Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Sử dụng các biện pháp trong trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.59 MB, 110 trang )

Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài
Chứng tự kỷ là rối loạn về sự phát triển tâm lý thờng kéo dài cả đời.
Một trong những biểu hiện của chứng bệnh tự kỷ ở trẻ em là chậm nói, gặp
khó khăn trong việc học nói. Trở ngại về ngôn ngữ ở trẻ tự kỷ đợc biểu lộ
qua nhiều hình thức, nặng nhất là trẻ không nói đợc lúc nhỏ, ngay cả khi
lớn khả năng cũng không đợc cải thiện.
Tự kỷ là một dạng khuyết tật về trí tuệ. Để có những cơ hội nh ngời
bình thờng, trớc tiên trẻ phải biết nói. Trẻ em hội nhập bằng ngôn ngữ và hành
vi, khả năng ngôn ngữ là dấu hiệu cho thấy trẻ có thể hoà nhập đợc tới mức
nào với những ngời xung quanh. Mặt khác, ngôn ngữ là một trong những phơng tiện hữu hiệu giúp trẻ phát triển trí tụê. Có ngôn ngữ, có giao tiếp, trẻ mới
có cơ hội để phát triển trí tuệ bằng với tuổi thực. Chính vì vậy mà trị liệu giọng
nói và ngôn ngữ là can thiƯp thêng thÊy nhÊt cho TTK.
Theo thèng kª trªn thÕ giới vào những năm 1980 tỉ lệ tự kỷ là 3 -4 /
10.000, vào năm 1990 là 10 20/ 10.000, vào năm 2001 là 62,6/ 10.000
( Trong đó 16,8 % là tự kỷ điển hình và 45,8% là các rối loạn lan toả
khác ). ở Việt Nam hiện nay cha có một thống kê đầy đủ nào về số lợng trẻ
em mắc phải chứng BTK. Tuy nhiên, qua số lợng TTK đến khám tại các
trung tâm t vấn và trị liệu BTK, các bệnh viện có chuyên khoa nh bệnh viện
Nhi Thuỵ Điển, khoa tâm thần bệnh viện Bạch Mai.v.v, cũng nh số lợng các
trung tâm trị liệu chứng tự kỷ xuất hiện ngày càng nhiều (chỉ tính riêng ở
Hà Nội) thì có thể thấy số trẻ em mắc chứng TK ngày càng đông.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều biện pháp dạy trẻ tự kỷ khác nhau
thậm chí còn mẫu thuẫn với nhau.Thờng thì ở mỗi một trung tâm trị liệu
cho trẻ tự kỷ ngời ta chỉ sử dụng một hoặc hai biện pháp trị liệu cho tất cả
trẻ tự kỷ. Song không phải kết quả trị liệu cho tất cả các trẻ đều đạt đợc nh
mục đích đề ra. Bởi vì trẻ tự kỷ cũng có rất nhiều loại và không thể áp dụng
một biện pháp cho tất cả trẻ tự kỷ.
Các trung tâm trị liệu chøng tù kû ë ViƯt Nam hiƯn nay cịng sư


dơng rất nhiều biện pháp trị liệu ngôn ngữ. Có biện pháp đợc tiếp thu từ nớc
ngoài, song cũng có những biện pháp đợc tiến hành bằng tổng kết kinh
nghiệm thực tế tại Việt Nam. Các biện pháp này đều có những thành công
và hạn chế nhất định. Một trong những yếu tố gây hạn chế trong các biện
pháp trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ là do cha đợc dựa trên cơ sở tâm lý và
các cơ sở khoa học khác của các biện pháp trị liệu ngôn ngữ ®ã. ChÝnh v×

1


vậy mà việc sử dụng các biện pháp đó còn mang tính tự phát, tạm thời riêng
lẻ, cha triệt để. Mỗi trẻ tự kỷ chỉ đợc trị liệu bởi một biện pháp và một biện
pháp áp dụng cho nhiều trẻ. Điều này đà đến hiệu quả trị liệu tự kỷ cha cao,
cha phát triển đồng đều các lĩnh vực phát triển của trẻ.
Từ lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu Sử dụng các biện phápSử dụng các biện pháp
trong trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ với mong muốn giúp nhà trị liệu
tâm lý nắm vững cơ sở tâm lý của các biện pháp trị liệu cho trẻ tự kỷ, biết
cách vận dụng sáng tạo linh hoạt u điểm của các biện pháp trị liệu để kết
hợp trị liệu cho trẻ tự kỷ, qua đó làm tăng hiệu quả điều trị cũng nh giảm
thiểu những hạn chế của mỗi biện pháp đó.
2.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các biện pháp trị liệu tự kỷ tìm ra u
điểm của một số biện pháp trị liệu ngôn ngữ đang đợc sử dụng để trị liệu
bệnh tự kỷ hiện nay. Tìm ra cơ sở tâm lý học của biện pháp trị liệu ngôn
ngữ đang đợc dùng trị liệu cho trẻ tự kỷ tại trung tâm Vì Tơng Lai Trẻ Tự
Kỷ Hà Nội và hiệu quả của biện pháp trị liệu đó. Từ đó đề xuất ra hớng
mới trong trị liệu bệnh tự kỷ.
3.
Khách thể và đối tợng nghiên cứu

3.1 Đối tợng nghiên cứu: Cơ sở tâm lý học của một số biện pháp trị
liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ đang đợc dùng hiện nay.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Các biện pháp chữa trị cho 30 trẻ mắc
chứng bệnh tự kỷ đang đợc điều trị tại trung tâm Vì Tơng Lai trẻ tự kỷ
số 15A ngõ 26 Hoàng Quốc Việt Cầu Giấy - Hà Nội.
4.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tợng nghiên cứu: Chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu các biện
pháp trị liệu tự kỷ, đặc biệt là trị liệu ngôn ngữ cho trẻ mắc chứng bệnh tự
kỷ đang đợc sử dụng tại trung tâm Vì tơng lai trẻ tự kỷ và cơ sở tâm lý học
của các biện pháp đang đợc sử dụng.
4.2 Khách thể nghiên cứu: Chúng tôi chỉ nghiên cứu trẻ tự kỷ có độ
tuổi từ 20 tháng tuổi đến 4 tuổi.
4.3 Địa bàn nghiên cứu : Trung tâm Vì Tơng Lai Trẻ Tự Kỷ, số 15A
ngõ 26 Hoàng Quốc Việt Cầu Giấy - Hà Nội.
5.
Giả thuyết khoa học
Hiện nay có rất nhiều biện pháp trị liệu cho trẻ tự kỷ đợc sử dụng ở
Việt Nam. Mỗi biện pháp có những u nhợc điểm khác nhau. Hầu hết các
biện pháp đều đợc viết dựa trên kinh nghiệm trị liệu trực tiếp của bản th©n

