Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin quinvaxem và một số yếu tố liên quan tại quận hồng bàng tp hải phòng, năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

HỒ THANH TÙNG

H
P

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH CỦA CÁC BÀ MẸ
TRONG VIỆC CHĂM SÓC TRẺ SAU TIÊM CHỦNG VẮC XIN
QUINVAXEM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI QUẬN
HỒNG BÀNG – THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG NĂM 2016

U

H

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CƠNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01

Hà Nội, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

HỒ THANH TÙNG

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH CỦA CÁC BÀ MẸ

H


P

TRONG VIỆC CHĂM SÓC TRẺ SAU TIÊM CHỦNG VẮC XIN
QUINVAXEM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI QUẬN
HỒNG BÀNG – THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG NĂM 2016

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CƠNG CỘNG

U

MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.03.01

H

PGS.TS. Dương Thị Hồng

Hà Nội, 2017


i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ của các đơn vị, các thầy cô giáo, anh chị đồng nghiệp, bạn bè và người
thân trong gia đình.
Trước hết tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.Dương Thị
Hồng, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức và
kinh nghiệm quý báu trong suốt q trình thực hiện luận văn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô giáo Trường Đại học Y


H
P

tế công cộng đã trang bị kiến thức, tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập tại
trường. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Ths.Trần Thị Đức Hạnh đã rất nhiệt tình
hỗ trợ cho tơi trong suốt q trình làm luận văn.

Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Lãnh
đạo và cán bộ nhân viên Văn phòng Tiêm chủng mở rộng quốc gia, nơi tôi công tác đã
ủng hộ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi cả về vật chất và tinh thần trong suốt quá
trình học tập. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và cán bộ của Trung tâm Y tế

U

thành phố Hải Phòng, Trung tâm Y tế quận Hồng Bàng, 06 trạm Y tế xã thị trấn trên
địa bàn quận Hồng Bàng đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu

H

tại thực địa. Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới các bà mẹ là đối tượng nghiên
cứu tại 06 xã thị trấn trên địa bàn quận Hồng Bàng đã cung cấp thơng tin để tơi có thể
thực hiện luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, các bạn học viên lớp CH18YTCC đã luôn chia sẻ và đóng góp nhiều ý kiến q báu để tơi hồn thành tốt luận văn
này.

Tôi xin vô cùng cảm ơn gia đình đã ln ở bên và hỗ trợ tơi trong suốt q trình
học tập.
Một lần nữa tơi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2017



ii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Diễn giải

ATTC

An toàn tiêm chủng

BCG

Vắc xin phòng Lao

BKT

Bơm kim tiêm

CCĐ

Chống chỉ định

DCL

Dây chuyền lạnh

DPT


Vắc xin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván

ĐTV

Điều tra viên

GSV

Giám sát viên

Hib

Heamophilus Influenza tuýp B

NVYT

Nhân viên y tế

OPV

Vắc xin phòng Bại liệt đường uống

PN

Phụ nữ

PNTSĐ

Phụ nữ tuổi sinh đẻ


PƯSTC

Phản ứng sau tiêm chủng

Quinvaxem

Văc xin phối hợp phòng 5 bệnh: Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván,
Viêm gan B, Viêm màng não mủ/viêm phổi do vi khuẩn
Hib

TCMR

Tiêm chủng mở rộng

TTYT TP

Trung tâm Y tế thành phố

TYT

Trạm Y tế

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc

UV

Uốn ván


H
P

U

H


iii

UVSS

Uốn ván sơ sinh

VGB

Viêm gan B

VSDT

Vệ sinh dịch tễ

VX

Vắc xin

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


H
P

H

U


iii

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................................1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.............................................................................................3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..........................................................................5
1.1.

Giới thiệu về vắc xin ............................................................................................. 5

1.2.

Giới thiệu chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR):...................................... 6

1.3.

Phản ứng sau tiêm chủng: ..................................................................................... 9

1.4.


Vắc xin Quinvaxem: ........................................................................................... 10

1.5.

Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm

H
P

chủng của các bà mẹ ..................................................................................................... 15
1.6.

Khung lý thuyết................................................................................................... 20

1.7.

Giới thiệu địa bàn nghiên cứu:............................................................................ 21

CHƯƠNG II - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...........................22
2.1.

Đối tượng nghiên cứu: ........................................................................................ 22

2.2.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu:...................................................................... 22

2.3.

Thiết kế nghiên cứu............................................................................................. 22


2.4.

Mẫu và phương pháp chọn mẫu.......................................................................... 22

U

H

Cỡ mẫu: ............................................................................................................... 22
2.5.

Phương pháp và công cụ thu thập:...................................................................... 23

2.6.

Quy trình thu thập số liệu.................................................................................... 24

2.8.

Thang đo, tiêu chuẩn đánh giá : .......................................................................... 32

2.9.

Xử lý và phân tích số liệu ................................................................................... 34

2.10. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu: ................................................................. 34
2.11. Hạn chế của nghiên cứu:..................................................................................... 35
CHƯƠNG III - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................37
3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: .......................................................... 37

3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem
của bà mẹ:...................................................................................................................... 38


iv

3.3.

Thực hành của bà mẹ về phát hiện, theo dõi và xử trí phản ứng sau tiêm

chủng vắc xin Quinvaxem ở trẻ .................................................................................... 46
3.3.

Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm chủng

của bà mẹ:...................................................................................................................... 52
CHƯƠNG IV - BÀN LUẬN .........................................................................................58
CHƯƠNG V - KẾT LUẬN ...........................................................................................66
CHƯƠNG VI - KHUYẾN NGHỊ .................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................77

H
P

H

U


1


TĨM TẮT NGHIÊN CỨU

Vai trị của người mẹ rất quan trọng trong việc phát hiện sớm và điều trị kịp
thời các phản ứng sau tiêm vắc xin Quinvaxem. Nghiên cứu được thực hiện để mô
tả kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ sau tiêm
chủng vắc xin Quinvaxem và xác định một số yếu tố liên quan tại quận Hồng Bàng,
TP. Hải Phòng năm 2016. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang có phân
tích. Thu thập thơng tin định lượng từ 394 bà mẹ kết hợp phiếu thu thập phản ứng
sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem của con.
Kết quả cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đạt trong việc theo dõi và chăm sóc

