Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhật bản trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.28 KB, 87 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình hội nhập, làn sóng đầu tư của nước ngồi vào Việt
Nam ngày càng gia tăng trong đó có nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản. Đến
cuối năm 2006, đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam
đạt 7,4 tỷ USD. Nhật Bản đang được coi là nhà đầu tư hiệu quả nhất tại Việt
Nam, đứng đầu về số vốn thực hiện, trong đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực
cơng nghiệp (85%). Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Việt Nam thông qua
việc ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung
nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các
doanh nghiệp Nhật Bản ngày càng nhiều. Điều đó đã đóng góp đáng kể vào
sự ổn định và phát triển nền kinh tế, nó giải quyết được nhiều việc làm và thu
nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn Nhật Bản, phần lớn được đảm bảo, khơng xảy ra các
cuộc đình cơng, bãi cơng của công nhân, ông chủ đánh đập công nhân như
một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khác …
Bên cạnh những thành tựu đó cũng cịn có những hạn chế gây ảnh
hưởng đến lợi ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không
nhỏ đối với sự phát triển không chỉ của người lao động mà cịn đối với chính
DN. Đầu tháng 10.2006, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đã
công bố kết quả điều tra về xu hướng và các vấn đề lực lượng lao động và
tình hình phát triển nguồn nhân lực ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Kết quả
của cuộc điều tra này cho thấy, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty lo ngại về vấn
đề tăng lương đặc biệt cao, chiếm tới 75,9%. Mặc dù tăng lương là xu hướng


2


khá phổ biến ở hầu hết các nước, nhưng ở Việt Nam, các công ty Nhật Bản
vẫn khai thác được lợi thế về mức lương thấp. Xét tới mức lương hàng tháng,
khoảng cách giữa lương của các công nhân ở Việt Nam và ở miền Nam Trung
Quốc có khoảng cách đáng kể, khoảng 70 – 80 USD (với cùng một cơng việc
như nhau) [43].
Do đó, vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn nước ngồi là một vấn đề cần được nghiên cứu trong
tình hình hiện nay, để có những giải pháp cần thiết. Xuất phát từ thực tế đó,
Học viên chọn đề tài: "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội"làm luận văn thạc
sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế ở các DN nói chung và các DN có vốn đầu tư
nước ngồi nói riêng đã có một số tác giả đã nghiên cứu:
- Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh
ngiệpNhà nước ở nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng) (Luận văn Thạc sĩ,
1995) của Đỗ Đăng Dân.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trị của cơng đồn với việc
bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân (Luận văn
Thạc sĩ, 1995) của Nguyễn Lợi.
- Trần Quang Lâm, An Như Hải chủ biên (2006), Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005). Phát triển nguồn nhân
lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của
Đỗ Viết Thẩn.



3
- Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nơng nghiệp
tập thể hiện nay ở nước ta (Luận án. PTS, 1988) của Nguyễn Duy Hùng
- Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ
trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (Luận án Tiến sĩ khoa học
quân sự, 1998), Học viện chính trị Quân Sự
Tuy nhiên để đi sâu vào vấn đề "Lợi ích kinh tế của người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội"
thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này để
nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa các tư liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm góp phần làm rõ thêm những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn lợi ích
kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật
Bản trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó nhằm đề xuất những phương hướng
và giải pháp góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn nước ngồi.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đi vào giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Một là: Hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích
kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế cá nhân người lao động nói riêng.
Hai là: Đi sâu nghiên cứu về thực trạng tình hình lợi ích kinh tế của
người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản, vạch ra
những mặt ưu điểm và hạn chế cần phải khắc phục.
Ba là: Đề ra được hệ thống giải pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của người
lao động. Từ đó đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh
nghiệp Nhật, góp phần vào cơng cuộc xây dựng, kiến thiết, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn thủ đô và trong cả nước.



4
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đầu tư nước ngoài là một phạm trù rộng, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản.
- Đề tài chỉ nghiên cứu lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, còn sự đầu tư của các
quốc gia, và các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu là các tư liệu có được trong khoảng thời gian từ
năm 1993 – 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngồi các phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin,
luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, thống
kê, phỏng vấn chun gia, phân tích tổng hợp, so sánh…
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng
và Đại học trong khn khổ mơn Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc soạn
thảo các văn bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các
doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua những thành tựu và những đóng góp. luận văn có những ý
nghĩa thực tiến góp phần giúp cho các doanh nghiệp nước ngồi có vốn đầu tư
ở Việt Nam cần phải có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trò của lợi ích
kinh tế đối với người lao động, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ
sở đó họ có thái độ cư xử đúng đắn, phù hợp với đạo đức, với quy ước của
pháp luật trong quá trình các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