2


ngời viết hoặc là tổng kết theo nhóm nghiên cứu. Các biện pháp đó hiện nay
còn gây nhiều tranh cÃi, còn cha đem lại hiệu quả nh nhau ở các trẻ tự kỷ và cha
giúp chữa khỏi chứng tự kỷ. Một trong những nguyên nhân đó là vì cha ai nêu
ra đợc cơ sở tâm lý học của việc sử dụng các biện pháp đó. Nếu xác định đợc cơ
sở tâm lý học của việc sử dụng các biện pháp trị liệu này sẽ giúp cho nhà trị liệu
vận dụng sáng tạo, linh hoạt biện pháp trong trị liệu làm tăng hiệu quả điều trị

và giúp trẻ tự kỷ có nhiều cơ hội hơn trên con đờng tiến tới hoà nhập với xà hội.
6.
Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trẻ tự kỷ và các biện pháp trị
liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ.
6.2. Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả các biện pháp tác động đến
ngôn ngữ của trẻ tự kỷ và phân tích cơ sở tâm lí học của các biện pháp đợc
sử dụng
6.3. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị về việc áp dụng các biện
pháp trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ.
7. Phơng pháp nghiên cứu
7.1 Phơng pháp nghiên cứu lý luận
7.2 Phơng pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phơng pháp quan sát lâm sàng
7.2.2 Phơng pháp điều tra viết
7.2.3.Phơng pháp nghiên cứu bệnh sử
7.2.4.Phơng pháp trắc nghiệm
7.2.5. Phơng pháp nghiên cứu chân dung
7.2.6. Phơng pháp toán thống kê
7.2.7. Phơng pháp thực nghiệm
8. Đóng góp mới của luận văn
Đóng góp mới của đề tài là nêu lên đợc cơ sở tâm lý học của việc sử
dụng các biện pháp trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ. Đồng thời chứng minh
đợc việc sử dụng kết hợp các biện pháp đó dựa trên cơ sở tâm lý học sẽ giúp
cho kết quả trị liệu chứng tự kỷ tốt hơn rất nhiều cả về chất lợng và số lợng
các lĩnh vực phát triển của trẻ tự kỷ.
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn dài 131 trang bao gồm: Phần mở đầu 4 trang; 3 chơng dài
123 trang; Phần kết luận và kiến nghị 2 trang; Tài liệu tham khảo 3 trang.
Trong luận văn có 28 bảng biểu và 2 sơ đồ.


3


Chơng 1
Lý luận về trẻ tự kỷ và phơng pháp trị liệu
ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ
1.1. Sơ lợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 vài nét về lịch sử bệnh tự kỷ
Mặc dù mÃi đến năm 1943, sau công bè cđa b¸c sÜ Leo kanner ( Mü),
ngêi ta míi thực sự biết đến sự tồn tại của những đứa trẻ với chứng bệnh
mang tên BTK nhng ngợc dòng lịch sử, đâu đó trong các câu chuyện cổ
tích, chuyện thần thoại, chuyện truyền miệng, trong các ghi chépddờng
nh luôn luôn có sự hiện diện của những đứa TTK trong xà hội loài ngời.
Martin Luther (nhà thần học, tu sĩ, giáo s đại học, nhà cải cách tôn
giáo ngời Anh) từ thÕ kû 15 trong cn s¸ch “Sư dơng c¸c biƯn pháp Trò chuyện quanh bàn của
mình có kể về một cËu bÐ 12 ti víi nh÷ng triƯu chøng cđa mét kẻ bị TK
nặng, mà ông cho rằng chỉ là một khối thịt vì đà bị quỷ dữ bắt mất linh hồn.
Năm 1799, Sử dụng các biện pháp Victor - đứa bé hoang dà ở Aveyron (Pháp) đợc dân
làng Aveyron tìm thấy khi nó đang đi lang thang và sống hoang dà ở trong
rừng. Dân làng đà đa Victor đến gặp bác sĩ J.M.G Itard. Hành vi của đứa trẻ
này rất bÊt thêng. CËu bÐ ®i b»ng bèn chi, hó nh sói và nhiều hành vi bất thờng khác. Bác sĩ Itard đà nghĩ rằng Victor là một đứa trẻ thiểu năng do đÃ
bị cách ly khỏi loài ngời ngay từ bÐ. Song Pinel, mét b¸c sÜ nỉi tiÕng kh¸c
cïng thêi, ®· kh«ng ®ång ý víi Itard. Pinel tin r»ng Victor là một đứa trẻ
chậm phát triển mức độ nặng ngay tõ lóc sinh ra. Sau nµy khi chøng bƯnh tù
kû đà đợc phát hiện, đọc lại câu chuyện này ngời ta thấy rằng Victor đà có
những hành vi ứng xử của một trẻ bị TK.
Năm 1919, hơn một thế kỷ sau câu chuyện về Sử dụng các biện pháp chú bé rừng xanh,
Lightner Witmer, một nhà tâm lý Mỹ, đà có một bài viết về Don, một đứa
bé trai 2 tuổi 7 tháng, với những hành vi ứng xử của một đứa TTK. Sau đó

Don đợc đa vào một trờng đặc biệt của Witmer và nhờ sự dạy dỗ cá nhân
tích cực trong thời gian dài, đứa bé đà có thể bù trừ đợc sự khiếm khuyết
của nó.
MÃi sau này, đầu thế kỷ 20, nhà tâm lý học Thuỵ Sĩ Eugen Breuler mới
đa ra khái niệm Tự Kỷ dựa trên tiếng Latinh autismus ( xuất xứ từ chữ auto
nghĩa là tự mình) đợc hiểu là sự tự quản bệnh hoạn, lôi cuốn sự tởng tợng của
Sử dụng các biện phápbệnh nhân vào một điều gì đó, bất chấp tác động bên ngoài. Ông dùng từ
này để mô tả triệu chứng nổi bật nhất của chứng bệnh tâm thần phân liệt ë ngêi lín.
4


Năm 1943, Kanner- Bác sĩ tâm thần nhi khoa (Đại học John Hopkins Mỹ) là ngời đầu tiên đà mô tả một nhóm những đứa trẻ đặc biệt này. Sau đó
vào năm 1944 có sự trùng hợp kỳ lạ là bác sĩ nhi khoa Hans Asperger tại Đức
cũng mô tả những triệu chứng tơng tự mà về sau gọi là hội chứng Asperger. Cả
hai ông Kanner và Asperger không biết gì về nghiên cứu của nhau mà cùng
đặt tên cho chứng tâm thần kì lạ này là Autism từ chữ Hylạp Sử dụng các biện phápAuto là Sử dụng các biện pháptự
chỉ về cái tôi.
Từ đó sự quan tâm của giới khoa học ngày càng gia tăng. ĐÃ có
nhiều học thuyết giải thích về căn nguyên của BTK và hành vi thực sự của
những trẻ bị căn bệnh này mới đợc quan sát và mô tả thật chi tiết.
Leo Kanner mô tả chi tiết 11 ca TK đầu tiên với một số nét đặc trng
nh: không tạo lập đợc các mối quan hệ với con ngời, bàng quang, thờ ơ,
chậm nói và không sử dụng lời nói để giao tiếp, cùng với các hoạt động
chơi đơn giản, lặp đi lặp lại. Kanner mô tả những đứa trẻ này nh thể Sử dụng các biện pháp bị
mất khả năng bẩm sinh trong việc thiết lập các mối quan hệ cảm xúc với
con ngời.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các trờng hợp, những vẫn có hai nét
chung có ý nghĩa chẩn đoán:
+ Tính cô độc, tự kỷ.
+ Sự gìn giữ nguyên trạng mang tính ám ảnh.

Kanner đề xuất thuật ngữ Sử dơng c¸c biƯn ph¸p Tù kû sím nhị nhi” nhÊn mạnh sự xuất
hiện triệu chứng đà có từ tuổi nhũ nhi.
Sau đó, ở Mỹ và Châu Âu cũng đà phát hiện thêm nhiều trẻ có biểu
hiện tơng tự (Asperger, 1944; Despert,1951; Van Krevelen,1952).
Tên gọi TK vẫn còn bị tranh cÃi. Nã khiÕn ngêi ta dƠ lÇm lÉn víi viƯc
Bleuler dïng thuật ngữ này để mô tả bệnh tâm thần phân liệt ở ngời lớn. Từ
đó dẫn đến hàng loạt các tên gọi khác nhau để thay thế nh tâm thần phân
liệt trẻ em, loạn tâm ranh giới, loạn tâm cộng sinh và loạn tâm tuổi nhũ nhi
tuỳ theo quan điểm riêng của các tác giả về bản chất và căn nguyên của
BTK.
Năm 1956, để làm rõ sự khác biệt của chứng tự kỷ với các bệnh khác
Kanner và Eisenberg đà giảm số triệu chứng chủ yếu và chỉ còn lại 2 triệu
chứng là:
+ Tự cô lập ở mức độ nặng.
+ Khuynh hớng muốn bảo tồn nguyên trạng.