H
P

trẻ sau tiêm vắc xin Quinvaxem là thấp (36,8%). Sốt, quấy khóc nhẹ là hai biểu hiện
phản ứng sau khi tiêm chủng ở trẻ được các bà mẹ biết đến nhiều nhất (tương ứng
93,9% và 47,5%). Số bà mẹ hiểu biết đầy đủ về dấu hiệu bất thường sau tiêm vắc
xin Quinvaxem cần được xử trí kịp thời là 4,3%. Hầu hết các bà mẹ có thái độ tích
cực trong việc chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem (99,7%). Thực hành

U

của bà mẹ về chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem chưa cao (58,4%).
Số bà mẹ tuân thủ đủ thời gian theo dõi ngay sau tiêm chủng tại trạm y tế là 94,9%.
Số bà mẹ tuân thủ đủ thời gian theo dõi sức khỏe trẻ sau tiêm chủng tại nhà là

H

65,2%. Trình độ học vấn và một số hình thức truyền thơng (truyền hình, báo/tạp chí,

nhân viên y tế xã, bạn bè/người thân, sổ tiêm chủng cá nhân) đều có mối liên quan
chặt chẽ với kiến thức và thực hành của bà mẹ. Có mối liên quan chặt chẽ giữa kiến
thức và thực hành của bà mẹ trong chăm sóc sức khoẻ sau tiêm vắc xin Quinvaxem
theo xu hướng tích cực.

Cần tiếp tục tăng cường công tác truyền thông, đặc biệt là trên truyền hình và
từ cán bộ y tế để có thể phổ biến kiến thức về chăm sóc trẻ sau tiêm chủng cho các
bà mẹ, giúp cho các bà mẹ có được thái độ đúng đắn và niềm tin vào tiêm chủng để
chủ động đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ.


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế kỷ XX đã đánh dấu những thành tựu to lớn mà vắc xin đem lại cho sức
khỏe cơng cộng góp phần ngăn ngừa bệnh tật, khuyết tật và tử vong [30]. Ngày nay,
nhờ có vắc xin mà khoảng 3 triệu trẻ em được cứu sống mỗi năm [38]. Tuy được
đánh giá là an toàn, song cũng giống như thuốc, bất cứ vắc xin nào khi sử dụng
cũng có thể xảy ra những tác dụng khơng mong muốn. Khi tỷ lệ tiêm chủng càng
cao, số lần tiếp xúc với vắc xin càng nhiều thì xác suất gặp các phản ứng càng tăng.
Biểu hiện của phản ứng sau tiêm chủng cũng rất khác nhau, từ phản ứng nhẹ, thông
thường đến những phản ứng nặng, hiếm gặp, có thể đe dọa đến tính mạng [28]. Nếu
khơng được điều tra và làm rõ kịp thời, các phản ứng nghiêm trọng sau tiêm chủng

H
P

có thể làm giảm niềm tin của cộng đồng đối với vắc xin, dẫn đến làm giảm tỷ lệ
tiêm chủng [34].


Quinvaxem là loại vắc xin phối hợp có tác dụng phòng ngừa 5 bệnh trong
cùng 1 mũi tiêm bao gồm: bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và viêm phổi,
viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết do vi khuẩn Hib gây ra. Trong năm 2015, đã có

U

1.666.674 trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng vắc xin Quinvaxem. Quinvaxem cũng
như các thuốc hay loại vắc xin khác, khi tiêm có thể xảy ra các phản ứng khơng
mong muốn. Một số nước trên thế giới đã ghi nhận những trường hợp phản ứng sau

H

tiêm vắc xin Quinvaxem như: tại Sri Lanka năm 2008 đã có trẻ tử vong, bị giảm
trương lực cơ – giảm đáp ứng; Bhutan báo cáo về những trẻ mắc bệnh cảnh
não/viêm màng não năm 2009; Ấn Độ ghi nhận 83 trường hợp phản ứng sau tiêm
Quinvaxem từ giữa năm 2012 đến năm 2013 [35]. Ở Việt Nam, trong thời gian từ
tháng 12 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013 có 43 trường hợp phản ứng sau tiêm
chủng, trong đó 9 trường hợp tử vong được báo cáo sau khi sử dụng vắc xin
Quinvaxem [22]. Việc tạm dừng sử dụng vắc xin trên phạm vi toàn quốc do ảnh
hưởng của phản ứng sau tiêm chủng đã làm tỷ lệ tiêm chủng Quinvaxem năm 2013
giảm mạnh so với năm 2012, từ 96,6% xuống còn 59,4% [26]. Sau khi được tiêm
bổ sung vào đầu năm 2014 thì tỷ lệ tiêm vắc xin Quinvaxem của năm 2013 đã được
khôi phục ở mức 82,9%. Tỷ lệ tiêm chủng vắc xin Quinvaxem cho các đối tượng
của năm 2014 duy trì ở mức cao (95,2%), tăng mạnh so với năm 2013 [11].


3

Sau khi sử dụng vắc xin có thể xuất hiện những phản ứng sau tiêm. Phản ứng
sau tiêm chủng không chỉ phụ thuộc vào chất lượng vắc xin mà còn phụ thuộc vào

rất nhiều yếu tố khác như: kỹ thuật bảo quản vắc xin, chất lượng hệ thống dây
chuyền lạnh, kỹ năng thực hành tiêm chủng, thể trạng của từng trẻ, kỹ năng chăm
sóc và theo dõi trẻ sau tiêm chủng của các bà mẹ. Các phản ứng sau tiêm có thể do
thuộc tính của vắc xin hoặc khơng liên quan đến vắc xin và chúng thường xảy ra
sớm, trong vòng 24 giờ sau khi tiêm. Do vậy mà vai trị của người mẹ rất quan trọng
vì thơng qua việc chăm sóc, theo dõi trẻ sau khi tiêm chủng của bà mẹ, các phản
ứng sau tiêm có thể được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đặc biệt đối với những
phản ứng nặng, nguy hiểm đồng thời xảy ra nhanh như sốc phản vệ. Để hạn chế tối

H
P

đa hậu quả của các phản ứng không mong muốn, đặc biệt là đối với những vắc xin
mới như Quinvaxem thì khơng những cần phải đánh giá và theo dõi thường xuyên
các phản ứng sau tiêm mà còn phải quan tâm đến việc thực hành chăm sóc trẻ sau
tiêm chủng của bà mẹ. Trên thế giới chưa có nhiều nghiên cứu về phản ứng sau
tiêm chủng vắc xin Quinvaxem. Tại một vài địa phương ở Việt Nam đã thực hiện

U

nghiên cứu liên quan đến thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm chủng của bà mẹ. Tuy
nhiên, những nghiên cứu tập trung về thực hành sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem
hầu như còn rất ít và hạn chế ở Việt nam nói chung cũng như thành phố Hải Phịng

H

nói riêng. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Kiến thức, thái độ, thực
hành của các bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem
và một số yếu tố liên quan tại quận Hồng Bàng – TP. Hải Phòng năm 2016” để
trả lời các câu hỏi sau:

-

Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ, thực hành đúng trong việc chăm sóc trẻ
sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem?

