1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
TIỂU LUẬN
MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
“KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ GIAI ĐOẠN 2007-2009”
Giảng viên hướng dẫn: TS. Mai Thu Hiền
Nhóm: 6
Học viên: Phạm Thị Mai Anh
Đỗ Mạnh Cường
Phạm Thị Thu Hoài
Lương Thị Xuân Hồng
Lương Thị Hồng Loan
Nguyễn Hồng Anh
Lớp: 19A TCNH
2
LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế Mỹ dù đã đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại
cho nền kinh tế nhiều nước là hết sức nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang gồng
mình vật lộn với những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực,
bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp dẫn
đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010.
Khủng hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một
tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo theo nó là bao
nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu.
Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là gì? Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây
ra như thế nào? Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng
hoảng đó hay không? Vâng, đó cũng chính là nội dung mà nhóm chúng tôi đã tổ chức thảo
luận để tìm ra lời giải. Từ đó có một cách nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ
2007-2009.
Tiểu luận gồm 5 phần:
Chương I: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
Chương II: DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Chương III: TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
Chương IV: BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA MỸ
Chương V: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
3
CHƯƠNG I: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
Khủng hoảng tài chính xảy ra tại một trong những thị trường tài chính lâu đời và lớn
mạnh nhất thế giới. Hàng loạt các ngân hàng lớn ở Mỹ đã sụp đổ và ảnh hưởng của nó trên
phạm vi toàn thế giới thực sự khiến thế giới phải kinh ngạc. Có thể có nhiều quan điểm về
nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng . Vậy nguyên nhân nào dẫn tới cuộc khủng hoảng tài
chính Mỹ và kéo theo đó là khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể coi là tồi tệ nhất trong lịch
sử phát triển của thế giới? Nhóm chúng tôi xin phân tích dựa trên những nguyên nhân như sau:
1.Khủng hoảng nợ dưới chuẩn
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các
khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có
giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, khi sự bùng nổ của giá nhà đất trở nên đỉnh điểm, số
lượng các giấy tờ đã được giảm thiểu tới mức thấp nhất. Các khoản vay này còn được gọi là
“không giấy tờ” bởi vì chúng hầu như không được bảo đảm bằng bất kỳ giấy tờ nào. Điểm tín
dụng trở thành tiêu chuẩn duy nhất. Nếu điểm tín dụng của một cá nhân thấp thì khoản vay
mang hình thức dưới chuẩn (Đây là khoản vay với chất lượng thấp hơn so với khoản vay đạt
chuẩn, vốn được cho vay với đầy đủ các giấy tờ cần thiết). Để bù đắp lại rủi ro cao, những
khoản vay này là những khoản vay với lãi suất cao hoặc người đi vay phải vay theo lãi suất
ARM với lãi suất ban đầu thấp sau đó được điều chỉnh dần lên những mức cao hơn. Theo
truyền thống, người mua thường muốn vay tiền mua nhà với lãi suất cố định hơn là lãi suất linh
hoạt, theo đó, họ sẽ phải thanh toán hàng tháng tiền lãi với lãi suất cố định trong suốt 30 năm.
Tuy nhiên, lãi suất ARM lại rất thấp với thời hạn từ 3 đến 5 năm. Chính vì vậy, nó đã thu hút
được những người mua có thu nhập thấp.
2.Chứng khoán hóa
Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong
môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.
4
Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo
bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một
phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan
đến chứng khoán hóa (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín
dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo
hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự
ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết
cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro
đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng
hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này.
Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường
tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm
vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra
toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và
mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm
trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và
chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã
làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức
phát hành MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của
mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8
năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài
chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers
sụp đổ.
5
3, Bong bong thị trường nhà ở
Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh).
Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở.
Khi bong bóng dot.com bị bể, chính phủ và các kinh tế gia Hoa Kỳ bày ra chiến dịch “mỗi
gia đình làm chủ một căn nhà” để phát triển kinh tế dựa trên chương trình cho vay với lãi suất
thấp trong mấy năm đầu và cao cho các năm sau (sub prime rate), viết tắt SP. Đôi khi, các nhà
tín dụng còn mạo hiểm cho con nợ vay tiền mua nhà có tên là Ninja tức là người vay tiền
không cần có công ăn việc làm, không cần trả tiền vốn ban đầu và không cần trả nợ trong các
năm đầu. Tóm lại, bất cứ ai chỉ cần ký tên vay tiền là có thể làm chủ căn nhà.