5
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
1.1. LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.1.1. Bản chất lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế của người lao động
1.1.1.1. Bản chất của lợi ích kinh tế
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan tâm
của tất cả các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Điều đó được biểu
hiện rất đa dạng, phong phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản xuyên suốt
mọi nền sản xuất, của toàn bộ tiến trình vận động và phát triển của lịch sử. Theo
quan điểm của các nhà kinh điển thì lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những
quan hệ xã hội, những quan hệ kinh tế trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ
kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi
ích” [30, tr.376].
Khi bàn về lợi ích các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
V.P Ca-man-kin cho rằng: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là
sự tác động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó” [6, tr.13].
Theo quan điểm của tác giả Đào Duy Tùng thì: Lợi ích kinh tế là hình
thức biểu hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong sản
xuất [39, tr.9].
Điều này thể hiện: người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình
sản xuất, quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữa vai trị

quyết định trong hệ thống sản xuất.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù
kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi
ích kinh tế là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [33].


6
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng: Lợi ích kinh tế là
sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu
vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt
động kinh tế của con người…Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các
quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [32, tr. 296].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin: Lợi ích kinh tế là lợi ích
vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế
khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản
xuất quyết định [2, tr.289].
Từ những quan điểm khác nhau trên thấy rằng: Trong bất cứ xã hội nào
con người muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, bảo vệ sức
khoẻ, học tập và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn tại cần thoả
mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển thể lực và trí lực của
mình. Tồn bộ những nhu cầu đó được biểu hiện dưới một hình thức chung
nhất chính là lợi ích kinh tế. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển
kinh tế xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị … song
động lực chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết
định thúc đẩy con người hành động, chi phối nội dung các động lực khác.
Cuộc sống của con người bao giờ cũng địi hỏi nhu cầu vật chất và văn hố
ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ nhu cầu nào của con người cũng
được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu mang tính
hiện thực mới được thoả mãn và mới thuộc phạm trù lợi ích kinh tế. Nhu cầu

đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất định. Hay
chính là: khơng phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi được
xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế
có liên quan đến nhu cầu của con người. Nhưng không phải mọi nhu cầu của
con người đều trở thành lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu vật chất
(nhu cầu kinh tế) mới trở thành lợi ích kinh tế.


7
Về bản chất phải khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh
tế khách quan. Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thông qua hoạt động
có nhận thức của con người. Và con người càng nhận thức tự giác được phạm
trù lợi ích, thì hoạt động của họ càng thu được kết quả cao.
Quan hệ sản xuất là khách quan, nó ln tồn tại trong vận động (như
mọi sự vật hiện tượng). Sự vận động của QHSX biểu hiện ở sự vận động của
các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra (nghĩa là khi QHSX được xác lập,
làm nảy sinh các quy luật kinh tế phù hợp với bản chất của QHSX). Thông
qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà QHSX ảnh hưởng tới quá trình
sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế, phản ánh một mặt của QHSX, các quy luật
kinh tế là quy luật xã hội, phương thức hoạt động của chúng đều phải thông
qua con người. Do đó, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi
ích kinh tế để chi phối con người hành động theo quy luật.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của QHSX, là một khâu chính của
cơ chế tác động chung của quy luật kinh tế do QHSX sinh ra. Khơng có lợi
ích kinh tế thuần t tồn tại ngồi con người hoặc là con người khơng ý thức
gì về lợi ích. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, những con
người có khả năng nhận thức nó và vì nó mà hành động. Ở đây, cái khách
quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan, mang hình thức chủ quan, cái chủ
quan do khách quan qui định. Trong thực tế, các động cơ hành động kinh tế
của con người có vẻ chủ quan nhưng thực ra nó là động cơ mang tính khách

quan. Một mặt, thơng qua lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác,
thơng qua lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội
được thực hiện. Vì vậy, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) trở thành một
trong những động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội
phát triển. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay
chuyển những quân chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích
hoạt động của con người “thì chúng lay động đời sống nhân dân”.