-

Có yếu tố liên quan nào đến kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ
trong việc chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem?


4

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ
sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem tại quận Hồng Bàng – TP. Hải Phòng
năm 2016.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành của các
bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ sau tiêm chủng vắc xin Quinvaxem tại quận
Hồng Bàng – TP. Hải Phòng năm 2016.

H
P

H

U



5

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Giới thiệu về vắc xin

1.1.1. Định nghĩa vắc xin
Vắc xin là chế phẩm sinh học với thành phần là các kháng nguyên có nguồn gốc
từ các vi sinh vật gây bệnh đã được bào chế để làm giảm hoặc mất khả năng gây
bệnh. Vắc xin được chủ động đưa vào trong cơ thể để kích thích cơ thể sinh miễn
dịch chủ động phịng bệnh [7].
1.1.2. Phân loại vắc xin
Vắc xin có thể được chế tạo từ vi khuẩn, vi rút hoặc độc tố của chúng hay tái tổ

H
P

hợp từ các kháng nguyên đặc hiệu [24].
Vắc xin được chế tạo từ vi khuẩn
-

Vắc xin sống giảm động lực: vắc xin phòng lao - BCG, thương hàn uống.

-

Vắc xin bất hoạt toàn thân vi khuẩn: vắc xin ho gà, tả, thương hàn tiêm.

-


Vắc xin giải độc tố: vắc xin bạch hầu, uốn ván.

-

Vắc xin thứ đơn vị: vắc xin ho gà vô bào, vắc xin cộng hợp Hib, vắc xin cầu
khuẩn phổi.

-

U

H

Vắc xin được chế tạo từ vi rút

Vắc xin vi rút sống giảm động lực: vắc xin sởi, bại liệt uống (OPV), quai bị,
rubella, sốt vàng.

-

Vắc xin bất hoạt toàn thân: vắc xin cúm, dại, viêm não Nhật Bản, bại liệt
(IPV), viêm gan A.

-

Vắc xin thứ đơn vị: vắc xin cúm, vắc xin viêm gan B tái tổ hợp.

1.1.3. Bảo quản vắcxin:
Vắc xin phải được bảo quản theo đúng quy định về bảo quản thuốc trong dây
chuyền lạnh [26].



6

Nhiệt độ bảo quản vắc xin phải theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất. Đa số
các loại vắc xin được yêu cầu phải bảo quản ở nhiệt độ từ +2oC đến +8oC và không
được tiếp xúc với nhiệt độ đơng băng [27].
1.2.

Giới thiệu chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR):

1.2.1. Khái niệm về tiêm chủng
Tiêm chủng là việc sử dụng các hình thức khác nhau để đưa vắc xin, sinh phẩm y
tế vào cơ thể con người với mục đích kích thích cơ thể tạo ra miễn dịch chủ động để
phịng bệnh [8].
Tiêm chủng là hình thức gây miễn dịch chủ động nhờ vắc xin. Mũi tiêm chủng

H
P

đầu tiên cho người chưa bao giờ tiếp xúc với kháng nguyên thường tạo ra kháng thể
loại IgM. Tùy thuộc vào khả năng đáp ứng và thời gian tiêm, mũi thứ hai sẽ kích
thích đáp ứng miễn dịch nhanh hơn, cao hơn và thường là kháng thể loại IgG. Sau
khi tiêm đủ các mũi cơ bản, miễn dịch sẽ duy trì ở mức độ cao trong thời gian dài
và cho dù lượng kháng thể giảm xuống nhưng do cơ chế trí nhớ miễn dịch nên đa số

U

trường hợp vẫn có khả năng kích thích cơ thể đáp ứng nhanh khi tiếp xúc lại với
mầm bệnh [24].


Trong suốt 200 năm qua kể từ khi thầy thuốc người Anh Edward Jenner dùng

H

vẩy đậu bò để phòng bệnh đậu mùa ở người cho đến nay, tiêm chủng đã góp phần
đáng kể vào việc phịng ngừa bệnh, kiểm sốt được ít nhất 10 bệnh chính sau đây ở
nhiều khu vực trên thế giới: đậu mùa, uốn ván, sốt vàng, các bệnh gây ra bởi
Haemophilus influenza type B, bại liệt, sởi, quai bị và rubella [2]. Tác động của
việc tiêm chủng đối với sức khỏe con người trên tồn thế giới là vơ cùng to lớn mà
khơng có một phương thức hay một kháng sinh nào có thể ảnh hưởng lớn đến việc
làm giảm tỷ lệ chết cho cộng đồng như vắc xin [32].
1.2.2. Chương trình tiêm chủng mở rộng trên thế giới:
Chương trình TCMR được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khởi xướng từ năm
1974. Đến nay, qua 4 thập kỷ, chương trình đã mở rộng diện triển khai và tăng tỷ lệ
tiêm chủng ở các khu vực và nhiều quốc gia khác nhau. Các vắc xin phòng lao,


7

bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, sởi, viêm gan B, viêm màng não mủ do
Haemophius influenza type B được đưa vào chương trình TCMR ở hầu hết các
nước kể cả các nước đang phát triển. Riêng vắc xin Quinvaxem cũng đã được triển
khai tại hơn 90 nước trên thế giới.
Thành quả của chương trình TCMR đem lại đã góp phần đẩy lùi nhiều bệnh tật
và giảm tỷ lệ tử vong của con người, đặc biệt là đối với trẻ em ở các nước đang phát
triển. Đến nay, bệnh bại liệt đã được thanh toán ở nhiều nước Châu Mỹ, Châu Âu,
Trung Đơng và Tây Thái Bình Dương, và chỉ còn lưu hành ở một số nước Châu Phi,
Châu Á như: Ấn Độ, Băngladesh, Pakistan, Công Gô... Năm 2002, có 135 nước đã
loại trừ được bệnh uốn ván sơ sinh. Năm 2006 số mắc uốn ván sơ sinh trên tồn cầu