Chẳng hạn, giá nhà bán 100 đô-la, ngân hàng cho vay 120 đô-la (cao hơn giá nhà mua).20
đô-la, đồng được xử dụng để trả tất cả chi phí như tiền vốn ban đầu, tiền lời cho các năm đầu,
6
kể cả các dịch vụ mua nhà cửa. Các năm kế tiếp, người mua nhà sẽ trả tiền lời cao hơn. Những
người mua nhà đầu tư hy vọng giá nhà tăng, họ có thể bán lại căn nhà đầu tư để kiếm lời.
Bong bóng Dot.com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11 tháng 9,
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước này khỏi
suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng
5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn
1,75%. Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển của khu vực
bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường tín
dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm
,
kể cả cho những người
nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình
thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ
và 12% mua chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ.
Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm
đó, tổng giá trị tích lũy các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ đô-la.
Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín
dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến
cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt obligations)
và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của mortgage-backed security)
do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản
của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc
khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra.
Tóm lại, sự cho vay dễ dãi của các ngân hàng tín dụng tại Hoa Kỳ đã đưa tới sự sụp đổ
thị trường bất động sản, kéo theo sự lỗ lã của các ngân hàng, làm cho các ngành nghề khác bị
đóng cửa, thợ thuyền thất nghiệp. Tiền đầu tư, hưu trí của dân chúng bị bốc thành hơi.
7
CHƯƠNG II: DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
1, Toàn cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ (2007-2009):
Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm vào một trong
những cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa
chấm dứt, hậu quả vẫn chưa lường hết.
Những người phản đối kế hoạch giải cứu tại Phố Wall. (Ảnh: Foxbusiness)
* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không
bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi
đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới
chuẩn ở Mỹ
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu
chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong
khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
* Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation
phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất giá
mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này
đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng
8
thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ
chính thức nổ ra
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi
rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng
lớn thứ 5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận
Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám
đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận
Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám
đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn
Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này
đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở
Sydney.
Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh
tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy
mô của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống
dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm
2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi.
GDP trong quý IV năm 2007 đã giảm mức tăng đáng kể, chỉ tăng 0,6% so với mức tăng 4,9%
quý III/2007
Năm 2008-2009: Đại suy thoái
9
Tình hình phá sản 2007-2008
Năm 2008 bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên
1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải các
khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản thua lỗ nặng.
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá
thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế
chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng
tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng
hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc
khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng không
nổi. 16-17/3/2008, công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ
phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi
khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và
buộc lòng để công ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp
của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế
sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán
được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp.
Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người
gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
10
* 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số
tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn
nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
* Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và lâu
đời nhất của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác
* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn
chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình.
Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
Các nhân viên của Lehman Brothers. (Ảnh: foxbusiness)
* 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cổ phần sau khi từ
chối đề nghị mua lại của Lehman Brother
* 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ
khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ
phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American
11
International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những
khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
Tập đoàn AIG. (Ảnh: Foxbusiness)
* 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền
tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính
toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và
nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của
Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
* 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB
của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống.
* 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài
sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.
* 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman
Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết
thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
* 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của
Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông.
Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
12
* 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang
Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc
khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
* 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ
cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên
bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết
kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài
sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những
điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
WaMu - một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụ
p
đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trườ
ng cho vay
thế chấp. (Ảnh: Foxbusiness)
* 29/9: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng
ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức
giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
13
* 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số
điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và
cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ
quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD
*Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ. Khi Iceland lâm vào phá
sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp thông báo kế hoạch cứu nguy nền kinh tế.
Trong quý 4 năm 2008 GDP của Mỹ đã giảm 3.8% theo báo cáo đầu tiên ngày 30 tháng
giêng năm 2009 rồi điều chỉnh lại là 5.4% chứng tỏ suy thoái đang gia tăng.
Cũng trong năm này, nhập siêu 813 tỷ 800 triệu đô-la nghĩa là xuất cảng được 1377 tỷ nhưng
nhập cảng 2190 tỷ đô-la.
Chỉ số kỹ nghệ trung bình của Mỹ khoảng 14164 vào 9/10/2007 đến 27/2/2009 chỉ còn
7067, mất gần 50% chứng tỏ nước Mỹ đã rơi vào đại khủng hoảng kinh tế.