8
Từ sự tiếp cận ở trên có thể khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một
phạm trù kinh tế khách quan nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan
hệ sản xuất nhất định, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất và
phản ánh mặt bản chất nhất của QHSX. Lợi ích kinh tế không tuỳ thuộc vào
yếu tố chủ quan của con người (không tuỳ thuộc ở chỗ là con người có nhận
thức được nó hay khơng, mà do địa vị của họ trong QHSX quyết định).
1.1.1.2. Lợi ích kinh tế của người lao động
Hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào với hơn 49
triệu người (hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người), đang hoạt động
trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh
tế quốc dân, bao gồm tất cả những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật
chất và sản xuất không vật chất; những người có chun mơn kỹ thuật; người
lao động trực tiếp và gián tiếp, người lao động chân tay và trí óc…Do sự phát
triển của phân cơng lao động xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, sự gia nhập
WTO và nhất là trong một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả mọi người - bất kỳ ai? làm gì?
ở đâu? thuộc thành phần kinh tế nào? Tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra
sản phẩm cho xã hội và thu nhập quốc dân là người lao động
Người lao động ở mọi thời đại kinh tế, đều là những người trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất, ra những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và

cho xã hội. Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh
tế và do đó địa vị xã hội của họ trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội
cũng khác nhau. Rõ ràng lợi ích kinh tế của người nô lệ lao động dưới roi vọt
của người quản nơ khác hồn tồn với lợi ích kinh tế của người công nhân
làm thuê, dưới sự quản lý của các chủ tư bản.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, khi người lao động
tự do làm việc theo năng lực và hưởng theo thành quả lao động của mình. Giá
trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết


9
để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, đồng thời phản ánh được mức thoả
mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu đời sống vật chất tinh thần của bản
thân và gia đình người lao động. Sự hoạt động của một DN, thì lợi ích kinh tế
khơng phải ở trong nhận thức của con người, mà ở trong một cơ sở kinh tế
nhất định, nhưng phương thức thực hiện lợi ích lại tuỳ thuộc vào nhận thức
của con người. Do đó, trong q trình lao động, sản xuất, người lao động
khơng thể đặt lợi ích của mình ngồi sự tồn tại của DN, cũng như kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của DN mà họ đang làm việc. Ngược lại DN khơng
tự nó đưa lại lợi ích cho người lao động, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để
người lao động thực hiện lợi ích mà thôi như việc làm, điều kiện làm việc,
môi trường thể hiện năng lực….và do vậy, lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ
kinh tế giữa người lao động với người lao động, giữa người lao động với chủ
DN… Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan hệ kinh tế của
một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [29].
Từ sự nghiên cứu tiếp cận phạm trù lợi ích kinh tế và phạm trù người
lao động nói chung, có thể nêu lên một cách khái quát: Lợi ích kinh tế người
lao động là trong q trình sản xuất người lao động đem trí tuệ, tài năng lao
động của chính mình để lao động một cách tự giác, sáng tạo nhằm làm ra
ngày càng nhiều của cải vật chất thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh

thần của bản thân, gia đình và làm tròn nghĩa vụ với xã hội và cộng đồng.
Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện
của các quan hệ kinh tế, các quy luật kinh tế và phản ánh phương thức, mức
độ thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của chủ thể kinh tế, của các thành
viên khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Do đó khái niệm lợi ích kinh tế của
người lao động ở nước ta hiện nay thể hiện trên hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người lao động phát huy được khả năng sáng tạo trong một
mơi trường chính trị - xã hội ưu việt. Thể hiện, người lao động sẽ lao động
một cách tự giác, sáng tạo và có hiệu quả ngày càng cao vì lợi ích của chính
người lao động, của tập thể, của cộng đồng. Tuy nhiên, muốn biến khả năng


1
0
đó thành hiện thực, cần phải có một cơ chế, hình thức kết hợp hài hồ các lợi
ích kinh tế trong một hệ thống, nhằm khơi dậy phát huy một sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội, của từng tập thể và của từng cá nhân người lao động.
Thứ hai: thoả mãn tốt hơn những nhu cầu về vật chất, tinh thần cá nhân
và gia đình người lao động. Trong thực tế lao động sản xuất và cuộc sống nói
chung, đa phần những người lao động không chỉ quan tâm đến mức độ thoả
mãn các nhu cầu về đời sống vật chất (thu nhập thông qua tiền lương, tiền
thưởng và các sản phẩm của lao động), ngồi ra lợi ích kinh tế của người lao
động cịn biểu hiện thơng qua việc hưởng thu các phúc lợi xã hội như: quyền
có việc làm, chăm sóc ý tế, các khoản phụ cấp, trợ cấp khác.
Như vậy, lợi ích của người lao động là nói tới khả năng lao động và
thành quả lao động với cách thức, mức độ thoả mãn những nhu cầu về đời
sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của người lao động. Khi lợi ích
kinh tế của người lao động được thực hiện sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy
sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời phát triển sản xuất,
phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo ra tiền đề, khả năng thoả mãn ngày càng hơn

nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
1.1.2. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với người lao động
Ph.Ăngghen cho rằng: Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ bản
mà tất cả mọi nguyên tắc phải tuân theo.Do đó, bất cứ hoạt động nào của con
người cũng bị chi phối bởi hai động lực chính đó là: Động lực vật chất (kinh
tế) và động lực tinh thần. Để đạt được những kết quả cao trong hoạt động
kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà còn cả động lực tinh
thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò quyết định nhất, là động
lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Vì mọi hoạt động của con
người có mối quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chặt chẽ vào hai yếu tố đó là:
Khả năng của con người và động lực kích thích. Cho nên, các chính sách kinh
tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích


1
1
thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế, vì nó ln là động lực
kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với tồn xã hội. Đồng thời
khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện
các loại lợi ích khác. Đời sống xã hội được phồn thịnh, thì đời sống tinh thần
mới được nâng cao. Thực tế đã kiểm chứng; trong cơ chế kinh tế cũ, chúng ta
chỉ tập trung quan tâm đến việc hồn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế
hoạch hố tập trung bao cấp, mà ít quan tâm tới lợi ích người lao động, có
người cịn coi lợi ích cá nhân như là một điều xấu, e ngại nó như là cái gì trái
với nền tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng, điều đó đã
làm triệt tiêu động lực của con người trong lao động sản xuất. Từ khi Đảng và
Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
thực hiện phân phối theo lao động: Ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
có sức lao động mà khơng làm thì khơng hưởng. Đã tạo một động lực rất lớn
đối với người lao động, kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động của mỗi

cá nhân trong sản xuất. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là động lực
kích thích hoạt động của con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát huy
nhân tố con người, điều cơ bản nhất là phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích
kinh tế, và phải coi lợi ích kinh tế là mục tiêu cơ bản nhất của mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nguồn gốc sâu xa của mọi động lực kinh tế
được bắt nguồn từ nhu cầu kinh tế và sự địi hỏi được thoả mãn nhu cầu đó
của con người.
Hiện nay, do nắm bắt được vai trị lợi ích kinh tế đối với người lao
động là một tất yếu, để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mình các chủ DN đã
biết quan tâm chăm lo phát huy yếu tố con người, coi trọng những lợi ích thiết
thân của người lao động, dựa vào lực lượng khoa học kỹ thuật, cơng nhân
lành nghề, đặt lịng tin, khắc phục sự kỳ thị, đảm bảo thu nhập xứng đáng với
khả năng đóng góp của người lao động, tìm ra cơ chế quản lý phù hợp, coi
trong việc sử dụng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, cải thiện điều kiện lao


1
2
động… để người lao động yên tâm làm việc, phát huy tính sáng tạo, đưa lại
hiệu sản xuất cao cho DN. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số DN
kinh doanh kiểu “chụp giật”, lợi dụng sức lực của người lao động để thu lợi
nhuận, không quan tâm đến lợi ích kinh tế của người lao động. Dẫn tới các
cuộc đình cơng, bãi cơng địi tăng lương…của người lao động đối với giới
chủ. Đây là một vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi các ngành chức năng giải
quyết triệt để, làm sao người lao động yên tâm làm việc và được hưởng đúng
với quyền lợi của mình.
1.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH LỢI ÍCH KINH TẾ CỦANGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Đặc điểm sử dụng lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngồi
Hai mươi năm, từ khi có luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam (12/1987)
đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreing Direct Investmen: FDI) ngày
càng trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng lên đã thật sự có tác động
tích cực vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một bộ phận cấu thành nền kinh tế nước ta: “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều
việc làm” [11, tr.99]. Để khẳng định tầm quan trọng của chính sách khuyến
khích thu hút đầu tư, trên tinh thần thực hiện chính sách đa phương hố, đa
dạng hoá trong kinh tế đối ngoại, Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tế cho thấy khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngồi ở Việt Nam đã có tốc độ phát triển nhanh, đóng
góp ngày càng lớn cho tổng sản phẩm trong nước và khẳng định rõ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.


1
3
Thu hút FDI đã góp phần to lớn vào quá trình thay đổi cơ cấu của nền
kinh tế, thực hiện CNH, HĐH đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế. Cùng với sự phát triển tích cực của quan hệ ngoại giao với các nước, năm
2006 vị thế của Việt Nam trên thế giới tiếp tục nâng cao, nhất là sau khi trở
thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao
APEC lần thứ 14 tại Hà Nội và Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình
thường vĩnh viễn (PNTR), càng làm tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư
nước ngoài đối với Việt Nam.

Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư: Tính đến cuối năm 2004, Việt
Nam đã thu hút được 2.098 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký
là 17,8 tỉ USD. Riêng năm 2005, số vốn đăng ký là 5,835 tỉ USD, tăng 45,2%
so với năm 2004, vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện 3, 747 tỉ USD so với
2004. Đến năm 2006, FDI là điểm sáng nổi bật trong bức tranh kinh tế Việt
Nam, với tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt trên 10,2 tỉ USD, mức
cao nhất từ năm 1988 (8,8 tỉ USD năm 1995) đến nay. Số vốn bình quân 1 dự
án 9,4 triệu USD, cao gấp hai lần quy mơ bình qn của năm 2005 (4,6 triệu
USD/ dự án). Tính đến cuối năm 2006, cả nước đã có 6.813 dự án cịn hiệu
lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 60,4 tỉ, vốn thực hiện (của các dự án còn
hoạt động) đạt trên 28,7 tỷ.
Việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài được phân theo
địa phương.
Bảng 1.1: Kết quả thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
phân theo địa phương, giai đoạn 2000 – 2005
TT
1.
2.
3.
4.
5.

Địa phương
TP. Hồ Chí Minh
Hà Nội
Đồng Nai
Bình Dương
Bà Rịa – Vũng Tàu

Nguồn: [4].


Số dự án (%)
30,19
11,11
11,45
18,44
2,05

Tổng vốn đăng ký (%)
23,4
16,74
14,99
9,98
7,61


1
4
Theo số liệu trên thấy rằng, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã
hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương thu
hút được nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài.
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào đều gắn liền với lợi ích, bởi các hoạt
động kinh tế thực chất là nhằm mục đích là các lợi ích khác nhau. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài liên quan đến lợi ích của DN nước ngoài, của DN Việt Nam
và người lao động làm việc trong các DN đó. DNCVĐTNN khi đầu tư vào
Việt Nam, có thể hoạt động đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, ngành nghề nào
mà pháp luật nước sở tại cho phép, với mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do
đó, khu vực nào, ngành nghề nào tạo ra điều kiện thuận lợi, thì khu vực đó,
ngành nghề đó sẽ thu hút được vốn đầu tư nước ngồi. Bên cạnh đó, nước chủ
nhà có quyền ban hành luật pháp riêng cho các nhà đầu tư nước ngồi, cịn

luật pháp có hấp dẫn họ hay khơng tuỳ thuộc vào lợi nhuận mà họ sẽ thu được
trong quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ rõ rằng: xét về
khía cạnh lợi nhuận có sự khác nhau trong hoạt động đầu tư của các DN vừa
và nhỏ và các công ty TNCs. Do các DN vừa và nhỏ có vốn đầu tư hạn chế
nên thường thực hiện các dự án qui mô nhỏ và trung hạn. Nếu trong trường
hợp nước đến đầu tư bị khủng hoảng kinh tế thì các DN đó dễ rút vốn về
nước, hoặc khơng triển khai dự án đầu tư mới. Còn TNCs lớn có chiến lược
tồn cầu và mục tiêu dài hạn, nên các dự án đầu tư khi đã lựa chọn thường
được thực hiện kể cả trong trường hợp có khủng hoảng kinh tế. Từ đó việc
xác định lợi nhuận của hai DN này cũng có sự khác nhau. Nếu như DN vừa
và nhỏ cần phải tạo ra được lợi nhuận nhanh, thì các TNC s có thể chịu thua lỗ
trong một thời gian nhất định, miễn là sau đó có lãi và toàn bộ chu kỳ của dự
án đầu tư thu được lợi nhuận trung bình trên từng thị trường. Từ những đặc
điểm trên, khi lợi ích của nước chủ nhà phù hợp với lợi ích của nhà đầu tư
nước ngồi thì dự án đầu tư được thực hiện thuận lợi. Từ đó cho thấy, các đối
tác đầu tư vốn lớn trong năm 2006 là Hoa kỳ; Nhật Bản, Hàn Quốc. Với sự
gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, đặc biệt là


1
5
Nhật Bản. Cụ thể, trong tháng 11 qua Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu dịng
đầu tư nước ngồi nói chung và Nhật Bản nói riêng đã và đang đầu tư mạnh
mẽ vào Việt Nam. Năm 2006, môi trường kinh doanh của nước ta tiếp tục cải
thiện. Ngoài triển khai luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp cùng các nghị định hướng
dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư,
nhiều biện pháp đã được tiến hành nhằm hạn chế và khắc phục tình trạng yếu
kém của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào q trình thực hiện CNH,