H
P

giảm 1,55 lần so với năm 1980 [15]. Cơng tác phòng chống bệnh sởi được đẩy
mạnh. Số trẻ em chết vì bệnh sởi đã giảm khoảng 80% từ 733.000 trường hợp tử
vong vào năm 2000 xuống còn 164.000 vào năm 2008 [36].
1.2.3. Chương trình tiêm chủng mở rộng tại Việt Nam

U

Chương trình TCMR bắt đầu được triển khai ở Việt Nam từ năm 1981 do Bộ Y
tế khởi xướng với sự hỗ trợ của WHO và UNICEF. Chương trình có mục tiêu ban
đầu là cung cấp dịch vụ tiêm chủng miễn phí cho trẻ em dưới 1 tuổi, bảo vệ trẻ khỏi

H

mắc 6 loại bệnh truyền nhiễm phổ biến gây tử vong cao. Sau một thời gian thí điểm
(1981-1984), chương trình từng bước mở rộng dần về cả địa bàn và đối tượng tiêm
chủng. Tới nay, toàn bộ trẻ em dưới 1 tuổi trên tồn quốc đã có cơ hội được tiếp cận
với chương trình TCMR [10].

Có 8 loại vắc xin sử dụng trong tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 1 tuổi hiện
đang triển khai trên toàn quốc [8]:
 Vắc xin lao (BCG): Phòng bệnh Lao.
 Vắc xin viêm gan B (VGB): Phòng bệnh viên gan B.
 Vắc xin bạch hầu – ho gà – uốn ván (DPT): Phòng bệnh Bạch hầu,
Ho gà, Uốn ván.
 Vắc xin bại liệt uống (OPV): Phòng bệnh Bại liệt



8

 Vắc xin sởi: Phòng bệnh Sởi.
 Vắc xin uốn ván: Phòng bệnh uốn ván
 Vắc xin 5 trong 1 (Quinvaxem): Phòng được các bệnh Bạch hầu –
Ho gà – Uốn ván, viêm gan B, viêm phổi và viêm màng não mủ do
vi khuẩn Hib - Haemophilus influenzae type B.
* Lịch tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 1 tuổi tại Việt Nam [6]:
Bảng 1.1 - Lịch tiêm chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi trong chương trình TCMR
Tháng tuổi

Vắc xin

Phòng bệnh

Sơ sinh (càng sớm càng
tốt, riêng VGB cần tiêm
sớm trong vòng 24h sau
sinh)

BCG

Lao

H
P

Viêm gan B


OPV uống lần 1

Bại liệt

Quinvaxem mũi 1

Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm
gan B – viêm màng não mủ do Hib

OPV uống lần 2

Bại liệt

Quinvaxem mũi 2

Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm
gan B – viêm màng não mủ do Hib

OPV uống lần 3

Bại liệt

Quinvaxem mũi 3

Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm
gan B – viêm màng não mủ do Hib

Sởi mũi 1

Sởi


2 tháng tuổi

U

3 tháng tuổi

4 tháng tuổi

9 tháng tuổi

Viêm gan B

H

Sau hơn 25 năm hoạt động, chương trình TCMR đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn, góp phần bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
Từ năm 1993 đến năm 2010, tỷ lệ tiêm chủng tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi
liên tục đạt trên 90% (riêng năm 2007 chỉ đạt 81,8% do ảnh hưởng của các phản
ứng sau tiêm vắc xin viêm gan B); tỷ lệ tiêm chủng vắc xin uốn ván cho phụ nữ có
thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ ln đạt 80-90%. Năm 2000, Việt Nam chính thức được
WHO cơng nhận thanh toán bại liệt. Năm 2005, Việt Nam tiếp tục được WHO công
nhận loại trừ uốn ván sơ sinh trên đơn vị huyện. Bệnh ho gà và bạch hầu là những


9

bệnh có tỷ lệ mắc và chết cao ở trẻ em trước khi có chương trình TCMR, nay đã
được khống chế [3]. Tỷ lệ mắc ho gà năm 2010 chỉ còn 0,10/100.000 dân giảm 844
lần so với năm 1984 (84,4/100.000) Tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu năm 2010 còn

0,007/100.000dân giảm 586 lần với năm 1984 (4,1/100.000 dân)[9]
1.3. Phản ứng sau tiêm chủng:
1.3.1. Khái niệm phản ứng sau tiêm chủng:
Phản ứng sau tiêm chủng là hiện tượng bất thường về sức khỏe bao gồm các biểu
hiện tại chỗ tiêm chủng hoặc tồn thân xảy ra sau tiêm chủng, khơng nhất thiết do
việc sử dụng vắc xin, bao gồm phản ứng thông thường sau tiêm chủng và tai biến

H
P

nặng sau tiêm chủng [39].

Phản ứng nặng sau tiêm chủng là phản ứng bất thường sau tiêm chủng có thể đe
dọa đến tính mạng người được tiêm chủng (bao gồm các triệu chứng như khó thở,
sốc phản vệ hay sốc dạng phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt cao co giật, trẻ
khóc kéo dài, tím tái, ngừng thở) hoặc để lại di chứng hoặc làm người được tiêm

U

chủng tử vong [31].

1.3.2. Nguyên nhân phản ứng sau tiêm chủng:
Phản ứng do thuộc tính của vắc xin: Tác dụng phòng vệ của vắc xin là do

H

chúng kích thích hệ thống miễn dịch của người dùng, tổng hợp các kháng thể, đẩy
mạnh sự phá hủy vi sinh vật nhiễm hoặc trung hòa độc tố của vi khuẩn[21]. Phản
ứng tại chỗ, các triệu chứng toàn thân, sốt có thể là một phần của phản ứng miễn
dịch cơ thể. Tuy nhiên, một số thành phần của vắc xin như tá dược, chất bảo quản,

protein kháng nguyên (ho gà tồn tế bào) cũng có thể gây phản ứng [29].
Phản ứng do sai sót trong tiêm chủng: Sai sót khi thực hành tiêm chủng là
những lỗi gây ra trong lúc chuẩn bị tiêm chủng do kỹ thuật tiêm, bảo quản hoặc sử
dụng vắc xin [2].
Trùng hợp ngẫu nhiên: Xảy ra khi tiêm chủng nhưng nguyên nhân không phải
do vắc xin hoặc do sai sót trong khi tiêm chủng hay lo sợ do bị tiêm mà do trùng
hợp ngẫy nhiên với bệnh lý sẵn có hoặc do nguyên nhân khác . Khi một phản ứng


10

sau tiêm là trùng hợp ngẫu nhiên thì tình trạng này có thể đã xảy ra ngay cả khi đối
tượng chưa được tiêm chủng [29].
Do tâm lý lo sợ: xảy ra do sự lo sợ hoặc do bị tiêm đau, khơng phải do vắc xin
hoặc sai sót trong thực hành tiêm chủng [4]. Điển hình là phản ứng dây chuyền do
lo sợ tiêm vắc xin như trường hợp tại trường Trung học cơ sở xã Cao Sơn huyện
Mường Khương tỉnh Lào Cai có 19 học sinh có biểu hiện đau đầu, chóng mặt và
ngất xỉu sau khi tiêm vắc xin trong chiến dịch tiêm Sởi - Rubella năm 2014 [25].
Không rõ nguyên nhân: Không xác định được nguyên nhân gây ra phản ứng sau
tiêm chủng [37].