Tính cả năm 2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 2,4%, mức tăng trưởng tính theo năm thấp
nhất từ năm 1946
14
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH MỸ
1. Đối với Hoa Kì
Cuộc khủng hoảng đã đưa nước Mỹ bước vào thời kì tồi tệ nhất trong lịch sử từ sau cuộc đại
suy thoái thập niên 1930.
Hàng loạt các ngân hàng hàng đầu thế giới như Lehman, Merrill Lynch,… tuyên bố phá
sản hoặc bị bán rẻ cho nước ngoài.
Năm 2008, Mỹ nợ 10000 tỷ đô-la, một món nợ lứn nhất mà chưa quốc gia nào có.
Năm 2009, kinh tế mỹ tăng trưởng âm 2,4%, thấp nhất từ 1946.
Tỉ lệ thất nghiệp tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tiêu dùng của các hộ gia đình
giảm làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Hàng hóa ế thừa, mức giá chung của
nền kinh tế giảm liên tục, dẫn đến lạm phát cao.
Tỷ lệ thất nghiệp Hoa kì (%)
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
2007 4.6 4.5 4.4 4.5 4.5 4.6 4.7 4.6 4.7 4.8 4.7 4.9
2008 4.9 4.8 5.4 5.0 5.5 5.6 5.8 6.2 6.2 6.6 6.8 7.2
2009 7.6 8.1 8.5 8.9 9.4 9.5 9.4 9.7 9.8
Cuộc khủng hoảng đã làm cho nền công nghiệp hàng đầu nước Mỹ sụp đổ-Công nghiệp ô tô
với sự kiện phá sản của ba hãng ô tô hàng đầu là General Môtors (GM), Ford Motor và
Chrysler.
Tình hình khủng hoảng của ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ thể hiện rõ nhất qua tình hình
kinh doanh của Detroit's Big Three từ quý IV năm 2007. Tháng 2 năm 2008, GM thông báo
rằng năm 2007 hãng bị lỗ 38,7 tỷ dollar (trước khi trừ thuế và phần trả nợ). Ford có mức lỗ
kinh doanh trong năm 2007 là 2,723 tỷ dollar. Sang năm 2008, tình hình kinh doanh càng tồi tệ
hơn. Doanh số của 3 hãng chế tạo ô tô lớn nhất nước này trong năm 2008 giảm xuống mức
15
thấp ngang hồi thập niên 1950. Tám tháng đầu năm 2008, Chrysler bị lỗ tới 400 triệu dollar.
GM bị lỗ trước thuế 4,2 tỷ dollar chỉ riêng trong quý III năm 2008, trong khi Ford lỗ 2,75 tỷ
dollar.
Mặc dù nhận được các khoản vay của Chính phủ nhưng các công ty này vẫn lần lượt
tuyên bố phá sản.
Tỷ trọng của nền kinh tế Hòa Kỳ đối với kinh tế thế giới càng giảm, tỷ trọng này năm
2008 là 23.79% - mức thấp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây, giảm 8% so với năm 2001. Tốc
độ tăng trưởng trung bình của kinh tế Hoa Kỳ giảm từ 3,42%/năm (từ 1991-2000) xuống
1,61%/năm (từ 2001- 2010) trong khi tốc độ tăng trưởng trung bình của kinh tế thế giới tăng từ
3,07%/năm (1991-2000) lên 3,2%/năm (2001-2010). Trong suốt giai đoạn 10 năm trở lại đây,
kinh tế Hoa Kỳ liên tục có tốc độ phát triển thấp hơn tốc độ trung bình của toàn thế giới. Giá trị
đồng USD giảm sút, tính đến tháng 9 năm 2009, đồng USD đã mất giá 10% so với tháng 12
năm 2005 và 18% so với tháng 12 năm 2000 (tính theo tỷ giá USD/SDR).
Bảng 2: TỶ GIÁ NGOẠI TỆ TÍNH TRÊN SDR THÁNG 9 NĂM 2009
Tiền tệ
% thay đổi so với
12/2005
% thay đổi so với
12/2000
USD -9,3 -17,8
EURO 11,4 32,7
Yên 17,6 9,9
Nhân dân tệ 7,2 - 0,5
2. Đối với thế giới
Hoa kì là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế Mỹ suy
thoái, xuất khẩu nhiều nước bị thiệt hại. Nhất là các nước xuất khẩu theo hướng đông á. Một số
16
nền kinh tế như Nhật bản, Đài Loan, Singapo rơi vào suy thoái, Các nền kinh tế khac tăng
trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có mối quan hệ mật thiết với Mỹ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài
chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây lâm vàophá sản đến mức khủng hoảng ở một
số nước như Iceland, Nga…Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc khủng hoảng kể từ
ngày đầu thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn bị rút
khỏi khu vực và giá dầu giảm mạnh.