5


Đặc tính bất thờng, kì dị về ngôn ngữ đợc xem là thứ phát do rối loạn
quan hệ với con ngời và vì thế không phải là triệu chứng chính yếu. Tuổi
khởi phát đợc mở rộng đến 2 năm đầu đời.
Tuy nhiên, một số tác giả lại đa ra những tiêu chuẩn khác. Schain và
Yannet (1960) đà loại triệu chứng bảo tồn nguyên trạng ra khỏi tiêu chuẩn
của họ. Creak (1961) sử dụng 9 điểm chẩn đoán cho tất cả các loại loạn tâm
ở trẻ em, bao gồm cả BTK của Kanner, vào trong một chẩn đoán duy nhất
là Sử dụng các biện pháphội chứng tâm thần phân liệt ở trẻ em.
Năm 1968, Rutter đa ra 4 đặc trng chủ yếu của TK:
1. Thiếu quan tâm và đáp ứng trong quan hệ xà hội.
2. Rối loạn ngôn ngữ : từ mức độ không có lời nói cho đến lời nói

lập dị.
3. Hành vi, vận động dị thờng: từ mức chơi hạn chế, cứng nhắc, cho
đến các khuôn mẫu hành vi mang tính nghi thức và thúc ép.
4. Khởi phát sớm trớc 30 tháng tuổi.
Những nét đặc trng này hiện diện ở hầu hết các TTK. Có một số nét
đặc hiệu khác nhng chúng lại phân bố không đồng đều.
Từ những năm 70 80 của thế kỷ XX các nhà khoa học đà chứng
minh đợc hiện tợng tự kỷ do Kanner nêu lên là một trong những hiện tợng
rối loạn kiểu TK. Ngoài ra, một số tổ chức cũng đà bắt tay vào nghiên cứu
một cách nghiêm túc vấn đề này và đà có những thay đổi lớn trong quan
niệm về các dạng rối loạn kiểu TK nhằm phân loại các dạng rối loạn tâm
bệnh học và rối loạn hành vi. Có thể kể đến hệ thống quốc tế phân loại
thống kê các chứng bệnh và các vấn đề y tế có liên quan (ICD) do tổ chức
thế giới công bố và sổ tay chẩn đoán và thống kê (DSM) của hội tâm thần
học Mỹ.
Những lần xuất bản đầu tiên của hệ thống ICD không nói tới hiện tợng TK, khi tái bản lần thứ 8 (1967) cũng chỉ coi hiện tợng TK ở trẻ em là
một dạng tâm thần phân liệt và khi tái bản lần thứ 9 (1977) đà đặt hiện tợng
TK vào mục loạn tâm trẻ em. Trong tái bản lần thứ mời của hệ thống ICD
(1992) và các lần 3, 4 của sổ tay DSM đà theo quan điểm hiện đại, cho rằng
các tình trạng TK thuộc một loạt các dạng rối loạn về phát triển mà không
phải là dạng loạn tâm.
1.1.2. Các nghiên cứu về trị liệu cho trẻ tự kỷ
Hiện nay ở Việt Nam đà xuất hiện khá nhiều các trang Web dành riêng
cho BTK cũng nh các nghiên cứu về các biện pháp trÞ liƯu cho TTK. Cã thĨ

6


kể đến các trang Web nh trang chamevoiconkhuyettat.org.au trang
benhtuky.com .v.v

Kể từ khi đợc phát hiện ra cho đến nay thì chứng tự kỷ, nguyên nhân
cũng nh cách chữa trị vẫn còn gây nhiều tranh cÃi. Hiện nay có rất nhiều
biện pháp trị liệu cho TTK do các nhà khoa học và do chính các bậc cha mẹ
có con bị TK tự chăm chữa cho con sáng tạo ra. Có thể kể đến hành trình
của các bà mẹ nh cuốn Sử dụng các biện pháp Sự can thiệp về hành vi cho trỴ em tù kû ” cđa
Catherine Maurice; cn Sử dụng các biện pháp Mạnh hơn cả lời nói của jenny McCarthy. Và
rất nhiều công trình nghiên cứu về TK cũng nh các biện pháp trị liệu đà đợc
in thành sách nh sách Sử dụng các biện pháp Phơng pháp Tâm vận động của Bernard Nicole
Huart, do Nguyễn Văn Thành dịch; cuốn Trẻ em tự kỷ Phơng thức giáo
dục Nguyễn văn Thành; Sử dụng các biện pháp Tổng hợp từ chơng trình bại nÃo của Dr.
Glenn Doman; sách dịch viết tay về biện pháp tập luyện hành vi tự chủ
dùng cho trẻ tự kỷ Sử dụng các biện pháp Lịch biểu hoạt động Lynn E. Mc Clannahan, Ph.D
vµ Patricia J. Krantz, Ph.D, do Lu Huy Khánh Dịch; cuốn Sử dụng các biện pháp Và từ chơng
trình Cách dạy ngôn ngữ ứng xử cho trẻ tự kỷ và chậm phát triển tâm
thần của Dr. Vincent Carbone; Tổng hợp các biện pháp trị liệu tự kỷ trong
các cuốn Sử dụng các biện pháp Nuôi con bị tự kỷ, Sử dụng các biện pháp Con tôi bị tự kỷ, Sử dụng các biện pháp Con tôi chậm, Sử dụng các biện pháp Tự kỷ
và trị liệu chỉ dẫn cho cha mẹ - những cuốn sách này do nhóm tơng trợ
phụ huynh Việt Nam có con khuyết tật và chậm phát triển tại NSW thực
hiện; Cuốn Sử dụng các biện phápChẩn đoán và can thiệp cho trỴ tù kû” – cđa Kevin Callahan,
Smita mehta, Karen Ward và Julie Ray- Biên dịch do nhóm tác giả Lê
Nguyệt trinh, Hoàng văn Phong, Võ Vi Phơng, Trần Hồng Anh và Thuỳ Dơng; Bộ sách 8 tập Sử dụng các biện pháp từng bớc nhỏ một - Chơng trình can thiệp sớm cho trẻ
chậm phát triển của Moira Pieterse, Robin Treloar và Sue Cairnsd.
Các công trình nghiên cứu trong nớc có thể kể đến nh nghiên cứu của
Lê Khanh với cuốn Sử dụng các biện pháp trẻ tự kỷ Những thiên thần bất hạnh; Trần Thị Lệ
Thu với Sử dụng các biện pháp Đại cơng giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển; các nghiên
cứu của trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em NT Hà Nội; Các khoá luận
và luận văn của sinh viên khoa Tâm Lý các trờng Đại học S phạm Hà Nội,
Đại học Khoa học xà hội và nhân văn; Nghiên cứu của khoa tâm bệnh lý
Viện Nhi trung ơng; Khoa VLTL PHCN Bệnh viện Nhi đồng1, thành
phố Hồ Chí Minh. Có thể kể đến một vài nghiên cứu nh Sử dụng các biện phápMột số biện pháp

giảm thiểu hành vi bất thờng của TTK tuổi mẫu giáo trong trờng mầm non
hoà nhập - Đào thị thu thuỷ ( 2006) - Đại học s phạm Hà Nội; Sử dụng phơng pháp vận động trong chăm chữa cho TTK ( 2009) của Ngun ThÞ