HĐH và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Đối với ngành cơng nghiệp, các
DN đầu tư nước ngồi chiếm 38% sản lượng công nghiệp chung của cả nước và
có tốc độ tăng trưởng 20%/năm. đầu tư nước ngồi đã góp phần mở ra những
ngành cơng nghiệp mới với công nghệ và phương thức kinh doanh tiên tiến tại
Việt Nam. Thể hiện: các DNCVĐTNN chiếm gần 100% về khai thác dầu thô,
80% công nghệ sản xuất ô tô, máy giặt, máy điều hoà nhiệt độ; 60% sản lượng
thép cán; 30% xi-măng; 33% thiết bị điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 49%
da giày; 25% thực phẩm đồ uống… [3]. Các lĩnh vực cơng nghiệp trên đây đã
góp phần tạo ra bước phát triển về tính chất, trình độ hiện có của lực lượng sản
xuất, làm cho lực lượng sản xuất của nước ta phát triển theo hướng hiện đại, phù
hợp với xu thế và mục tiêu chung của sự nghiệp CNH, HĐH.
Sự phát triển của FDI đã tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của
quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ năm 1991 đến năm 1998 trung
bình hàng năm vốn nước ngồi chiếm khoảng 28,7% tổng số vốn đầu tư xã
hội; trong đó giai đoạn 1991- 1995 tỷ lệ là 25,7%, từ năm 1996- 1998 gần
30%. Trong giai đoạn 2001 – 2005 tổng vốn FDI thực hiện là 14,3 tỉ USD,
vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Khu vực FDI là
lực lượng quan trọng hỗ trợ cho các khu vực kinh tế tế khác trong nền kinh tế
quốc dân, đóng góp lớn vào đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với gần 20
năm hoạt động, nhưng FDI đã đóng góp một phần khơng nhỏ vào GDP theo
hướng tăng tích cực: Năm 1993: 3,6%; 1995: 6,3%; 1996: 7,9%; 1997:
9,07%; 1998: 10,12%; 1999: 12,3%; 2000: 13,3%; 2001: 13,5%; 2002:


1
6
13,91%; 2003: 14,47%; 2004: 14,8%; 2005: 15% và 2006: 15,8% [4]. Như
vậy FDI đã đóng góp vào sự tăng trưởng của GDP, vào nguồn ngân sách Nhà
nước, đặc biệt có tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch
xuất khẩu. Sự đóng góp này đã tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam thực

hiện chiến lược cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu.
Khẳng định vị trí, tầm quan trọng của FIE, Đại hội Đảng tồn quốc lần
thứ X khẳng định: “Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hố các
hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài
vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng” [13, tr.87].
Đầu tư nước ngoài là nhân tố góp phần quan trọng vào q trình hình
thành một lực lượng lao động mới ở Việt Nam. Những năm qua, theo số liệu
thống kê, đầu tư nước ngoài đã giải quyết việc làm trực tiếp cho hơn 860
nghìn lao động có việc làm và hàng triệu lao động khác liên quan gián tiếp
Trong các DNCVĐTNN, quan hệ lao động, trước hết là quan hệ giữa
người sử dụng lao động - người chủ và người lao động được thực hiện thông
qua hợp đồng lao động giữa công nhân và chủ DN; cũng như hợp đồng lao
động tập thể giữa đại diện chủ sở hữu và đại diện người lao động thông qua
thoả ước lao động. Một thực tế thường xảy ra là: khi các DN mới bắt đầu đi
vào hoạt động, hoặc khi gặp khó khăn về sản xuất – kinh doanh, nhìn chung
chủ DN thường muốn trả cơng cho người lao động thấp hơn so với số mà họ
đáng được hưởng; ngược lại người lao động muốn làm việc ít giờ hơn nhưng
được trả cơng cao hơn. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết thông qua
thương lượng giữa chủ DN với đại diện của người lao động sẽ dẫn đến tình
trạng đình cơng, bãi cơng làm thiệt hại cho DN, cũng như người lao động.
Đầu tư nước ngồi ở nước ta đã thu hút hàng nghìn DN của các nước
và vùng lãnh thổ. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư Việt
Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hoá trong quan hệ
giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các DNCVĐTNN.
Tất cả những vấn đề thuộc quan hệ giữa những người sử dụng lao động
và người lao động được ký kết theo hợp đồng lao động và thông qua thương