Khủng hoảng ở Mỹ là nguyên nhân cuộc khủng hoản kinh tế toàn cầu 2008-2009
Chi phí để thế giới khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng này là khoảng 11.900 tỉ USD,
theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Điều đó có nghĩa là nếu chia bình quân, mỗi
người trong thế giới 6,7 tỉ dân vào thời điểm đó đã có thể có thêm 1.779 USD nếu cuộc khủng
hoảng không xảy ra.
Tính ra thiệt hại tương đương 1/5 sản lượng kinh tế toàn cầu đã biến mất. Khoản tiền chi ra để
cứu nguy nền kinh tế thế giới lần này là lớn nhất trong lịch sử. Theo tính toán của IMF trong
báo cáo đưa ra trước dịp “kỷ niệm” hai năm bắt đầu khủng hoảng, chi phí cứu nguy này vẫn
đang tiếp tục tăng. Hầu hết số tiền chi ra là từ các nước phát triển, với con số lên tới 10.200 tỉ
USD. Trong khi đó, các nước đang phát triển chỉ chi 1.700 tỉ USD.
GDP toàn cầu năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm 2008 (đây là lần đầu tiên GDP toàn
cầu tăng trưởng âm trong vòng 20 năm trở lại đây), kéo tốc độ phát triển trung bình của toàn
giai đoạn đi xuống, từ 4,04%/năm cho giai đoạn 2001 đến 2007, xuống còn 3,2% cho cả giai
đoạn 2001-2010. Trong năm 2010, ước tính kinh tế thế giới đã bước đầu phục hồi với tốc độ
tăng trưởng là 4,8% tuy nhiên tốc độ tăng trưởng này được dự báo sẽ giảm xuống 4,2% trong
năm 2011 và tăng trở lại vào năm 2012 (IMF).
17
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu 2000 - 2010
Đồ thị 2 : Tăng trưởng xuất khẩu và GDP toàn thế giới
(1990 – 2010)
Nguồn: IMF Data Statistic
18
CHƯƠNG IV: BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA MỸ
1, Cục Dự trữ Liên bang (Fed):
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ
lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8
năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng
tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên
ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng
(18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn
0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại trái phiếu chính phủ Hoa Kì hiện có), hạ
lãi suất,
Chủ trì chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến
84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Fed còn tiến hành cho
vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng
11 năm 2008.
2, Chính phủ
Trước tình hình khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, chính quyền Bush đã trình quốc
hội thông qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ do Đảng Dân chủ Hoa Kỳ
chiếm đa số bác bỏ vì cho rằng không thể phí tiền để cứu không được quá nhiều tổ chức tài
chính gặp khó khăn. Song sau khi kế hoạch sử dụng 700 tỷ dollar được điều chỉnh sang hướng
chi cho cả các chương trình phục vụ đông đảo người dân nhằm kích thích tiêu dùng (như trợ
giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ dinh dưỡng cho người nghèo và người thu nhập thấp, phát
triển cơ sở hạ tầng), qua đó vực dậy nền kinh tế, nó đã được Thượng viện thông qua. Ngày 3
tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký Emergency Economic Stabilization Act of 2008
cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ dollar này.
19
Dù theo đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ, nhà cầm quyền Hoa Kỳ chỉ có thể can thiệp
vào sinh hoạt kinh tế một cách gián tiếp qua hai hệ thống tiền tệ và tài chính. Theo hệ thống
tiền tệ, chính phủ có thể giảm lãi suất để những người vay nợ có thể trả tiền nhà hay các hãng
có thể mượn nợ để khuếch trương xí nghiệp; tức là tạo công ăn việc làm. Hành động này nhằm
mục đích chận đứng giá nhà đổ, đồng thời làm giảm con số thất nghiệp.