7


Thanh; Biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho TTK qua hoạt động vui
chơi ở trờng mẫu giáo hoà nhập tại HN Nguyễn thị Bùi Thành ( 2007) Đại học s phạm Hà Nội; Bớc đầu tìm hiểu một số đặc điểm tâm lý ở trẻ tự
kỷ Khoá luận tốt nghiệp ngành Tâm lý học của Nguyễn Hơng Giang,
Trần Trọng Hải, Trần Thị Thu Hà ( 2002) - Đại học Khoa học xà hội và
nhân văn; Cách tiếp cận TTK dựa trên cộng đồng của Bác sĩ Phạm Ngọc
Thanh, bệnh viện Nhi Đồng1; Một số hoạt động khám và trị liệu TTK tại
khoa Tâm Lý, bệnh viện Nhi Đồng 2..v.v
Nhìn chung các nghiên cứu trên chủ yếu mô tả lại các phơng pháp đÃ
đợc nghiên cứu và ®i vµo thùc tiƠn ë níc ngoµi nh ABA, Teacch, điều hoà
cảm giác, PECSdCác tác giả nghiên cứu đi sâu mô tả ph ơng pháp cũng nh
hiệu quả của phơng pháp đó đem lại trong trị liệu TTK. Tuy nhiên tác giả
nào cũng nhấn mạnh việc chăm chữa cho TTK chỉ mang lại sự tiến bộ ở
một mức độ nào đó chứ không khỏi hẳn và không khỏi đồng đều ở các lĩnh
vực phát triển của TTK. Và ở mỗi công trình nghiên cứu của mình thì các
tác giả đều ®i ®Õn chøng minh viƯc cã thĨ dïng c¸c biƯn pháp đó nh nhau
cho hầu hết TTK.
Trong cuốn Sử dụng các biện pháp Trẻ em tự kỷ, tác giả Nguyễn Văn Thành nêu ra 2 phơng pháp là Teacch và ABA. Song ông chỉ nêu và hớng dẫn trị liệu cho
TTK bằng những thế mạnh của 2 phơng pháp đó theo nhận định và kinh
nghiệm nghiên cứu TTK của ông. Ông viết: Sử dụng các biện pháp Trong khuôn khổ chơng trình
này, tôi chỉ trình bày một vài đờng nét của phơng pháp Teacch, mà tôi đánh
giá là rất tích cực và xây dựng, thích ứng với nhu cầu của trẻ tự kỷ
[30;87]. Hay trong cuốn Sử dụng các biện pháp Nuôi con bị tự kỷ, nhóm tác giả viết cuốn sách
này cũng đà khẳng định rằng Sử dụng các biện pháp Tự kỷ là rối loạn về sự phát triển thờng kéo
dài cả đời, và hiện nay nói chung không có thuốc hay cách chữa trị nào để

làm ngêi ta b×nh thêng hÕt tËt” [25;1] hay “Sư dơng các biện phápd nên cẩn thận đối với bất cứ
chơng trình nào nói rằng chữa lành cho trẻ [25;90]. Nhóm tơng trợ phụ
huynh có con bị khuyết tật đà viết về phơng pháp PECS Sử dụng các biện pháp có thể bổ túc cho
những kỹ thuật và phơng pháp khác, nhằm đẩy mạnh khả năng hiểu ngôn
ngữ và dùng lời biểu lộ[23;1] - điều đó có nghĩa là các phơng pháp khác có
những thiếu sót mà PECS có thể bù đắp, cũng đồng nghĩa PECS không phải
là biện pháp chữa khỏi hoàn toàn cho chứng tự kỷ.
Hầu hết các sách viết về tự kỷ cũng nh các biện pháp trị liệu chứng tự
kỷ hiện nay đều mô tả từng bớc trong mỗi biện pháp trị liệu dựa trên sự

8


quan sát, tìm hiểu cụ thể về mỗi TTK. Qua đó, đa ra các bài tập phù hợp với
sự quan sát đó và theo một phơng pháp trị liệu nhất định.
Trong hội thảo Sử dụng các biện pháp Bệnh tự kỷ ở trẻ em tổ chức tại bệnh viện Nhi
Đồng 1 tõ ngµy 10 – 14/ 2008 cã rÊt nhiỊu tổng kết về tình hình trị liệu
bệnh tự kỷ. Cử nhân Hà Thị Kim Yến trởng khoa phục hồi chức năng vật lý trị liệu, bệnh viện Nhi Đồng 1 ®· cã b¸o c¸o mang tùa ®Ị: “Sư dơng c¸c biện pháp Tâm vận
động và điều hoà cảm giác : phơng tiện can thiêp chậm nói ở trẻ có rối loạn
phát triển. Báo cáo đà đa ra kết luận: Sử dụng các biện phápCho đến nay vẫn cha chữa khỏi tự
kỷ. Nhng nếu phát hiện sớm và can thiệp sớm thì chất lợng sống của các trẻ
này, kể cả vấn đề khó khăn giao tiếp sẽ đợc cải thiện. Thực tế cho thấy việc
phối hợp tâm vận động và can thiệp điều hoà cảm giác là phơng tiện can
thiệp có nhiều hứa hẹn. Ngoài ra, rất cần có sự can thiệp phối hợp đa
chuyên khoa, hoạt động trị liệu, âm ngữ, tâm lý, giáo viên đặc biệt, nh thế
trẻ sẽ tiến bộ và nhanh chóng đạt đến mục tiêu độc lập trong sinh hoạt, cuộc
sống . Giáo s Margot Prior, Đại học Melbourne, úc, cũng có báo cáo
trong hội thảo này. Báo cáo của ông mang tựa đề Sử dụng c¸c biƯn ph¸p Chøng cí khoa häc cđa
c¸c biƯn ph¸p xử trí bệnh tự kỷ ở trẻ em. ông viết : Sử dụng các biện pháp Chỉ số ít những
nghiên cứu về tự kỷ có so sánh với điều trị- Những cách can thiệp nhiều

nhất không đợc đánh giá và rất ít bằng chứng cho thấy rằng chúng đà tạo
nên một sự khác biệt thật sự- Mỗi đứa trẻ là một cá thể khác nhau vì vậy
không có cách điều trị nào là tốt nhất cho mọi trẻ. ông đa ra một số biện
pháp thờng đợc dùng nhất hiện nay cho TTK nh ABA, Teacch.. trong đó
ông phân tích và kết luận rằng các biện pháp đều không chữa khỏi bệnh tự
kỷ, không thể dùng riêng lẻ một biện pháp bất kỳ cho dù nó có hiệu quả
đến đâu mà phải dùng kết hợp các biện pháp trị liệu khác nhau cho mỗi đứa
trẻ.
Trong các biện pháp trị liệu cho TTK hiện nay thì biện pháp ABA đợc coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Một trong những lý do làm nên thành
công đó có lẽ là vì nguồn gốc của ABA là chủ thuyết hành vi [30; 100].
- Điểm xuất phát của thuyết hành vi là thí nghiệm quan trọng của
Ivan Pavlov về Sử dụng các biện pháp Phản ứng điều kiện hoá.
- Phơng pháp ABA là một hình thức ứng dụng của thuyết hành vi,
trong lĩnh vực giáo dục và dạy dỗ.
- Một trong những đồ đệ của Pavlov là B.F. Skinner đà áp dụng
những nguyên lý Sử dụng các biện pháp Điều kiện hoá vào trong phạm vi Sử dụng các biện pháp dạy ngôn ngữ
[30;101].

9


Ngoài ra thì cha có một công trình nghiên cứu nào hay tác giả nào giải
thích rõ lý do tại sao lại dùng biện pháp trị liệu đó cho tất cả các TTK? Tại sao
lại có những trờng hợp TTK không tiến bộ dù cùng đợc tiến hành chăm chữa
theo quy trình nh nhau? Tại sao khi dùng một biện pháp can thiệp khác thì TTK
ấy lại có đợc tiến bộ?. Đa phần các tác giả căn cứ vào mức độ nặng nhẹ theo
thang đo của bệnh tự kỷ. Và họ cho rằng những TTK mức độ nặng thì khó can
thiệp. và cũng cha có một công trình nghiên cứu nào nêu lên việc kết hợp nhiều
biện pháp trị liệu cho một TTK và chứng minh hiệu quả tác động khi kết hợp
các biện pháp ấy.