H
P

1.3.3. Phân loại phản ứng sau tiêm chủng:
Phản ứng sau tiêm chủng có thể được phân loại theo các cách như: tần suất
xuất hiện của phản ứng (thông thường, hiếm gặp); mức độ nghiêm trọng của phản
ứng (nhẹ, vừa, nặng); phạm vi phản ứng (tại chỗ, tồn thân); ngun nhân của phản
ứng (thuộc tính của vắc xin, sai sót trong q trình tiêm, trùng hợp ngẫu nhiên…)


U

[33]. Cả hai loại phản ứng tại chỗ và phản ứng hệ thống đều có thể xảy ra sau khi sử
dụng vắc xin, hầu hết chúng đều diễn ra nhanh ngay sau khi tiêm chủng. Ở đây
chúng tôi chủ yếu sử dụng cách phân loại theo mức độ nghiêm trọng của phản ứng
sau tiêm:

H

Phản ứng nhẹ: là những phản ứng thông thường xảy ra như sốt, sưng đau tại
chỗ, quấy khóc nhẹ.

Phản ứng nặng: là những phản ứng hiếm gặp như sốt cao, co giật, tím tái,
sốc phản vệ.
1.4.

Vắc xin Quinvaxem:

1.4.1. Sơ lược về vắc xin Quinvaxem:
Vắc xin Quinvaxem, hay còn gọi là vắc xin 5 trong 1, là vắc xin phối hợp gồm
giải độc tố vi khuẩn bạch hầu, uốn ván, vi khuẩn ho gà bất hoạt, kháng nguyên vi
rút viêm gan B và kháng nguyên vi khuẩn Haemophilus influenza type b (Hib).


11

Quinvaxem có tác dụng phịng các bệnh: bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và
viêm phổi, viêm màng não mủ do vi khuẩn Hib [22].
Quinvaxem gây miễn dịch cơ bản cho trẻ dưới 1 tuổi gồm 3 liều, vào thời
điểm trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi, mũi tiêm sớm nhất phải từ 6 tuần tuổi trở đi. Liều

lượng: tiêm 0,5ml/ liều; đường tiêm: tiêm bắp; vị trí: 1/3 giữa đùi. Không tiêm vào
mông hoặc tiêm dưới da. Vắc xin vẫn có thể dùng cho trẻ đã tiêm viêm gan B ngay
sau sinh nhưng không nên dùng vắc xin để tiêm phòng viêm gan B sau sinh [30].
Quinvaxem chống chỉ định với các trường hợp sau: tăng đáp ứng với bất kỳ
thành phần nào của vắc xin; đã có phản ứng với các vắc xin bạch hầu, uốn ván, ho

H
P

gà, viêm gan B hay Hib tiêm trước đó; các trường hợp xuất hiện bệnh cảnh não
không rõ nguyên nhân sau khi tiêm các vắc xin có chứa vi khuẩn ho gà. Cũng giống
như các loại vắc xin khác, không nên tiêm Quinvaxem cho trẻ em đang bị sốt (
≥380C)[30].

Những trường hợp có phản ứng nặng của liều tiêm trước đó hoặc liều tiêm trước

U

của vắc xin DPT, VBG cần phải được xem xét, đánh giá kỹ lưỡng việc nên hay
không nên tiêm chủng liều tiếp theo [1].

H

1.4.2. Phản ứng sau tiêm vắc xin Quinvaxem:
Từ các thử nghiệm lâm sàng (1500 liều vắc xin sử dụng cho 512 trẻ sơ sinh
khỏe mạnh từ 6 tuần tuổi), dựa theo số liều, sự xuất hiện tác dụng không mong
muốn được chia thành các tần số: rất phổ biến (>1/10); phổ biến (>1/100, ≤1/10); ít
gặp (>1/1000, ≤1/100); hiếm gặp (>1/10.000, ≤1/1000); rất hiếm (≤1/10.000, bao
gồm cả các báo cáo độc lập), bao gồm [30]:
-


Rối loạn tiêu hóa: Tiêu chảy, nơn - phổ biến.

-

Tình trạng rối loạn chung và tại chỗ:
 Phản ứng tại chỗ tiêm (nổi ban đỏ, rắn, đau) - rất phổ biến.
 Sốt - phổ biến.
 Tình trạng giống bệnh cúm - hiếm gặp.

-

Rối loạn dinh dưỡng và trao đổi chất: Rối loạn ăn uống - phổ biến.


12

-

Rối loạn hệ thông thần kinh: Buồn ngủ - phổ biến

-

Rối loạn tâm thần:
 Khóc – rất phổ biến
 Quấy khóc – phổ biến
 Khóc dai dẳng – ít gặp

-


Rối loạn hô hấp: Ho – hiếm gặp.

-

Rối loạn ở da và các mơ dưới da: Phát ban – ít gặp.

Các phản ứng hệ thống thường xuất hiện trong vòng 48 giờ sau tiêm chủng và
hầu hết các phản ứng tự biến mất. Tất cả các phản ứng tại chỗ và phản ứng hệ thống
đều khơng có di chứng. Các phản ứng dị ứng, bao gồm phản ứng phản vệ và nổi mề

H
P

đay được báo cáo rất hiếm gặp sau khi tiêm chủng các vắc xin chứa DTP, viêm gan
B và Hib [30] .

Theo Tổ chức Y tế tế giới, những phản ứng thông thường xảy ra sau khi tiêm vắc
xin Quinvaxem có thể là sốt (12,4-44,5%), đỏ tại chỗ tiêm (16,4-56,3%), sưng

U

(22,4-38,5%), đau (14,3-25,6%), mệt mỏi (62%), chán ăn (35%), nôn (13,7%).
Những phản ứng rất hiếm gặp là: co giật (6/100.000), bệnh não (0-5,3/1.000.000),
sốc phản vệ (1,3/1.000.000).

