lúc và cần phải viết lại sách dạy làm văn theo cách của các tác giả.
Sách “Tiếng Việt nâng cao” lớp 4, lớp 5. Tôi nghĩ đó là cách tốt nhất, hiệu quả
nhất.
2. Dạy thu hút học sinh học văn, làm văn bằng những biện pháp hỗ trợ:
a. Học sinh tiểu học có đặc điểm tâm lý là thích học say sưa và ngược lại.
Những bài văn được chọn lọc trong SGK hiện nay có nhiều ưu điểm nhưng
nhìn chung còn người lớn quá, chất trẻ con trong bài còn qua ít, mặt khác chất văn
chương trong nhiều bài cũng còn ít, chúng ta vẫn đang nặng nề nội dung mà còn

coi nhẹ văn chương. Cho nên học những bài đó có thể đạt kết quả cao về tinh thần,
tư tưởng nhưng sẽ không cao về tâm hồn nghệ thuật, càng ít kết quả về sáng tạo,
thông minh hồn nhiên ngây thơ.
b. Như vậy bài văn thiếu tính hấp dẫn. Học sinh tiểu học không thích những
bài đó. Đó cũng là nguyên nhân dạy làm văn khó đạt kết quả cao.
Tôi chọn dạy thêm những bài văn như trên đây. Đặc biệt chọn những bài thơ
phù hợp với tuổi các em để dạy cảm thụ, dạng viết từ cảm thụ cái đẹp, cái hay, cái
lạ của thơ văn.
Xin dẫ n ra đây m ột vài ví dụ
- Tôi chọn bài “ngủ rồi”
Gà Mẹ hỏi gà con
Đã ngủ chưa đấy hả?
11
Cả đàn gà nhao nhao
Ngủ cả rồi đấy ạ!
- Hoặc bài: “Ngựa con”
Ngựa Cha đi móng sắt
Bật lửa đá dưới chân
Ngựa con thấy kêu ầm
“Bố ơi! chân Bố cháy!”
Trong thơ Phạm Hổ có biết bao nhiêu bài viết về những đề tài quen thuộc,
gần gũi mà lại rất lạ với trẻ em. Cái lạ là sự tinh tế trong quan sát rồi viết ra những
điều ấy. Đó chính là văn chương, là tâm hồn, là thông minh rất cần cho làm văn!
Những bài thơ loại ấy chỉ cần đọc thật hay là đã gieo vào tình cảm học sinh biết
bao nhiêu vốn liếng cho văn chương hoặc cần dạy học sinh những bài:
Nguồn gốc cú đá hậu của họ hàng nhà Ngựa của Nguyễn Hoàng Sơn.
Con ngựa xưa thuần lắm
Suốt đời ăn cỏ xanh
Nên tính khí hiền lành
Sừng cũng không mọc được

Nhưng nhiều khi rất cực
Hiền nên lắm kẻ trêu
Có cái đuôi mỹ miều
Họ cũng lừa cắt mất!
Ngựa mất đuôi ấm ức
Về suy nghĩ ba đêm
Hiền nhưng không thể hèn
12
Phải luyện chân cho khoẻ!
Ấy đầu đuôi là thế
(Hoa hồng phải có gai)
Vì quý cái đuôi dài
Ngựa có thêm cú đá!
Sau khi giảng, tôi cho học sinh luyện đọc cá nhân, chọn em đọc hay nhất dạy
đọc nghệ thuật làm tiết mục biểu diễn. Tôi cho học sinh viết những đề tài; Hãy giải
thích xem, vì sao mèo có móng sắc, vì sao Chuột hay diệt Mèo, Vì sao Chó- Mèo
ghét nhau…
Dần dần các em không sợ làm văn nữa, yêu thích và viết được, có những học
sinh (tuy ít thôi) nhưng viết hay, viết giỏi.
3. Tôi yêu cầu phụ huynh học sinh chuẩn bị điều kiện học văn tốt cho con
cái:
Với phụ huynh dễ gần, dễ thân, dễ đề xuất, tôi yêu cầu mỗi tháng mua cho
con sách gì, tôi hướng dẫn cách đọc và tìm hiểu nội dung, cha mẹ hỗ trợ điều gì…
Khi có em viết bài tốt, tôi yêu cầu cha mẹ đọc và có nhận xét.
Với những em học sinh giỏi, thích viết tôi yêu cầu cha mẹ khuyến khích các
em tập viết nhật ký để luyện câu văn…
Còn tôi với đại trà học sinh, tôi yêu cầu cha mẹ theo dõi kết quả học làm văn,
hỏi giáa viên những yêu cầu cần thiết để hướng dẫn các em làm văn mỗi ngày
IV. Kết quả nghiên cứu
….

13
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi rút ra được trong quá trình giảng dạy
bộ môn tập làm văn, không biết những nội dung đặt ra có đáp ứng được chút nào
với yêu cầu chỉ đạo!
Tôi chỉ muốn bằng tâm hồn, lương chi của người “Vì tương lai con em
chúng ta” mà đề xuất suy nghĩ, kể lại việc làm.
Qua nghiên cứu việc hướng dẫn học sinh học tốt môn tập làm văn, Tôi chỉ
thấy đây là một vấn đề rất quan trọng đối với việc giúp học sinh học tốt môn Tiếng
Việt nói chung. Học sinh có học tốt môn Tiếng Việt mới có đỉều kiện thuận lợi
để tiếp thu tất cả các môn học khác như: Toán, ngoại ngữ, tự nhiên xã hội …
Vì thế trong nhà trường tiểu học, để giúp các em học tốt lên các lớp trên,
cũng như sau này khi bước vào cuộc sống các em có kiến thức toàn diện, có trình
độ cao, có năng lực của một người công dân thì thấy cô giáo ở tiểu học phải có
trách nhiệm giúp đỡ các em học tốt môn tập làm văn từ những bài đầu tiên.
II. Kiến nghị

Do trình độ và năng lực có hạn nên vấn đề trình bày còn nhiều hạn chế. Tôi
rất mong được sự giúp đỡ của ban giám khảo.
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết
14

×