Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Chuyên sâu tuyên ngôn độc lập 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.7 KB, 9 trang )

TUN NGƠN ĐỘC LẬP
- Hồ Chí MinhI. MỞ BÀI CHUNG
“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế
giới ở đâu, sự chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu,
xin mời đến thăm cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực
của một con người anh hùng của thời đại…”. Đó là nhận xét rất xác đáng của tác
giả Rơ-nê Đê Pêstre, người Cu-ba về chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khơng chỉ là
một lãnh tụ tài ba, người anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam thốt
khỏi xiềng xích của nơ lệ mà Người cịn là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc
với nhiều tác phẩm đặc sắc trên nhiều thế loại khác nhau. Đặc biệt, bản “Tuyên
ngôn độc lập” ra đời vào năm 1945 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất,
tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Người. Tác phẩm có giọng văn hùng
hồn thống thiết, có lập luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người
đọc và người nghe. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu máu đã
đổ, bao nhiêu người đã hi sinh, bao nhiêu người bị tù đày... “là kết quả của bao
nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt
Nam” (Trần Dân Tiên).
II. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN
Đề số 1:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy
rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh,


Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr39-40)
Phân tích phần mở đầu bản "Tun ngơn Độc lập" để làm nổi bật giá
trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích mở đầu của Bản tun ngơn: “Hỡi đồng
bào… chối cãi được” đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập
luận của chủ tích Hồ Chí Minh.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được
độc lập tự do. Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng.
Cách mạng tháng Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những
xiềng xích nơ lệ và áp bức, đưa dân tộc ta qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng
sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp,
trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tun ngơn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một
nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra bằng
tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Người đã truyền đến hàng
triệu trái tim người Việt Nam yêu nước những rung động sâu xa và thấm thía, đồng
thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có
chủ quyền của nước ta.
Tồn văn bản tun ngơn khơng dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một
ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tun ngơn có bố cục 3 phần, cụ
thể gồm: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục
của “Tuyên ngôn độc lập” được tạo nên chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ,
lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và sức lay động lịng người. Điều đó được thể
hiện ngay từ đoạn mở đầu.

2. Giá trị nội dung của phần mở đầu bản tun ngơn:
2.1. Mở đầu bản Tun ngơn bằng trích dẫn Tuyên ngôn của Pháp và Mĩ
Phần mở đầu nêu nguyên lí chung làm cơ sở tư tưởng cho bản tun ngơn.
Trong đó, Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của
Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791. Cả
hai bản tuyên ngôn đều thể hiện tư tưởng rất tiến bộ, được nhân loại biết đến và
thừa nhận. Trong đó, Tun ngơn độc lập của Mỹ năm 1776 nêu rõ: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm
1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được
tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
2.2. Tác dụng của việc trích dẫn


Việc trích dẫn hai văn bản này có tác dụng rất lớn. Đầu tiên, nó thể hiện sự
tơn trọng những giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại, đó là khẳng định các quyền
lợi cơ bản, chính đáng của con người: Quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu
cầu hạnh phúc.
Mặt khác, “Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang
trong thời kì nguy ngập. Chính quyền mới ra đời, đất nước vẫn đang nằm giữa bốn
bề hùm sói, hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại bang đe dọa. Ở biên giới phía
Bắc là 20 vạn quân Tưởng đang ngấp nghé ở cửa biên giới, chuẩn bị kéo vào miền
Bắc nước ta. Phía sau đội qn này là sự nhịm ngó muốn can thiệp vào Đơng
Dương của đế quốc Mỹ. Ở phía Nam, thực dân Anh được giao nhiệm vụ của phe
đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, đằng sau quân Anh là quân Pháp đang lăm
le muốn quay trở lại xâm lược đất nước ta. Nhà cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố:
Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị quân Nhật chiếm, đương nhiên Đông Dương
phải thuộc quyền bảo hộ của người Pháp. Sử dụng trích dẫn trong hai bản tun
ngơn có giá trị, được thế giới cơng nhận làm cơ sở pháp lý cũng là cách Hồ Chí