H

Ghi nhận phản ứng sau tiêm trên thế giới và Việt Nam về sử dụng vắc xin
Quinvaxem:


Trên thế giới: Sau khi được WHO tiền kiểm định chất lượng từ năm 2006
tới nay, Quinvaxem đã được đưa vào sử dụng trong chương trình tiêm chủng của
hơn 90 nước. Một số nước như Sri Lanka, Bhutan, Pakistan, Ấn Độ đã từng ghi
nhận các trường hợp phản ứng sau tiêm nhưng vẫn tiếp tục sử dụng vắc xin
Quinvaxem trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Tại Sri Lanka, Quinvaxem
được đưa vào TCMR từ năm 2008 trong thời điểm vắc xin đã và đang sử dụng tại
trên 34 quốc gia khác nhau và khơng có những phản ứng nghiêm trọng nào được
báo cáo từ các nước này. Cho đến nay, đây là những nước sử dụng vắc xin liên lục
và không bị gián đoạn. Tuy nhiên, Sri Lanka đã quyết định cho tạm dừng Quivaxem


13

sau khi xảy ra phản ứng sau tiêm nghiêm trọng hiếm gặp là cơn giảm trương lực cơ
– giảm đáp ứng (HHE) cùng với một vài trường hợp tử vong được báo cáo sau khi
tiêm vắc xin. Các cơ quan có trách nhiệm của Sri Lanka đã tiến hành điều tra chi
tiết nguyên nhân những ca tử vong và tình trạng HHE, đồng thời, WHO đã bổ
nhiệm một nhóm chuyên gia quốc tế kiểm tra và báo cáo mỗi khi có trường hợp tử
vong sau tiêm vắc xin Quinvaxem tại Sri Lanka. Sau khi đánh giá và điều tra toàn
diện, Quinvaxem đã được Sri Lanka đưa sử dụng trở lại năm 2010. Từ đó đến năm
2012, 14 trường hợp tử vong nữa được báo cáo trong tổng số trẻ đã tiêm vắc xin 5
trong 1. Bhutan đưa vắc xin 5 trong 1vào sử dụng từ tháng 9/2009. Việc xác định 5
trường hợp có bệnh cảnh não và/hoặc viêm màng não trong thời gian ngắn sau khi

H
P

tiêm vắc xin Quinvaxem dẫn đến quyết định đình chỉ tiêm Quivaxem vào ngày
23/10/2009. Sau quá trình điều tra tương tự như Sri Lanka, vắc xin Quivaxem đã
được sử dụng lại vào năm 2011. Ấn Độ giới thiệu vắc xin 5 trong 1 ở bang Tamil

Nadu và Kerala vào tháng 10/2011. Việc tiêm chủng sau đó được mở rộng sang một
số bang khác trong suốt nửa sau của năm 2012 đến quý đầu tiên năm 2013. Cho đến

U

nay, có 83 trường hợp phản ứng sau tiêm đã được báo cáo sau khi tiêm vắc xin [12].
Tại Việt Nam: Vắc xin Quinvaxem được đưa vào sử dụng trong chương
trình TCMR quốc gia vào tháng 6 năm 2010. Tỷ lệ tiêm vắc xin Quinvaxem từ năm

H

2010 đến 2012 luôn đạt trên 90%. Tuy nhiên tỷ lệ tiêm đột giảm xuống mức thấp là
59,4% vào năm 2013 sau khi xuất hiện một số trường hợp phản ứng nặng. Bộ Y tế
đã quyết định tạm dừng sử dụng vắc xin Quinvaxem trong 5 tháng năm 2013 trong
TCMR. Trong thời gian từ tháng 12/2012 đến tháng 03/2013 đã có 9 trường hợp tử
vong được báo cáo sau khi trẻ tiêm vắc xin Quinvaxem. Sau khi có kết luận an tồn
từ các đơn vị kiểm định độc lập trong và ngoài nước, từ tháng 10/2013, vắc xin
Quinvaxem được sử dụng lại trong chương trình TCMR. Hầu hết là các phản ứng
nhẹ sau tiêm chủng (sốt nhẹ dưới 38,5oC, sưng đau tại chỗ tiêm, quấy khóc…) nằm
trong giới hạn khuyến cáo của WHO.
Riêng trong năm 2015 ghi nhận 48 trường hợp phản ứng nặng sau tiêm các vắc
xin trong chương trình TCMR, trong đó 43 trường hợp phản ứng sau tiêm vắc xin


14

Quinvaxem. Các trường hợp phản ứng đã được báo cáo và điều tra theo quy định và
được Hội đồng tư vấn chun mơn tuyến tỉnh đánh giá ngun nhân: có 24 trường
hợp phản ứng có thể liên quan đến vắc xin sử dụng bao gồm sốc phản vệ, phản ứng
quá mẫn, sốt cao, tím tái, co giật... trong đó có 02 trường hợp được bệnh viện chẩn

đoán là sốc phản vệ sau tiêm vắc xin; 20 trường hợp do trùng hợp ngẫu nhiên; 02
trường hợp chưa rõ nguyên nhân.
1.4.3. Yêu cầu về chăm sóc trẻ sau tiêm chủng:
Chăm sóc điều trị là một ưu tiên hàng đầu đối với mỗi trường hợp phản ứng
sau tiêm chủng. Những phản ứng thông thường sau tiêm chủng như sốt nhẹ và đau

H
P

chỉ là những phản ứng tạm thời và có thể hồi phục nhờ sự chăm sóc, xử trí của cha
mẹ hoặc người chăm sóc [27]. Tuy nhiên, các trường hợp tai biến nặng sau tiêm
chủng cần phải được chăm sóc và điều trị tích cực tại các cơ sở y tế. Các cán bộ y tế
và người chăm sóc trẻ cần biết cách phát hiện, điều trị và báo cáo phản ứng sau tiêm
chủng một cách nhanh nhất. Đây là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo việc điều trị

U

sớm và kịp thời đối với mỗi trường hợp phản ứng sau tiêm chủng. Chính bởi lý do
đó, Bộ Y tế qui định người nhà của trẻ cũng cần được hướng dẫn theo dõi trẻ sau
khi tiêm chủng theo Quyết định số 2535/QĐ-BYT ngày 10/07/2014 [5]

H

Người được tiêm chủng phải được theo dõi tại nhà ít nhất 24 giờ sau tiêm chủng.
Trường hợp người được tiêm chủng là trẻ em thì người theo dõi trẻ phải là người
trưởng thành và biết chăm sóc trẻ. Các dấu hiệu cần theo dõi sau tiêm chủng bao
gồm:
-

Tồn trạng


-

Tinh thần, tình trạng ăn, ngủ

-

Dấu hiệu về nhịp thở

-

Nhiệt độ, phát ban

-

Các biểu hiện tại chỗ tiêm (sưng, đỏ...)