1.2. Một số vấn đề lý luận về trẻ tự kỷ và biện
pháp trị liệu ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ
1.2.1. Trẻ tự kỷ
1.2.1.1. Khái niệm trẻ tự kỷ
Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển ( developmental) kéo dài suốt
cuộc đời, làm ảnh hëng trÇm träng tíi quan hƯ x· héi, giao tiÕp xà hội, khả
năng tởng tợng và hành vi của trẻ. Hiện nay không có thuốc hay cách chữa
trị nào chữa dứt đợc bệnh.[23;1]
Năm 1978, Hiệp hội Quốc Gia về BTK ở Mỹ đa ra định nghĩa: Tự kỷ là
một hội chứng các hành vi biểu hiện trớc 30 tháng tuổi với những nét chủ yếu
sau:
1. Rối loạn tốc độ và trình tự phát triển.
2. Rối loạn đáp ứng với các kích thích giác quan.
3. Rối loạn lời nói, ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ.
4. Rối loạn khả năng quan hƯ víi con ngêi, sù vËt vµ sù kiƯn ( Ritvos
và Freeman, 1978).
Định nghĩa này cùng với các định nghĩa của Kanner ( 1943) và
Rutter ( 1968) đà tạo cơ sở cho hai hệ tiêu chuẩn đợc dùng rộng rÃi sau đó
là ICD- 9 ( 1980) - Hệ thống quốc tế phân loại thống kê quốc tế các chứng
bệnh và các vấn đề y tế có liên quan và DSM III ( 1980) - Hội Tâm bệnh
học Mỹ.
Định nghĩa theo DSM –IV- TR: Tù kû n»m trong nhãm c¸c rối loạn
phát triển lan toả ( PDD: Pervasive Developmentl Disorders): Là một nhóm hội
chứng đợc đặc trng bởi suy kém nặng nề và lan toả trong những lĩnh vực phát
triển: tơng tác xà hội, giao tiếp và sự hiện diện của những hành vi và các ham
thích rập khuôn.

1
0



Theo cuốn Sử dụng các biện pháp Nuôi con bị tự kỷ thì tự kỷ là rối loạn về sự phát triển
tâm lý thờng kéo dài cả đời.[25;1]. Hội chứng gồm nhiều hành vi đặc biệt
thấy ở ngời khuyết tật so víi ngêi b×nh thêng , víi chøng tù kû những mặt
có ảnh hởng nặng nhất là liên lạc, hành vi và kỹ năng giao tiếp. Tự kỷ còn
là chứng rối loạn về mặt phát triển, chi phối nhiều mặt phát triển của con
ngời. Cảm nhận của trẻ về thế giới bên ngoài bị sai lạc, không đúng, thờng
cho ra phản ứng khác thờng, hoặc giác quan quá nhạy cảm khiến chúng
phải tự bảo vệ bằng cách làm ngơ với mùi vị, âm thanh và sự đụng chạm, vì
vậy thiếu những kích thích quan trọng giúp cho sự phát triển con ngời, hoặc
có suy nghĩ lạ lùng.
Trong cuốn Sử dụng các biện pháp Trẻ tự kỷ- Những thiên thần bất hạnh, Lê Khanh đÃ
định nghĩa nh sau: Chứng tự toả (hay tự kỷ) gọi chung là Hiện tợng tự toả
( Autistic Spectrum) theo nguyên nghĩa là tự mình phong toả các khả năng
quan hệ của mình với bên ngoài. Việt Nam còn gọi là Tự Kỷ hay Tự Bế.
Đây là một tình trạng khiếm khuyết phức tạp về các khả năng phát triển của
nÃo bộ, tiến triển trong ba năm đầu đời của đứa trẻ, thờng xảy ra cho trẻ trai
nhiều hơn trẻ gái, tình trạng này có thể xảy ra cho bất kì một đứa trẻ nào,
không lệ thuộc vào dân tộc, xà hội hay trình độ phát triển của cha mẹ.
Chứng tự kỷ làm cho đứa trẻ mất khả năng giao tiếp, nhất là về phơng diện
ngôn ngữ và có thể gây tổn thơng cho chính đứa trẻ vì các hành động tự gây
hại, không biết đến sự nguy hiểm của môi trờng xung quanh và vì thái độ
quấy phá của trẻ.[12, 9].
Nh vậy có thể hiểu: Tự kỷ là một loại khuyết tật trí tuệ, một dạng rối
loạn phát triển lan toả trong những lĩnh vực tơng tác xà hội, giao tiếp xÃ
hội, tởng tợng và hành vi.
1.2.1.2. Mét sè quan niƯm vỊ héi chøng tù kû
a. Quan niƯm cđa ICD- 9 ( HƯ thèng qc tÕ phân loại thống kê quốc
tế các chứng bệnh và các vấn đề y tế có liên quan, tái bản lần thứ 9 )và
DSM - III ( tiêu chuẩn chẩn đoán TK cđa Héi T©m bƯnh häc Mü)

Trong ICD – 9, TK trẻ em là một phân nhóm của các Sử dụng các biện pháp loạn tâm có
căn nguyên chuyên biệt ở trẻ em.
Còn trong DSM III ( 1980) và DSM III – R ( 1987) cđa Héi t©m
bƯnh häc Mü, TK trẻ em là một rối loạn phát triển lan toả; là các rối loạn
phát triển nghiêm trọng và xuất hiện sớm, đặc trng bởi sự trì trệ và bóp méo
các quá trình phát triển kỹ năng quan hệ xà héi, nhËn thøc vµ giao tiÕp.
Trong DSM III, PDD bao gåm:
+ Tù kû nhị nhi ( khëi ph¸t tríc 30 th¸ng ti).
1
1


+ PDD trẻ em (Childhood onset PDD, khởi phát sau 30 tháng tuổi).
+ PDD không đặc hiệu ( tình trạng giống tự kỷ, nhng không thể xếp
vào hai nhóm trên).
+ Tự kỷ di chứng ( không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ nhũ nhi, nhng trớc đó đà từng đợc chẩn đoán nh vậy).
Tuy nhiên, những dữ liệu thực tế cho thấy không có sự khác nhau đáng
kể nào ( trừ tuổi khởi phát) giữa tự kỷ nhũ nhi vµ Childhood – onset PDD,
do vËy nhãm thø hai đà bị loại bỏ trong DSM III R.
Ngoài ra, cũng khó có thể phân biệt đợc giữa PDD không đặc hiệu và tự kỷ
di chứng. Vì thế, trong DSM III R ( 1987) chỉ phân PDD thành 2 nhóm.
1. Rối loạn tự kỷ ( gần giống tự kỷ nhũ nhi).
2. PDD không chuyên biệt ( PDD NOS).
Gần đây, DSM IV ( 1994) tiếp tục dùng thuật ngữ chẩn đoán PDD bao gåm:
1. Rèi lo¹n tù kû
2. Rèi lo¹n Rett.
3. Rèi loạn giải thế ở trẻ em.
4. Rối loạn Asperger.
5. PDD NOS.
b. Lorna Wing (1981) cho r»ng tù kû sím nhị nhi của Kanner không