1
7

lượng trên tinh thần hoà giải, nhân nhượng lẫn nhau, tạo sự hiểu biết giữa các
nền văn hoá, tập quán sinh hoạt của các dân tộc, hướng đến tạo ra doanh lợi
cao cho DN, đồng thời nâng dần thu nhập của người lao động, cải thiện điều
kiện làm việc và sinh hoạt của họ
Đã có thời kỳ vấn đề bóc lột trong quan hệ lao động ở các DNCVĐTNN
đặt ra như là vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Trong thực tế có một số
trường hợp chủ DN áp dụng các phương thức thiếu văn minh như kéo dài thời
gian lao động, khơng đảm bảo an tồn lao động và điều kiện lao động tối
thiểu, trả lương thấp hơn mức bình quân, kéo dài thời gian học nghề của cơng
nhân để DN có lợi nhuận cao hơn… cần được kiểm tra và xử lý. Song, nhìn
chung phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đã đối xử đúng luật pháp Việt Nam
đối với cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người lao động, chú trọng việc
nâng cao thu nhập của người lao động, cải thiện điều kiện lao động và sinh
hoạt của công nhân viên chức trong DN.
Theo số liệu thống kê do Bộ lao động - Thương binh và xã hội cơng
bố, chỉ có gần 12% lực lượng nhân công Việt Nam được qua đào tạo (Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội.- Số liệu điều tra Lao động việc làm năm
2004). Lực lượng nhân cơng khơng có chun mơn kỹ thuật dư thừa trong khi
đó lại thiếu lao động chun mơn kỹ thuật. Thị trường sức lao động Việt Nam
vẫn nằm trong giai đoạn hình thành và phát triển chưa cao. Sự chuyển dịch
lao động giữa các ngành kinh tế khác nhau tương đối thấp so với các nước.
Việc yêu cầu các DN có vốn đầu tư nước ngoài phải tuyển dụng lao động
trong nước thông qua các cơ quan tuyển dụng được phép đã hạn chế tính linh
hoạt của thị trường sức lao động.
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về đội ngũ nhân công nhiều về số lượng
nhưng chất lượng vẫn thấp. Theo báo cáo của JETRO, tháng 6/2006, tiền
lương bình quân tháng theo USD của công nhân Việt Nam năm 2005: là 135
USD; kỹ sư: 302 USD; cán bộ quản lý bậc trung là 685 USD; trong khi lương
bình quân chung ở khu vực với công nhân là: 205 USD; kỹ sư: 546 USD và
cán bộ quản lý là: 1.129 USD.



1
8
Sự gia tăng của các DNCVDTNN, đã thu hút được một lực lượng lao
động vào làm việc ở khu vực này, nhờ đó mà làm tăng thu nhật cho người lao
động và góp phần quan trọng vào ổn định trật tự xã hội.
Trong thời gian qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, thì khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được một số lượng lao động ngày
càng tăng. Nếu năm 1990, lực lượng lao động Việt Nam ở khu vực này mới
chỉ là 0,004% lực lượng lao động trong cả nước, thì đến năm 2004 nó đã tăng
lên 1,7%. Cụ thể, trong thời kỳ 1990 – 1995, đã thu hút 1.784 dự án, với số
vốn dăng ký là 25.464 triệu USD và vốn pháp định 11.886 triệu USD. Trong
6 năm đó, lực lượng lao động thu hút làm việc trong khu vực này gần 180
nghìn người, trong đó chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến
(78%), nhà hàng khách sạn (4%), vận tải kho tàng (3%) [44, tr.990]. Với sự
phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, lực lượng lao động
thu hút vào làm việc chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào tạo, do đó mà
tăng được thu nhập cho tầng lớp dân cư nghèo, góp phần quan trọng vào tăng
GDP và ổn định trật tự xã hội.
Biểu đồ 1.1: Sự tăng trưởng về lao động Việt Nam làm việc ở khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi thời kỳ 2000 – 2006
800000
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000

0
số người lao động (người)
%tăng so với năm trước (%)

Nguồn: [5].