Đối với trẻ em cần cho trẻ bú mẹ hoặc uống nước nhiều hơn. Bế, quan sát trẻ
thường xuyên và chú ý không chạm, đè vào chỗ tiêm.


15

Người được tiêm chủng cần được đưa ngay tới cơ sở y tế để theo dõi, điều trị nếu
có dấu hiệu tai biến nặng sau tiêm chủng có thể đe dọa đến tính mạng của người
được tiêm chủng bao gồm các triệu chứng như khó thở, sốc phản vệ hay sốc dạng
phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt cao co giật, trẻ khóc kéo dài, tím tái, ngừng
thở. Chính vì vậy, cơng tác truyền thơng, phổ biến các kiến thức là vô cùng quan
trọng trong việc phát hiện và xử trí phản ứng sau tiêm. Điều này giúp người dân có
kiến thức, thái độ đúng trong việc chăm sóc sức khoẻ sau tiêm chủng.

1.5.

Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trẻ sau
tiêm chủng của các bà mẹ
1.5.1. Kiến thức chăm sóc trẻ sau tiêm chủng của các bà mẹ:

H
P

Trên thực tế có rất nhiều bậc cha mẹ còn chủ quan với việc tiêm chủng: nhờ
người khác cho con đi tiêm chủng hoặc tranh thủ thời gian nghỉ làm để cho con đi
tiêm... nhiều bà mẹ tỏ ra rất vội vàng, thậm chí gây áp lực cho CBYT về tốc độ tiêm
chủng.

U

Nghiên cứu của Dương Thị Hồng tại xã miền núi Đà Bắc tỉnh Hịa Bình năm
2009 cho thấy kiến thức của các bà mẹ về phản ứng xảy ra sau tiêm chủng còn hạn
chế. Tỷ lệ bà mẹ biết đến các phản ứng sau tiêm như sốt 78,4%, quấy khóc 64,7%,

H

các dấu hiệu nặng được rất ít bà mẹ biết đến như co giật là 11,9%, bỏ bú là 1,24%
[14]. Nghiên cứu gần đây của Nguyễn Khắc Từ trong năm 2014 tại Bắc Ninh cho
thấy có 82,8% các bà mẹ biết cách xử trí phản ứng thơng thường như sốt, 73,1% số
bà mẹ biết dấu hiệu về phản ứng sau tiêm nặng, 73,6% các bà mẹ biết hậu quả của
các phản ứng sau tiêm nặng và có 86% biết các dấu hiệu cần phải đưa trẻ đến cơ sở
y tế [18]. Một nghiên cứu khác về đánh giá kiến thức của cha/mẹ về bệnh sởirubella và vắc xin sởi-rubella của tác giả Dương Thị Hồng tại Hải Dương, Hà Nam
và Thái Bình năm 2014 cho thấy trong tổng số 300 đối tượng được phỏng vấn, chỉ
có duy nhất 1 đối tượng trả lời đúng 5 phản ứng nhẹ có thể gặp sau tiêm vắc xin. Sự

khác biệt về kiến thức của các bà mẹ đối với bệnh rubella và phản ứng thông
thường sau tiêm vắc xin tốt hơn ở nhóm có độ tuổi <30 so với nhóm bà mẹ lớn tuổi
hơn. Học vấn cũng đóng vai trị quan trọng trong nhận thức của bà mẹ về bệnh và


16

chăm sóc trẻ đúng sau tiêm chủng. Các bà mẹ có trình độ học vấn từ Phổ thơng
trung học trở lên có kiến thức tốt hơn các bà mẹ có trình độ từ THCS trở lên [16].
Một nghiên cứu khác của Dương Thị Hồng và cộng sự năm 2014 tại Lào Cai,
Nghệ An, Đắc Nông và Kiên Giang cho thấy chỉ có 50% bà mẹ biết phải theo dõi
trẻ 30 phút sau tiêm chủng và theo dõi ít nhất 24h tại nhà. Tỷ lệ các bà mẹ biết về có
phản ứng thông thường sau tiêm chủng cao (95,5%). Cũng theo nghiên cứu này, có
90,4% bà mẹ biết được các dấu hiệu bất thường sau tiêm phải đưa trẻ đến cơ sở y tế.
Điều này cho thấy các bà mẹ đã có hiểu biết về phản ứng sau tiêm chủng có thể xảy
ra và ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. Tuy nhiên, kiến thức về các dấu hiệu nhận
biết sớm và cụ thể của các bà mẹ còn rất hạn chế. Các dấu hiệu cụ thể được bà mẹ

H
P

biết đến nhiều nhất là sốt cao (75,3%), quấy khóc kéo dài (30,8%), dấu hiệu bất
thường khác (tím tái, co giật, bỏ bú…) là 45,5% [17]

Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của Dương Thị Hồng và Nguyễn Thị Thanh
Hương năm 2015 thực hiện tại Quảng Ninh năm 2015 cho thấy 81,9% các bà mẹ
biết dấu hiệu phản ứng nặng sau tiêm là sốt cao, kéo dài khơng giảm, sau đó là dấu

U


hiệu quấy khóc nhiều (65,2%), dấu hiệu co giật, tím tái (63,8%), dấu hiệu khó thở
(50%), và có đến 14,3% bà mẹ không biết một dấu hiệu phản ứng nặng nào sau khi
tiêm chủng. Thứ tự trẻ và số con cũng là một trong những yếu tố liên quan đến kiến

H

thức tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi. Những bà mẹ có con là con đầu hay con
thứ hai có kiến thức đúng về tiêm chủng đầy đủ cao hơn so với con thứ 3 hay thứ 4
[16, 20].

1.5.2. Thái độ chăm sóc trẻ sau tiêm chủng của các bà mẹ:
Theo một nghiên cứu của Nguyễn Khắc Từ trong năm 2014 tại Bắc Ninh, số bà
mẹ có thái độ tích cực, chấp nhận thực tế phải đối mặt với phản ứng sau tiêm chủng
ở trẻ là 77,5%, có thái độ khơng tích cực 22,5% [18].Nghiên cứu của Tống Thiện
Anh tại Vĩnh Phúc cho thấy 77,6% số bà mẹ tỏ ra lo lắng khi cho con đi tiêm chủng,
chỉ có 59% bà mẹ vẫn tiếp tục cho con đi tiêm chủng liều tiếp theo khi thấy các biểu
hiện của phản ứng sau tiêm [23].