phải là tình trạng bệnh lý có tính đặc hiệu và riêng biệt [14]. Mặc dù các
dấu hiệu đặc thù điển hình trên lâm sàng có thể đợc nhận diện khá dễ, nhng
vẫn còn nhiều trẻ khác có những nét giống TK nhng không thể hiện đầy đủ
triệu chứng ( tự kỷ không điển hình). Tất cả những trẻ này đều có nhu cầu
đợc giáo dục theo phơng thức chuyên biệt. Dùng thuật ngữ tự kỷ điển hình
và không điển hình có thể gây nên sự đối xử phân biệt và khiến một số trẻ Sử dụng các biện pháp
không điển hình có thể không nhận đợc các biện pháp giáo dục và điều trị
cần thiết. Do vậy, bà đà đề xuất thuật ngữ chẩn đoán Autistic Spectrum
Disorder ( ASD) xem rèi lo¹n tù kû nh mét phổ trờng gồm các phân loại tự
kỷ điển hình, tự kỷ không điển hình, hội chứng Asperger và các loại PDD
kh¸c.
c. Quan niƯm cđa Egen Bleuler ( 1911): Egen Blueler lần đầu tiên
dùng từ này để mô tả chứng bệnh mất liên hệ với thực tế ở các bệnh nhân
ngời lớn tâm thần phân liệt.
d. Quan niệm của Leo Kanner (1943): Trong bài báo Sử dụng các biện pháp Autistic
Disturbance of Contact (1943) lần đầu tiên Leo Kanner dùng cụm tõ “Sư dơng c¸c biƯn ph¸p chøng
tù kû xt hiƯn sớm ở trẻ em. Ông đà đa ra một bảng mô tả lâm sàng về tự kỷ

1
2


khác với chứng tâm thần phân liệt ở trẻ em: trong tự kỷ, trẻ nhỏ ngay sau khi
sinh đà không có khả năng biểu hiện cảm xúc với thế giới xung quanh. Theo
ông, hội chứng này có những đặc điểm sau:
-Xuất hiện sớm, thờng là trong 2 năm đầu.
-Sống cô lập, thờ ơ, hoàn toàn không quan tâm đến ngời và đồ vật xung
quanh.
-Không thay đổi, muốn giữ sự ổn định môi trờng vật chất xung quanh, cần
những cột mốc, ®iĨm tùa quen thc ®Ĩ duy tr× thÕ giíi cđa mình theo kiểu nghi

thức.
-Hành vi rập khuôn.
+ Khua tay trớc mặt
+ Đi trên mũi bàn chân theo cách cứng nhắc
+ Quay ngời theo cơn
+ Đung đa ngời từ trớc ra sau theo nhịp điệu
-Rối nhiễu ngôn ngữ
+ Không có ngôn ngữ
+ Phát ra giai điệu giống ngôn ngữ nhng không có nghĩa
+ Ngôn ngữ ít có giá trị hoặc không có giá trị giao tiếp: Nhại lời, khi
phát âm nghe nh có âm dội lại, hay nhắc lại lời của ngời khác. Không có khả
năng sử dụng đại từ nhân xng, dùng ngôi của ngời khác ( bố mẹ, anh chị) thay
cho ngôi của mình Sử dụng các biện pháp con, Sử dụng các biện pháp em, làm biến dạng các từ, bịa ra từ mới.
-Trí nhớ và trí thông minh: Kaner còn nhấn mạnh đến trì nhớ và trí
thông minh đặc biệt của một số trẻ tự kỷ, khác với trẻ chậm khôn.
e: Quan niệm của Margeret Maler (1957): Margeret Maler là một trong
những tác giả đà gộp các biểu hiện gần với chứng tự kỷ nh Kaner mô tả vào
chứng bệnh Sử dụng các biện pháp loạn tâm sớm ở trẻ em. Ngoài những điểm chung với tự kỷ
nh sự xuất hiện sớm trong 2 năm đầu, sự rối loạn trầm trọng mối quan hệ
với thực tế bên ngoài, loạn tâm trẻ em cũng có một số khác biệt. Sau đây là
mô tả của Margeret về chứng loạn tâm cộng sinh ở trẻ em:
-Xuất hiện trong 2 năm đầu sau một thời kỳ phát triển bình thờng.
-Xuất hiện vào những thời điểm quan trọng, khi trẻ phải từ bỏ sự hoà
mình mang tính chất cộng sinh với mẹ để trở thành một cá nhân.
-Có những dấu hiệu nh quá nhạy cảm với những kích thích của các
giác quan, cã mét sè rèi nhiƠu vỊ giÊc ngđ.
-Cã mèi lo hÃi lớn vì sợ bị huỷ diệt khi phải trải nghiệm sự tách mẹ
để đến trờng mẫu giáo hay phải vµo bƯnh viƯn.

1

3


-Mối lo hÃi này bắt đầu bộc lộ bằng sự rối loạn nhân cách đột ngột,
sự mất một số chức năng hoạt động, trong đó có hoạt động ngôn ngữ và
xuất hiện các triệu chứng loạn tâm.
Về sau Margeret thừa nhận là có thể có sự kết hợp và có các dạng
trung gian giữa hai loại cấu trúc tự kỷ và loạn tâm cộng sinh. Tác giả này
nhấn mạnh ảnh hởng của các ảo giác âm tính trong cấu trúc tự kỷ và của sự
níu giữ mối quan hệ công sinh víi mĐ trong mèi quan hƯ céng sinh.
g: Quan niệm của Bruno Bettelheim 1969: Trong tác phẩm pháo đài
trống rỗng, Bruno Bettelheim cho rằng chứng tự kỷ ở trẻ xt hiƯn tù mét mèi
lo h·i thùc sù vỊ c¸i chết, vì lúc còn quá bé, trẻ đà phải trải nghiệm một tình
huống có nguy cơ ảnh hởng nghiêm trọng đén sự phát triển tâm trí. Từ sự trải
nghiệm mối nguy cơ chết ngời này, trẻ tìm cách rút lui khỏi thế giới bên
ngoài, đồng thời ngừng đầu t cho thế giới nội tâm nhằm xoá bỏ mọi cảm xúc.
h: Quan niệm của France Tustin 1977.
Dựa trên những giả thuyết của các nhà phân tâm học Anh nh M.Klein và
của D.Winicott, France Tustin đà phát triển khái niệm Sử dụng các biện pháptrầm cảm loạn luân liên
quan đến những trải nghiệm của trẻ về sự đứt quÃng trong tính liên tục và sự gắn
kết của những cảm giác cơ thể. Sự đứt quÃng này xuất hiện nh là một Sử dụng các biện pháp hố đen
chứa đựng tác nhân truy hại. Nó ập đến đột ngột phá vỡ những mơ tởng của trẻ về
một thế giới có tính liên tục và gắn kết của những cảm giác cơ thể. Trong tác
phẩm Sử dụng các biện pháp Tự kỷ và loạn luân trẻ em, tác giả này đà đa ra cách phân loại tự kỷ
gồm ba nhóm sau:
-Tự kỷ bất thờng tiên phát:
+ Là sự nối dài tự kỷ bình thờng của thời kì đầu trong sự phát triển
của trẻ, đợc gọi là dạng Sử dụng các biện pháp amibe.
+ Trẻ nhỏ không có sự phân hoá thực sự giữa cơ thể của mình với cơ
thể của mẹ.

+ Trẻ không xây dựng đợc giới hạn thực sự trên bề mặt ngoài của cơ thể
mình.
+ Chức năng tâm trí đợc xây dựng từ các cảm giác rất nguyên thuỷ.
+ Là hậu quả cđa sù thiÕu hơt chđ u trong viƯc nu«i dìng trẻ nhỏ.
-Tự kỷ thứ phát rút vào vỏ cứng:
+ Giống nh dạng tự kỷ mà L.Kanner đà mô tả.
+ Quá nhấn mạnh sự khác biệt giữa cái tôi và cái không tôi.
+ Trẻ tạo ra một rào chắn thực sự dới dạng một vỏ cứng nh mai rùa
để ngăn cản mình đến với cái Sử dụng các biện phápkhông tôi ghê sợ.