Minh nhắc nhở dã tâm và hành động xâm lược của bọn đế quốc, thực dân; phê
phán, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lí, chà
đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ơng chúng. Chính phủ và chính phủ Mĩ
phụng sự cho tinh thần của “Tuyên ngôn nhân quyền” đầy lẽ phải kia hóa ra lại
đang thi hành những hành động trái ngược hẳn. Dùng lí lẽ của chính Pháp và Mĩ để
nhắc nhở, ngăn chặn, bác bỏ mọi luận điệu và hành động phi nghĩa của chúng,
chiêu thức này trong dân gian được gọi là “gậy ông đập lưng ông”. Với chiêu thức
này, Hồ Chí Minh thực sự đã nắm được và phát huy sức mạnh của văn học “Văn
chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc.” (Trần Thái Tơng).
Hồ Chí Minh dẫn hai câu danh ngơn, một câu trong bản Tuyên ngôn độc lập
và một câu trong Tun ngơn nhân quyền và Dân quyền cịn là để khẳng định cách
mạng Việt Nam cùng một lúc làm được hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ thứ nhất là đánh
đuổi thực dân, phát xít xâm lược giành độc lập tự chủ và nhiệm vụ thứ hai là lật đổ
chế độ phong kiến giành quyền sống cho con người. Cũng như ở đoạn sau của bản
Tuyên ngôn, Người viết “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã
đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt
Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế
độ dân chủ cộng hòa.”
Đồng thời bằng cách này, Bác đã đặt tuyên ngôn của Việt Nam sánh vai với
tuyên ngôn Pháp và Mỹ, thể hiện lịng tự tơn dân tộc. Đặt ba bản tun ngơn ngàng
hàng nhau, ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, Người muốn khẳng định mục
đích cao cả của cách mạng Việt Nam, của cách mạng Mĩ và Pháp đều là vì hạnh
phúc của con người. Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của con người. Niềm tự hào
dân tộc ấy cùng một cảm hứng với “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi, bởi ở


thời phong kiến Nguyễn Trãi cũng đặt vị thế dân tộc ta ngang hàng với phong kiến
phương Bắc hùng mạnh:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Nhưng đóng góp lớn nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây là Người đã vận
dụng sáng tạo hai đoạn trích dẫn của hai bản tun ngơn. Từ quyền của con người
được nhắc đến trong hai câu danh ngôn ấy, Người nâng lên quyền của cả dân tộc.
Tầm nhìn sâu rộng của Bác đã tạo nên một lời khẳng định đanh thép: "Suy rộng ra,
câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Như vậy, bằng lập
luận chặt chẽ, sáng tạo Người khẳng định các dân tộc trên thế giới đều có quyền
độc lập, tự do. Đây chính là cơ sở cho hệ thống lập luận trong tồn tác phẩm. Phép
suy rộng ra ấy khơng chỉ có ý nghĩa khẳng định quyền độc lập tự do, quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam mà cịn có ý nghĩa khơi dậy, cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên tồn thế giới.
Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch, đanh thép. Người khẳng định
mọi quyền lí lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối
cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lí sừng sững, là tiền đề triển khai tồn bộ
nội dung bản “Tun ngơn Độc lập” ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện
tính luận chiến quyết liệt của ngịi bút Hồ Chí Minh.
3. Nghệ thuật lập luận:
Cách mở đầu bản Tuyên ngơn cho thấy lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn
gọn, súc tích, vừa khéo léo vừa kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và
đầy sức thuyết phục. Đầy khéo léo bởi Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư
tưởng tiến bộ, những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp... nhưng rất kiên
quyết vì một mặt Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam dựa trên những chân lí mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra, đồng thời cảnh
báo nếu thực dân Pháp tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chính họ đã
phản bội lại tổ tiên của mình, làm nhơ bẩn lá cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những
cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ đã dành được. Đặc biệt, lập luận sắc sảo,
linh hoạt, sáng tạo nhất là: lời suy rộng ra của Người mang tư tưởng lớn của nhà
cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con người lên (thành) quyền tự
quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Phép suy rộng ra ấy là sự
sáng tạo đầy bản lĩnh, trí tuệ, thể hiện tư duy lí luận sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Đây là một đóng góp riêng của Hồ Chí Minh và cũng là của dân tộc ta vào
một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý
nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.
4. Đánh giá


Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm còn thể hiện rõ tài
năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo
nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác
phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn
khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác
của bọn thực dân. Phần mở đầu "Tuyên ngôn Độc lập", không chỉ thể hiện nội
dung tư tưởng cao đẹp mà ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn
gọn, súc tích, thấm thìa, rung động lịng người, "Tun ngơn Độc lập" thực sự là
một tuyệt đỉnh nghệ thuật văn chương và lịch sử.
Đoạn số 2:
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ
không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả
nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ
tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân
ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng
hịa.
Bởi thế cho nên, chúng tơi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại
biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa
bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của

bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân
tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không
công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tơi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Phân tích lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về
phong cách văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Sự thật là…độc lập ấy” nằm ở phần cuối
của bản tun ngơn và góp phần thể hiện rõ phong cách văn chính luận của Hồ Chí
Minh.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Sau gần 100 năm bị áp bức nô lệ, nhân dân ta đứng lên đấu tranh và được
độc lập tự do. Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng, hân hoan chiến thắng.
Cách mạng tháng Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những
xiềng xích nô lệ và áp bức, đưa dân tộc ta qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng
sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp,
trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tun ngơn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một

nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người viết ra bằng
tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Người đã truyền đến hàng
triệu trái tim người Việt Nam yêu nước những rung động sâu xa và thấm thía, đồng
thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có
chủ quyền của nước ta.
Tồn văn bản tun ngơn khơng dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một
ngàn chữ nhưng vơ cùng chặt chẽ và súc tích. Bản tun ngơn có bố cục 3 phần, cụ
thể gồm: cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và lời tuyên bố độc lập. Sức thuyết phục
của “Tuyên ngôn độc lập” được tạo nên chủ yếu từ hai yếu tố là lập luận chặt chẽ,
lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực và sức lay động lòng người.
2. Lời tuyên bố độc lập trong đoạn trích
2.1. Nêu rõ q trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
“Tuyên ngôn độc lập” ra đời giữa lúc tình thế đất nước vẫn đang trong thời
kì nguy ngập. Tuy đã giành được độc lập nhưng chính quyền thì mới ra đời, đất
nước vẫn đang nằm giữa bốn bề hùm sói, hai đầu đất nước đều có kẻ thù ngoại
bang đe dọa. Đặc biệt, để hợp thức hóa việc quay trở lại xâm lược nước ta, nhà
cầm quyền Pháp lúc này tuyên bố: Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị quân
Nhật chiếm. Nay phát xít Nhật thua trận, đương nhiên Pháp có quyền quay trở lại
bảo hộ Đông Dương.
Trong đoạn văn này Hồ Chí Minh đã nêu rõ q trình đấu tranh giành độc
lập của nhân dân ta, vạch trần và bác bỏ hoàn toàn luận điệu xảo trá của Pháp.
Người nêu rõ sự thật là từ năm 1940 nước ta là thuộc địa của Nhật chứ khơng cịn
là thuộc đọa của Pháp. Khi Nhật thua chạy thì nhân dân ta đã nổi dậy cướp chính
quyền từ tay Nhật. Nhân dân ta cùng lúc phá tan ba tầng xiềng xích khiến Pháp


chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị để lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Định ngữ “Sự thật là” được nhắc đi nhắc lại càng có ý nghĩa khẳng định một
cách chắc chắn thực tiễn lịch sử đó.
Chính phủ nước Việt Nam mới đã ra đời, thực sự là chính quyền của nhân

dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam khơng cịn là thuộc địa của Pháp nên Người
tun bố thốt li hồn tồn mối quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước
Pháp đã kí hết với Việt Nam, xóa hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước
Việt Nam. Tiếp đó, Người cịn khẳng định đanh thép “Tồn dân Việt Nam, trên
dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Đây chính là những bằng chứng thực tiễn xác thực, thể hiện một cuộc tranh
luận ngầm với những lời lẽ giả dối, sai sự thật của thực dân Pháp, khẳng định
khơng có thế lực nào có quyền xâm phạm nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam
kể cả thực dân Pháp. “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta như một trái
táo cịn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng.
Nuốt không vô mà khạc cũng không ra”. (Chế Lan Viên)
2.2. Khẳng định cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa
Trước khi tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định sâu sắc cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của ta là chính nghĩa. Bởi vì dân tộc ta là một dân tộc gan
góc, có truyền thống kiên cường bất khuất bảo vệ đất nước. Bằng chứng là nhân
dân ta gan góc chống ách nơ lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, gan góc đứng về
phía Đồng minh chống phát xít suốt mấy năm để rồi lấy lại đất nước từ tay Nhật.
Trước đó, trong bản Tun ngơn Người cũng nêu rõ dân tộc ta là dân tộc luôn nêu
cao tinh thần nhân đạo: Khi Pháp thua chạy còn giết nốt số đơng tù chính trị ở n
Bái, Cao Bằng. Nhưng khi chúng thua chạy ta lại giữa thái độ khoan hồng, nhân
đạo giúp người Pháp chạy qua biên thùy, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Tinh
thần nhân đạo ấy có lẽ được kế thừa từ truyền thống dân tộc, từng được thể hiện
trong “Bình Ngơ đại cáo”:
“Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà hồn bay
phách lạc;
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước vẫn tim đập,
chân run”.
Lập trường chính nghĩa của dân tộc ta cịn được thể hiện rõ khi nó rất phù
hợp với các điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Têhê-răng và Cựu Kim Sơn “Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã cơng nhận

những ngun tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn,
quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Ở đây, Hồ
Chí Minh đã rất khơn khéo khi viện dẫn các ngun tắc dân tộc bình đẳng. Bởi vì,
nó khơng chỉ để khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc ta mà cịn có ý nghĩa
kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.


2.3. Tuyên bố độc lập
Sau khi đã khẳng định một cách sâu sắc quyền độc lập dân tộc, Hồ Chủ tịch
đã sử dụng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép, trịnh trọng, kết cấu trùng lặp, liên tục
nhấn mạnh và xốy sâu vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “tự do” để tuyên bố
nền độc lập của dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập”. Trong lời tuyên bố ấy, Người khẳng định
dân tộc Việt Nam về lí lẽ có quyền được hưởng tự do độc lập và trong thực tiễn đã
giành được tự do, độc lập, cũng hoàn toàn xứng đáng trở thành một nước tự do,
độc lập.
Lời tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh xuất phát từ trái tim của một con
người có lịng u nước, u dân, u chuộng hịa bình sâu sắc; là những khát khao
cháy bỏng khơng chỉ của riêng mình Bác mà cịn chính là thay lời muốn nói của
tồn thể dân tộc Việt Nam, muốn tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là
một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ.
2.4. Ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc
Tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh khơng chỉ để tun bố nền độc lập, tự
do của dân tộc mà cịn có ý nghĩa cảnh cáo âm mưu xâm lược của bọn thực dân, đế
quốc. Người viết “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”. Toàn dân Việt
Nam nhận thức rõ âm mưu của kẻ thù xâm lược nên nhắc nhở chúng rằng: Nếu
chúng còn dã tâm xâm lược, nhân dân Việt Nam quyết hy sinh tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng, cao quý ấy.
3. Đánh giá