17

1.5.3. Thực hành:
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Dung tại TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh năm 2011
cho thấy: Thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm chủng của các bà mẹ tại TP. Hạ Long
được ghi nhận có cả mặt tốt và chưa tốt. Các thực hành tốt gồm: giữ gìn và bảo
quản sổ tiêm chủng cá nhân cho trẻ đạt 100%; thực hiện theo dõi trẻ sau tiêm tại
nhà đủ 24 giờ đạt 91,4 %; chăm sóc và xử trí sốt đúng cách đạt 98%. Các thực hành
chưa tốt được ghi nhận gồm: thời gian theo dõi trẻ sau tiêm tại TYT không đủ là
60,5%; không chủ động cung cấp thông tin về sức khỏe của trẻ và tiền sử phản ứng
lần tiêm trước cho CBYT là 11,4%; xử trí phản ứng tại chỗ sau tiêm không đúng

cách là 27,2% [19]. Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Từ trong năm 2014 tại Bắc Ninh

H
P

cho thấy có 94,5% các bà mẹ giữ số tiêm chủng cá nhân của trẻ. Số bà mẹ cung cấp
thơng tin về tình trạng sức khỏe hiện tại của trẻ là 93,9%, tiền sử bệnh tật là 81,9%,
tiền sử dị ứng là 74%, phản ứng của trẻ với lần tiêm trước là 72,9%. Số bà mẹ tuân
thủ đủ thời gian theo dõi trẻ tại trạm y tế là 91,3%, các bà mẹ không tuân thủ đủ
thời gian theo dõi với các lý do là khơng có đủ thời gian (56,4%), thấy khơng vấn

U

đề gì (41%) và khơng có kiến thức (2,5%). Số bà mẹ tuân thủ đủ thời gian theo dõi
sức khỏe trẻ sau tiêm chủng tại nhà là 84,9%, số bà mẹ không tuân thủ đủ thời gian
là 15,1%, lý do thấy trẻ khơng vấn đề gì chiếm 88%, khơng có đủ thời gian chiếm

H

10,6%, và khơng có kiến thức là 1,4% [18].
Các nghiên cứu đã tìm thấy một số yếu tố liên quan tới thực hành chăm sóc trẻ
sau tiêm của các bà mẹ. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Dung tại Quảng Ninh năm
2011 cho thấy: Có mối liên quan giữa thái độ và thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm
của bà mẹ. Bà mẹ có thái độ tích cực thì tỷ lệ thực hành chăm sóc sau tiêm đúng cao
gấp 2,15 bà mẹ có thái độ khơng tích cực (p<0,05). Có mối liên quan giữa việc bà
mẹ được tư vấn về PƯSTC và thực hành của bà mẹ. Bà mẹ được tư vấn về PƯ STC
thì tỷ lệ thực hành chăm sóc sau tiêm đúng cao gấp 3,99 lần bà mẹ không được tư
vấn (p<0,05). Bà mẹ có kiến thức đạt thì tỷ lệ thực hiện theo dõi trẻ tại TYT sau
tiêm chủng đủ 30 phút cao gấp 2,48 lần bà mẹ có kiến thức khơng đạt (p<0,05).
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố về văn hóa, xã hội (tuổi, trình độ học

vấn, nghề nghiệp...) và thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm của bà mẹ [19]


18

Mối liên quan kiến thức thực hành cũng thể hiện trong nghiên cứu của Nguyễn
Khắc Từ trong năm 2014 tại Bắc Ninh. Bà mẹ có trình độ cấp 3 trở lên xử lý các
phản ứng thông thường sau tiêm như sốt đạt 85,7%, bà mẹ có trình độ cấp 2 trở
xuống xử lý các phản ứng thông thường sau tiêm như sốt đạt 77,3%. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê, bà mẹ có trình độ cấp 3 trở lên xử lí phản ứng thơng thường
sau tiêm như sốt đạt cao hơn 1,7 lần so với bà mẹ có trình độ cấp 2 trở xuống. Bà
mẹ diện hộ nghèo thực hành xử lí các phản ứng thơng thường sau tiêm như sốt đạt
77,1%, bà mẹ khơng nghèo lên xử lí đạt 85,6%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05, bà mẹ hộ khơng nghèo xử lí phản ứng thông thường sau tiêm như sốt
đạt cao hơn 1,8 lần so với bà mẹ hộ nghèo. Bà mẹ có kiến thức khá tốt về phản ứng

H
P

sau tiêm thì theo dõi và xử trí các phản ứng thơng thường sau tiêm như sốt đạt
88,9%, bà mẹ khơng có kiến thức tốt xử trí đạt 18%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05. Bà mẹ được tiếp cận thông tin truyền thơng hướng dẫn về phản ứng
sau tiêm chủng thì xử trí các phản ứng thơng thường sau tiêm như sốt đạt 93,5%, bà
mẹ có thái độ tích cực xử trí đúng đạt 10,7% (p<0,05).

U

Phản ứng sau tiêm chủng có thể được phịng ngừa và giảm nhẹ nếu có sự kết hợp
chặt chẽ giữa cán bộ y tế làm tiêm chủng, cha mẹ trẻ và cán bộ y tế làm cơng tác
điều trị. Do đó trước khi cho trẻ tiêm chủng, gia đình trẻ cũng cần phải được được


H

tư vấn kỹ về lợi ích của tiêm chủng cũng như những rủi ro có thể gặp phải khi tiêm
chủng.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khắc Từ trong năm 2014 tại Bắc Ninh cho thấy
kênh thông tin mà bà mẹ cho là hiệu quả nhất là truyền thông đại chúng với tỷ lệ
56,3%, tiếp theo là kênh thơng tin của chương trình tiêm chủng mở rộng 53,8%, và
từ cán bộ y tế chiếm 29,5%. Các nhu cầu thông tin về phản ứng sau tiêm của bà mẹ
về dấu hiệu phản ứng sau tiêm chủng là 53,6%, thời gian theo dõi sau tiêm là
33,6%, hướng dẫn chăm sóc tại nhà là 11,6% [18].
Các hoạt động truyền thông về tiêm chủng và phản ứng sau tiêm đã được chương
trình TCMR Quốc gia, khu vực và địa phương triển khai trên nhiều phương tiện
truyền thông: Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, báo chí, tờ rơi, áp


×