Tổng thống Obama phải đối phó nhiều vấn đề cấp thiết và cần thiết cho sự khủng hoảng
kinh tế 2008 tại Hoa Kỳ. Thứ nhất là tạo niềm tin của người dân vào hệ thống tiền tệ; thứ hai là
chận đứng thất nghiệp đang gia tăng; thứ ba là kích thích nhu cầu thị trường; tức là làm tăng
mức cung để tạo công ăn việc làm cho dân chúng. Do đó, trước tình trạng khẩn trương khủng
hoảng kinh tế, quốc hội Hoa Kỳ đã phê chuẩn cho tổng thống Obama xử dụng số tiền 800 tỷ
đô-la để cứu nguy kinh tế Hoa Kỳ.
Nhằm mục đích tạo niềm tin hệ thống ngân hàng, chính phủ giúp một vài ngân hàng, tín dụng
hay hãng bảo hiểm (thí dụ AIG) để bảo vệ số tiền hưu trí của người dân
Nhằm mục đích chận đứng nạn thất nghiệp, chính phủ phải giúp các đại công ty; thí dụ ba
hãng xe hơi GM, Chrysler và Ford
Nhằm mục đích tăng mức cầu, chính phủ giảm lãi suất, giảm thuế, xây cất các công tác hạ tầng
cơ sở để tạo công ăn việc làm và kích thích thị trường tiêu thụ
Nhằm mục đích làm giảm nạn thất nghiệp trong nước, khuynh hướng bế quan tỏa cảng gia
tăng. Khuynh hướng này bị thế giới lên án. Kinh tế toàn cầu do Hoa Kỳ đề xướng có thể bị thất
bại nên tổng thống Obama đã bãi bỏ quyết định này; nhưng tinh thần “nhà ai nấy lo” càng ngày
càng được sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ.
Chính phủ và quốc hội cũng đã thông qua nhiều bộ luật quan trọng, trong đó có Luật Tái
đầu tư và phục hồi năm 2009, ban hành 17-2-2009 có mục tiêu là hồi phục lại nền kinh tế của
Mỹ đang suy thoái trầm trọng.
+ Luật này nhằm tạo ra công ăn việc làm, cố cứu vãn một số công việc và cố gắng khôi
phục sản xuất.
20
+ Thúc đẩy việc mua hàng của khách hàng (giảm thuế, các khoản trợ giúp cho những
người nợ địa ốc,….)
+ Dùng lưới điện thông minh nhằm mục đích hạn chế nhập cảng dầu thô.
+ Các khoản trợ giúp cho giáo dục, y tế, đặc biệt là phát triển công nghệ và năng
lượng……
Trong luật này có một phần dành cho đầu tư cỏ sở hạ tầng như chương trình Tân kinh tế của
Tổng thống Roosevelt năm 1933 trong kì đại khủng hoảng kinh tế 1929-1939.
Tổng số gói kích cầu cho dự án này là 787 tỉ đô-la.
Sự thành công hay thất bại của luật này phụ thuộc vào 11 điểm sau:
1- Phân lời thực sự của Quỹ Liên bang (Real Federal Funds rate).
Phân lời của Quỹ Liên bang là phân lời (rate) của các ngân hàng cho vay lẫn nhau đoản
kỳ. Phân lời thực sự của Quỹ Liên bang là phân lời của các nhà băng cho vay ngắn hạn trừ đi
chỉ số lạm phát.
2- Đường biểu diễn phân lời hàng năm: (Interest rate yield curve)
3- Độ lệch phiếu nợ (Bond) của các công ty: (Corporate bond spread)
Độ lệch phiếu nợ AAA là hiệu số giữa phân lời hàng năm của các công ty và phân lời hàng
năm của công khố phiếu 10 năm. Thí dụ phân lời công khố phiếu 10 năm là 3.5% và của công
ty là 6% thì hiệu số này 2.5%
4- Số giờ làm việc (Worked hours) của khu vực tư:
Số giờ làm việc có chỉ số 2002 là gốc 100 (so sánh với 2002). Người ta định nghĩa số
giờ làm việc tùy theo các hãng tư cần sản xuất nhiều thì công nhân được làm thêm giờ tức là
giờ làm việc phụ trội và nếu số giờ làm việc này giảm tức là nền kinh tế không khá. Thường
thường tại các hãng tư khi nào kinh tế phát triển thì công nhân mới phải làm giờ phụ trội. Như
vậy số giờ làm việc này ổn định hay là tăng lên trong 3, 4 tháng liền thì chỉ số này chứng tỏ
21
nền kinh tế đang trên đà hồi phục. Cụ thể là tháng giêng năm 2009 số giờ làm việc của công
nhân có chỉ số 102.9, tháng 2 là 102.2, tháng 3 là 101.2, tháng 4 là 100.4, tháng 5 là 9.99, tháng
6 là 9.94, tháng 7 là 99.2, tháng 8 là 99.1…
6- Đơn đặt mua hàng hóa phi quốc phòng: (non defense capital goods orders)
Đơn đặt hàng phi quốc phòng là chỉ số kinh tế khi các nhà đầu tư chủ các hãng tin tưởng
vào nền kinh tế thì các công ty mới đầu tư vào máy móc mới, các máy điện toán và các hàng
hóa
Trong năm 2009, số đơn đặt hàng giá trị hàng tháng đều dưới 35 tỷ và chứng tỏ nền kinh tế của
Hoa Kỳ chưa được hồi phục.