2000

2001

2002

2003

2004

2005

218000

353800

472000

688000

739000

800000


0

62.3

33.4

45.8

7.4

8.3


1
9
Từ biểu đồ trên cho thấy, thời kỳ 1996 – 2004, so với thời kỳ trước,
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đã có sự phát triển cao. Tính đến
cuối năm 2004. cả nước đã thu hút được 5.959 dự án, với số đăng ký là
47.380 triệu USD và vốn pháp định là 23.018 triệu USD, thu hút được 739
nghìn lao động trực tiếp và hơn một triệu lao động gián tiếp ở các khâu, gia
công, vận chuyển, đai lý. Đến năm 2005, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi đã thu hút trực tiếp hơn 800 nghìn lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao
động gián tiếp [21, tr.1].
Như vậy, trong thời gian qua đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tuy tốc
độ phát triển không đều, nhưng lực lượng lao động làm việc trong khu vực
này qua các năm đều tăng. DNCVĐTNN là nơi tạo việc làm cho rất nhiều lao
động, phần lớn lao động thu hút vào làm việc trong khu vực này là lao động
chưa qua đào tạo và bộ phận khơng từ khu vực nơng nghiệp, nơng thơn (có
thu nhập thấp). Khi được tuyển dụng vào làm việc thu nhập của họ tăng lên.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, thu nhập của người lao động ở khu vực

này cũng có xu hướng tăng, nếu năm 1994, 1995, thu nhập bình quân bình
quân một lao động ở khu vực này là 70 – 80 USD/tháng thì đến năm 2000 đã
tăng lên khoảng 100 USD, đến năm 2004 là hơn 110 USD
Trong số lao động làm việc trong các DNCVĐTNN có nhiều lao động
chưa được qua đào tạo. Lực lượng lao động trong các DN được tuyển chọn từ
nhiều nguồn khác nhau. Họ được làm việc trong hệ thống dây chuyền cơng
nghiệp hiện đại và địi hỏi tn thủ kỷ luật lao động cao. Đây cũng chính là
mơi trường tốt để đào tạo đội ngũ lao động, có phong cách làm việc phù hợp
với công việc hiện đại và kinh doanh tiên tiến. Nhiều DNCVĐTNN đã tạo
cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận
kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm hoặc được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Người lao động cũng được rèn luyện về kỷ luật, tác phong cơng nghiệp và
thích ứng dần với cơ chế quản lý mới. Qua một thời gian làm việc cho


2
0
DNCVĐTNN, hiện nay, đội ngũ lao động Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài ngày càng trưởng thành và có kinh nghiệm. Thể hiện: theo số liệu
thống kê, có 6.000 cán bộ quản lý. 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề
của hàng chục vạn cơng nhân ở các DN có vốn đầu tư được nâng lên rõ rệt.
Thơng qua các dự án có vốn đầu tư nước ngồi, nhiều cơng nghệ mới,
tiên tiến hiện đại được ứng dụng ở nước ta, đã góp phần nâng cao trình độ kỹ
thuật và cơng nghệ cho nhiều ngành sản xuất, tạo điều kiện góp phần nâng
cao trình độ tay nghề, kinh nghiệm quản lý sản xuất, nhân sự, kinh nghiệm
kinh doanh trên phạm vi quốc tế, làm tiền đề để phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Bên cạnh những mặt tích cực thì ở các DN FDI cũng đang đặt ra những
thách thức, đe doạ sự phát triển bền vững đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện:
Trong quá trình đầu tư, vì mục tiêu lợi nhuận, DNCVĐTNN chỉ chú

trọng tập trung vào những lĩnh vực rủi ro thấp, có khả năng thu hồi vốn
nhanh, hiệu quả cao như các lĩnh vực công nghiệp tiêu dùng và dịch vụ. Rất ít
các cơng ty tập trung đầu tư phát triển các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công
nghiệp nặng then chốt của nền kinh tế, một số DNCVĐTNN đã nhập khẩu
thiết bị cũ, công nghệ không hiện đại, biến nước ta thành “bãi thải phế liệu
của thế giới”. Theo thống kê của các cơ quan có thẩm quyền, thời kỳ đầu 70%
các thiết bị công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam đều là những thiết bị
được chế tạo trước những năm 60-70 của thế kỷ XX. Những năm gần đây,
tình hình có thay đổi do chúng ta có nhiều tiêu chuẩn kiểm tra nghiêm ngặt,
nhưng nhìn chung các thiết bị cơng nghệ được chuyển giao về cơ bản khơng
thuộc nhóm cơng nghệ hiện đại. Từ thực tế trên đã tác động rất lớn đến vấn đề
ô nhiễm môi trường, dẫn tới không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh cơng nghiệp,
an tồn cho người lao động. Hầu hết các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài
đang hoạt động tại Việt Nam đều chỉ đạt tiêu chuẩn xử lý ơ nhiễm ở mức
trung bình, khơng ít các DN thuộc nhóm xử lý thấp, rất thấp. Trước đây, vì



×