3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn văn
Đoạn trích cũng như bản “Tuyên ngôn độc lập” mang giá trị văn chương to
lớn bởi cho thấy tài năng bậc thầy trong ngịi bút chính luận của Hồ Chí Minh. Đó
là một áng văn chính luận mẫu mực nhất, thuyết phục và có sức hấp dẫn nhất với
lập luận, chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, đanh thép, luận cứ được hun đúc từ thực tế khách
quan; Kết cấu, bố cục khá chặt chẽ với mỗi phần một ý nghĩa và liên hệ chặt chẽ
với nhau; Ngơn ngữ ngắn gọn, chính xác, súc tích; lời văn vừa sống động, gây xúc
động lịng người tác động mạnh vào nhận thức và tình cảm và có sức lay động sâu
xa; Các biện pháp tu từ như điệp từ, điệp ngữ…được sử dụng được sử dụng linh
hoạt hiệu quả làm cho lý lẽ thêm sinh động rõ ràng. Bản “Tuyên ngôn độc lập” trở
thành một áng văn nghị luận mẫu mực không chỉ bởi lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh
thép, bằng chứng xác thực mà còn lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam yêu
nước bởi tình cảm thiết tha của tác giả. Những tình cảm thiết tha đó được biểu lộ
thơng qua những giọng điệu khác nhau, khi nồng nàn tha thiết, khi xót xa thương
cảm, khi hừng hực căm thù, khi hào sảng khích lệ...
“Tun ngơn độc lập” là áng văn chương yêu nước của thời đại, kết tinh
khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về độc lập, tự do. Bản tuyên ngôn đã tố cáo rõ


tội ác thực dân, khẳng định quyền tự do độc lập và sự thật nước Việt Nam đã thành
nước tự do, độc lập. Hơn nữa, đoạn trích cũng như tác phẩm còn nêu cao truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta là truyền thống yêu nước, kiên cường chống giặc ngoại
xâm; thể hiện tâm huyết và hội tụ vẻ đẹp của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
3.2. Nhận xét về phong cách văn chính luận Hồ Chí Minh
- Ngắn gọn, giản dị, súc tích; cách dùng từ, đặt câu hết sức linh hoạt: Cả
một nội dung lớn diễn ra trong thời gian gắn một thế kỉ, nhưng tác giả đã cô đọng
lại trong vài ba trang giấy. Từ ngữ mà Người sử dụng đọc lên là hiểu ngay. Đối với
những câu dài, có cấu trúc phức tạp, Người vẫn tìm cách diễn đạt thật ngắn gọn.
Có câu rất ngắn nhưng giàu ý tứ.
- Văn phong trong sáng: Trong sáng ở việc dùng từ đặt câu, tuân thủ các

nguyên tắc và chuẩn mực của tiếng Việt. Trong sáng về tư tưởng tình cảm, ở thái
độ rõ ràng, yêu ghét phân minh trên lập trường chính nghĩa.
- Tính chiến đấu và trí tuệ: Đanh thép, sắc sảo là biểu hiện tính chiến đấu
khơng khoan nhượng, thái độ dứt khoát thể hiện một bản lĩnh vững vàng, phi
thường, sắc sảo ở trí tuệ, lối lập luận chặt chẽ, sắc bén.
- Ngịi bút chính luận vừa chặt chẽ, thuyết phục vừa trữ tình, có sức lay
động lịng người: Bản tun ngơn được viết với cách lập luận chặt chẽ. Người đưa
ra những lí lẽ đanh thép, những bằng chứng hùng hồn không ai chối cãi được. Ngịi
bút chính luận vừa hùng hồn vừa trữ tình; Văn chính luận mà vẫn thấm đượm tình
cảm, giàu hình ảnh, giọng điệu đa dạng.
III. KẾT LUẬN CHUNG
“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh đã đánh dấu mốc son trong lịch sử dân
tộc, mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn ngang tầm với “Bình Ngơ đại cáo” của
Nguyễn Trãi, là niềm tự hào của những người Việt Nam yêu nước. Với phong cách
nghệ thuật độc đáo và riêng biệt, Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình và làm
rạng rỡ nền văn học Việt Nam. Tấm lòng yêu nước, thương dân, tâm huyết và
khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh về độc lập tự do của dân tộc thực sự đã trở
thành một ngọn lửa thần tạo nên tài năng văn chương của Người, đúng như nhận
định của Raxun Gazatôp: Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ trong cành khô, tài
năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người.”



×