7- Tiền tệ lưu hành (Money Supply):
Tiền tệ lưu hành còn có tên là tiền tệ cung cấp, là số tiền ký thác ở ngân hàng và trong
Quỹ Thị trường Tiền tệ (Money Market Fund) sau khi đã điều chỉnh vì lạm phát là trị số tín
dụng của số tiền có thể sử dụng được.
8- Giá chứng khoán
9- Chỉ số ISM.
ISM viết tắt của chữ Institute for Supply Management Index, viện quản lý chỉ số
hàng cung cấp.
10- Giá dầu thô
11- Số xe bán được
7 trong 11 chỉ thị kinh tế đã kể trong những loạt bài trước có chỉ số dương trong tháng 9 bao
gồm số giờ làm việc, giấy phép xây cất, đơn đặt hàng hóa phi quốc phòng, giá trị chứng khoán,
đơn đặt hàng xuất cảng gia tăng, lãi suất thực sự của quỹ Liên bang, đường biểu diễn tiền lời
hàng năm.
22
CHƯƠNG V: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH MỸ
Mở cửa kinh tế và hội nhập đã mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam nhưng đồng thời
cũng khiến chúng ta phải đối mặt với nhiều nguy cơ hơn khi xảy ra biến động. Tác động của
cuộc khủng hoảng này có tính hai mặt, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu
cũng như của Việt Nam. Do hội nhập ngày càng sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới nên Việt
Nam cũng chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp.
1. Những tác động đến nền kinh tế Việt Nam
+ Tác động đến tăng trưởng nền kinh tế:
Khủng hoảng dã làm cho tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giảm và tỉ lệ thất nghiêp tăng
cao. Thực tế năm 2008, tốc độ này chỉ đạt 6,23% ( dự báo của Quốc hội là 7%), thấp nhất trong
vòng 9 năm qua. Sản xuất thu hẹp, thu nhập giảm sút, that nghiệp gia tăng.
+ Tác động đến FDI:
Trái với tất cả nhiều dự đoán ban đầu cho rằng FDI Việt Nam sẽ giảm mạnh do ảnh
hưởng của khủng hoảng, tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm
2008 tăng kỉ lục trong hơn 20 năm. Tính đến 19/12/2008, tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt
Nam hơn 64 tỷ đô-la Mỹ, tăng 199,9% so với 2007.
+ Tác động đến xuất khẩu Việt Nam
Xuất khẩu của Việt Nam đã bị ảnh hưởng khá nhiều bởi Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam
Tình hình trên đã đưa đến kết quả là cả năm 2008 xuất khẩu chỉ đạt khoảng 64 tỉ đô-la,
tăng 31,8% so với 2007. Xuất khẩu đã giảm không chỉ về số đơn đặt hàng mà cả về giá bán
của hàng hóa xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp trong nước đã gặp khó khăn do tiêu thị hàng hóa
giảm và thiếu vốn đầu tư.
23
2. Việt Nam đã làm gì để đối phó với khủng hoảng
Chính phủ Việt Nam đã đề ra 05 nhóm giải pháp cơ bản như sau:
- Giải pháp thúc đẩy sản xuất - kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu
- Giải pháp đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng
- Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt
- Thực hiện sâu rộng chính sách an sinh và xã hội
- Phối hợp tốt trong tổ chức chỉ đạo, điều hành
3. Bài học rút ra từ khủng hoảng
Thực tế đã cho thấy, Trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam đã, đang và sẽ bị thử thách, kết qur chống
lạm phát, vượt qua khủng hoảng và triển vọng phát triển kinh tế bền vững ở nước ta sẽ còn tùy
thuộc rất lớn vào quyết tâm chính trị, nhận thức và cách thức giải quyết các điểm mấu chốt sau:
Phối hợp hài hòa bàn tay Nhà nước pháp quyền và bàn tay thị trường
Những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới đã, đang và sẽ còn
chứng tỏ, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá
mức, và cả khi “bàn tay vô hình” của thị trường bị lạm dụng và đề cao thái quá, thì đều có nguy
cơ dẫn đến những cực đoan, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và thậm chí dẫn đến khủng hoảng
nếu có những bất đồng quá mức giữa nhà nước và thị trường.