1
4


+ Cơ thể của trẻ trở nên cứng đờ, mất nhạy cảm và trốn tránh sự tiếp
xúc cơ thể với ngời khác.
+ Hoạt động huyễn tởng nghèo nàn, tập trung vào khía cạnh cơ thể,
hoạt động t duy bị ức chế.
+ Dạng tự kỷ này đóng vai trò quan trọng trong triệu chứng quá nhạy
cảm với những kích thích ở các giác quan và với sự trầm cảm của ngời mẹ.
+ Tác giả gọi dạng tự kỷ này là dạng tự kỷ có vỏ cứng của loài động vật
thân giáp.
-Tự kỷ thứ phát lùi:
+ Đây là một dạng tự kỷ bao gồm cả chứng phân liệt trẻ em.
+ Sau một quá trình phát triển có vẻ bình thờng, trẻ có những biểu
hiện thoái lùi, rút vào một thế giới huyễn tởng khá phong phú, nhng tập
trung vào các cảm giác cơ thể.
+ Có sự lẫn lộn giữa trẻ với mẹ.
i: Quan niệm của M.Soulé và D.Houzen
Các tác giả này đi tìm những dấu hiệu sớm của chứng loạn tâm ngay

trong mối tơng tác cặp đôi mẹ- con. Và những khó khăn trong việc thiết lập
mối quan hệ này đợc coi là khởi đầu cho quá trình loạn tâm. Có thể quan
sát những dấu hiệu sớm nh sau:
-Trẻ từ chối bình sữa.
-Trẻ mất ngủ xáo động, có những hành vi tự xâm kích.
-Hoặc ngợc lại, trẻ rất yên lặng, nhng thiếu khả năng dự đoán và điều
chỉnh t thế.
-Không xuất hiện nụ cời vào tháng thứ 3 và không cảm thấy lo hÃi
vào tháng tứ 8.
-Không thấy hứng thú với đồ chơi hoặc hứng thú quá mức đối với các
động tác tay đa ra trớc mắt.
- Có những mối lo hÃi ám ảnh rất lớn.
k: Quan niệm của hiệp hội Tâm bệnh học Pháp ( 2005)
Theo hiệp hội Tâm bệnh học Pháp, tự kỷ là một hội chứng rối loạn về
tơng tác xà hội, giao tiếp và sự nghèo nàn, rập khuôn trong các hành vi ứng
xử, trong các mối quan tâm và các hoạt động của thân chủ đợc biểu hiện
một cách ổn định và rõ nét trong đời sống hàng ngày.
ở trẻ em, các biểu hiện của hội chứng này rất đa dạng, nhng thờng
tập trung vào bốn nhóm dấu hiệu chính sau đây:

1
5


-Trẻ thờ ơ, không quan tâm đến ngời khác, hoặc có những ứng xử rất
lạ với những ngời xung quanh.
-Trẻ không nói hoặc nói rất ít, thờng lặp lại các tự hoặc câu. Giọng
nói nghe nh có âm dội lại.
-Trẻ không quan tâm đến các đồ vật hoặc chơi với các đồ vật một cách rất
kì lạ.

-Trẻ có những hoạt động lặp đi lặp lại trên các bộ phận cơ thể.
Trong tự kỷ, bốn nhóm dấu hiệu này thờng liên kết với nhau thành hội chứng.
Nếu chỉ mới quan sát đợc một số dấu hiệu riêng lẻ thì không thể kết luận là trẻ bị
tự kỷ.
1.2.1.3 Các dấu hiệu nhận biết bệnh tự kỷ
Chứng TK khó mà đợc hiểu rõ nếu ta chỉ dựa vào những hành vi bất
thờng, triệu chứng biểu lộ và câu hỏi Sử dụng các biện pháp tự kỷ là gì? không thể trả lời đợc
chỉ bằng việc đa ra một loạt các đặc tính. Bởi chứng tự kỷ gồm nhiều triệu
chứng mà không phải ai bị tự kỷ cũng có tất cả những triệu chứng này. Đa
số chuyên gia đồng ý rằng có một số tính chung về tự kỷ thay đổi nặng nhẹ
tuỳ trờng hợp gồm ba nhóm chính:
- Giao tiếp xà hội
- Ngôn ngữ và liên lạc
- T tởng và hành vi
Cụ thể là gồm một số các đặc điểm sau:
-Không chú ý đến ngời khác ngay từ lúc sinh ra
-Chậm nói, gặp khó khăn trong việc nói.
Có thể nhận biết chứng tự kỷ qua hai cách với những dấu hiệu cơ
bản sau:
a. C¸ch 1: NhËn biÕt chøng tù kû qua c¸c dÊu hiệu:
Khiếm khuyết về quan hệ xà hội:
- Là đặc điểm trung tâm của BTK ( Kanner, 1943). Trẻ tự kỷ có khuynh
hớng tránh tiếp xúc và ít biểu lộ sự lu tâm đến giọng nói của ngời khác.
- Chúng không thay đổi t thế hoặc không giơ tay khi sắp đợc bồng bế nh
trẻ bình thờng.
- Cảm xúc thờ ơ, vẻ mặt không diễn cảm.
- ở TTK có trí t kh¸, dÊu hiƯu khiÕm khut quan hƯ x· héi có thể
không rõ rệt cho đến năm 2 tuổi.

1

6


- Lúc nhỏ, trẻ có thể tránh tiếp xúc bằng mắt, nhng có thể chấp nhận nếu
đợc vuốt ve và đặt ngồi trong lòng mẹ.
- Tuy nhiên, trẻ thờng không phát triển hành vi gắn bó, không đi theo bố
mẹ trong nhà.
- Hầu hết TTK không sợ ngời lạ, không lo âu khi chia lìa bố mẹ. Không
chơi chung với trẻ cùng tuổi và chủ động tránh những trẻ này.
- Khi lớn lên, trẻ có thể phát triển khả năng gắn bó với cha mẹ và những
ngời lớn khác. Một số trẻ có thể chơi chung với bạn hoặc tham gia một số
trò chơi vận động thể lực.
- Tuy nhiên trẻ vẫn khiếm khuyết về mặt xà hội. Trẻ thờng ít quan tâm
đến trò chơi nhóm và không thiết lập đợc quan hệ với bạn cùng tuổi.
Các vấn đề về giao tiếp:
+ Khiếm khuyết giao tiếp phi ngôn ngữ
- Lúc nhỏ, trẻ thờng biểu lộ nhu cầu qua tiếng khóc. Lớn lên, trẻ biểu lộ ý
muốn bằng cách kéo tay ngêi lín ®Õn vËt mong mn. Thêng khi ®ã, trẻ
không diễn cảm qua nét mặt.
- Không biết chỉ tay, không biết gật, lắc đầu.
- Không tham gia các trò chơi bắt chớc. Không có khả năng bắt chớc làm
theo những việc làm của bố mẹ nh những trẻ bình thờng vẫn làm.
- Không hiểu đợc ý nghĩa của những cử chỉ, điệu bộ của ngời lớn.
- Trẻ lớn, đôi khi có thể sử dụng và có khi hiểu đợc cử chỉ, điệu bộ của
ngời lớn. Một số trẻ đạt đến khả năng bắt chớc, nhng cách chơi thờng vẫn
có tính rập khuôn và lặp đi lặp lại.
- Nói chung, trẻ tự kỷ vẫn có thể biểu lộ cảm xúc vui, sợ, giận dữ dnh ng
cách thể hiện có khuynh hớng cực đoan. Nét mặt thờng không diễn tả ý
nghĩa. Một số trẻ hầu nh thể hiện nét mặt vô cảm.
+ Không hiểu lời nói.