Các khiếm khuyết của thị trường tự do phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động
và tích cực của Nhà nước kiểu mới, mang tính pháp quyền và đại diện cao hơn.
Đặc biệt, cần sớm khắc phục những bất cập về nhận thức và lạm dụng trong thực tế về
quyền lực chủ quan của nhà nước, về sức mạnh thị trường khách quan, về tính đa mục tiêu của
chính sách, cần nâng cao chất lượng xây dựng các quy hoạch, dự án; thực hiện nghiêm túc các
24
quy định về đấu thầu thực chất, chống thông thầu, ép thầu và các gian lận thầu khác gây tổn hại
lợi ích chung và dài hạn; tăng cường kiểm toán độc lập, xây dựng và áp dụng rộng rãi hệ thống
chỉ tiêu hiệu quả
Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước – nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển
chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước – nhà quản lý công” và phát triển theo
bề sâu, đi đôi với việc chuyển dịch nguồn động lực chính trong đầu tư phát triển kinh tế từ khu
vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước; yêu cầu về tổ chức lại nền kinh tế
và các doanh nghiệp trong nước sẽ cấp thiết hơn nhằm tăng cường sự hợp tác, gắn kết, sức
cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, cũng như hiệu quả đầu tư
kinh tế-xã hội nói chung
Hơn nữa, cần sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ, lành mạnh trong việc
cung cấp các sản phẩm và nguyên , nhiên liệu đầu vào thiết yếu của nền kinh tế, rồi mới bãi
bỏ sự kiểm soát hành chính về giá cả.
Coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách.
Bản lĩnh và Trí tuệ Việt Nam còn thể hiện trong sự dám đối diện, chấp nhận và biết cách
vượt qua thử thách trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu, lẫn quy trình của kinh tế thị trường, coi
trọng tính đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm của các mục tiêu, loại công cụ chính sách và
sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng hữu quan, nâng cao hiệu quả đầu tư
kinh tế-xã hội
Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu thống kê và dữ liệu thông tin quốc
gia và chuyên ngành hiện đại, có chất lượng cao, đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng về quản lý
nhà nước các cấp, kinh doanh và nghiên cứu khoa học; khắc phục tình trạng phân tán, chia
cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hoá thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý
thông tin, gây khó khăn và đắt đỏ cho các đơn vị và cá nhân có nhu cầu tiếp cận, khai thác
và sử dụng các thông tin này, đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia tăng
sự lãng phí các nguồn lực xã hội.
25
Trọng dụng người tài và đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy, Việt Nam cần có nhiều biện pháp, chnhs sách để
khuyến khích người tài, có chế độ bồi dưỡng hợp lí và nhất là việc đầu tư đúng mức, tránh “
bỏ xót” nhân tài. Muốn được như vậy cần phải có sự nổ lực từ phía nhà nước và sự đồng
thuận từ nhân dân
Tham nhũng làm thất thu và thất thoát, giảm hiệu quả các nguồn lực xã hội, những luật
định quản lý kinh tế – xã hội, làm nản lòng nhà đầu tư trong và ngoài nước, gây cản trở cho
sự vận hành thông suốt của nền kinh tế với tư cách một chỉnh thể tự nhiên, là cội nguồn mọi
bất ổn, trở ngại và thách thức lớn nhất, gây tổn thất to lớn, khó lường cho lợi ích, uy tín
quốc gia, làm gia tăng tình trạng rối loạn kỷ cương xã hội, xu hướng ly tâm và mất đồng
thuận, kẻ thù nguy hiểm nhất từ bên trong đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt
Nam. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng đang là bài toán khó mà vẫn chưa có lời giải triệt
để.Nền kinh tế trong sạch vững mạnh không thể có hiện tượng tham nhũng. Đảng và Nhà
nước ta cần mạnh tay hơn nữa, đấu tranh không khoan nhượng với nạn tham nhũng.