- Có thể từ nhẹ đến mức độ chẳng bao giờ hiểu đợc lời nói.
- ở mức độ nhẹ, trẻ có thể tuân theo những chỉ dẫn đơn giản, nếu chỉ dẫn
đợc đa ra đúng bối cảnh tức thời, hoặc có kèm theo những cử chỉ, điệu bộ
minh hoạ tơng ứng.
- Trẻ bị khiếm khuyết khả năng hiểu những ý nghĩa trừu tợng và tinh tế.

1
7


- Tính hài hớc và diễn đạt thành ngữ cũng bị nhầm lẫn ngay cả ở những
trẻ tự kỷ thông minh nhất.
+ Khiếm khuyết phát triển lời nói.
- Nhiều trẻ tự kỷ ít bập bẹ trong năm đầu tiên. Gần mét nưa trong sè 11
trỴ tù kû cđa Kanner vÉn câm nín cho đến 5 tuổi.
- Khoảng 1/2 trẻ tự kỷ sẽ bị câm nín suốt đời ( Ricks & Wing. 1976).
- Nếu trẻ phát triển lời nói, thờng lời nói cũng sẽ có bất thờng. Nhiều trẻ
nói vô nghĩa, nói vẹt. Trẻ có thể nhại lại lời nói của ngời khác một cách
chính xác, nhng thờng ít hoặc chẳng hiểu đợc ý nghĩa của chúng. Nhại lời
nặng có thể khiến câu cú bị méo mó và rời rạc. Một số trẻ có thể sao lại
chính xác cụm từ của ngời khác nói, đôi khi nhại đúng cả âm sắc giọng nói.
- Trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngôn ngữ, có thể có hiện tợng
hoán đổi đại từ nhân xng.
- Giọng nói có thể giống robot, đặc trng bởi sự đơn điệu, phẳng lặng,
không thay đổi, ít nhấn giọng và không diễn cảm.
- Một số trẻ nói với mục đích Sử dụng các biện pháp tự kích thích, lời nói có tính chất lặp đi, lặp
lại, không liên quan đến những sự việc thực đang diễn ra xung quanh ( Lovaas,
1977).
- Trẻ nhỏ có thể gặp các vấn đề về phát âm, khi lớn lên tình trạng này có thể
giảm.

- Đối lập với khả năng nhại lời chính xác, những lời nói tự nhiên của trẻ
lại có nội dung rÊt nghÌo nµn, vèn tõ Ýt ái.
- Cã thĨ dùng kiểu nói nh đang hát, kéo dài một số âm hoặc từ nào đó
trong câu. Câu nói thờng đợc kết thúc kiểu câu hỏi ( lên giọng ở cuối câu).
- Cấu trúc ngữ pháp bất thờng, không thành thục, thờng gặp trong lời nói
tự nhiên của trẻ.
- Trẻ tự kỷ có thể đặt tên riêng cho đồ vật theo cách của mình, hoặc dùng
những từ riêng mà ngời khác không thể hiểu đợc.
- Không biết sử dụng hoặc sử dụng không đúng các giới từ, liên từ và đại
từ.

1
8


- Trẻ có khuynh hớng không sử dụng lời nói trong để giao tiếp. Thờng nói
rập khuôn, lặp đi, lặp lại.
- Không biết dùng lời nói để diễn tả ý trừu tợng. Không biết nói về
chuyện quá khứ, chuyện tơng lai hoặc chuyện không xảy ra trớc mắt.
- Tiến bộ hơn, một ít trẻ tự kỷ có thể nói về điều trẻ quan tâm, nhng một
khi ngời lớn đáp ứng và bắt đầu nói chuyện với trẻ thì trẻ lại bá dë vµ rót
khái cc nãi chun Êy. Nãi chung trẻ vẫn thiếu khả năng tơng tác qua lại.
Hành vi bất thờng.
+ Chống lại sự thay đổi
Trẻ tự kỷ thờng khó chịu trớc những thay đổi trong môi trờng sèng
quen thc cđa chóng. Mét sù thay ®ỉi nhá trong thông lệ thờng ngày có
thể làm trẻ nổi cơn tam bành. Nhiều trẻ hay xếp đồ chơi và vật dụng thành
hàng dài và rất khó chịu nếu nh trật tự này bị thay đổi. Hiện tợng này gặp ở
trẻ tự kỷ có chậm phát triển trí tuệ nhiều hơn gấp hia lần so với trẻ tự kỷ có
trí thông minh bình thờng (Bartak & Rutter, 1976). Hầu hết trẻ tự kỷ đếu

chống lại việc học và thực hành một hoạt động mới.
+ Hành vi mang tính nghi thức, thúc ép
Các hành vi mang tính nghi thức, thúc ép thờng liên quan đến những
thông lệ cứng nhắc nh : từ chối ăn một loại thức ăn nào đó ; hoặc là những
hành vi có tính rập khuôn, lặp đi lặp lại, ví dụ: vung vẩy hai cánh tay, hoặc
đa bàn tay lên gần mặt rồi xoắn vặn hoặc bật bật các ngón tay.
Trẻ lớn có thể phát triển các hành vi mang tính ám ảnh, ví dụ: hỏi đi
hỏi lại cùng một câu hỏi, và các hành vi có tính thúc ép, ví dụ: hay sờ đụng
vào một số đồ vật nào đó. Các hành vi mang tính nghi thức, thúc ép thờng
xảy ra ở bệnh nhân tự kỷ không bị chậm phát triển trí tuệ hơn là bệnh nhân
có trí tuệ kém ( bartak & Rutter. 1976).

Những sự gắn bó bất thờng
Nhiều trẻ tự kỷ có sự gắn bó mạnh mẽ với những đồ vật khác thờng,
với một món đồ chơi nào đó nh quả bóng chẳng hạn. Trẻ có thể luôn mang
theo món vật đó bên mình, và nếu có ai đó lấy vật này đi thì trẻ sẽ giận dữ,
phản kháng lại ngay. Nếu vật này vẫn không đợc trả lại, trẻ sẽ quay sang
tìm kiếm một món đồ khác để thay thế.
Các đáp ứng không bình thờng với những trải nghiệm giác quan. Trẻ tự

1
9


kỷ có thể bị mê hoặc bởi các bóng đèn, các hoa văn, những vật có chuyển động
xoay tròn, hoặc một thứ âm thanh nào đó. Trẻ thao tác trên các đồ vật, đồ chơi
không theo các chức năng thông thờng của món đồ đó, mà nh để thoả mÃn sự
kích thích của các giác quan. Trẻ có thể kiên trì làm đi làm lại các thao tác xếp
đồ vật thành hình dài, xếp chồng đồ vật lên nhau hoặc xoay một món đồ để nó
xoay tròn. Trẻ cũng có thể làm đi làm lại những việc nh dội nớc bồn cầu hoặc

liên tục tắt mở bóng đèn.
Tuy tránh né các tiếp xúc cơ thể, nhng một số trẻ tự kỷ rất thích các
trò chơi mạnh bạo nh tung hứng, đánh đud



Rối loạn về vận động

-

Các mốc chuyển tiếp trong phát triển vận động có thể bị chậm trễ.

-

Trẻ nhỏ thờng gặp khó khăn trong việc bắt chớc các động tác.

-

Nhiều trẻ rất hiếu động, nhng sẽ giảm bớt khi đến tuổi thiếu niên.

Hay nhăn nhó, vỗ đập cánh tay, xoắn vặn bàn tay, đi nhón gót, chạy
chúi đầu về phía trớc, nhảy, đi đều bớc, lắc l hoặc đu thân mình, xoay đầu
hoặc đập đầu xuống đất, vào tờng.
-

Một số trẻ có trạng thái căng cơ phấn khích hoặc khi quá chăm chú.

Các khiếm khuyết về trí tuệ và nhận thức
Hầu hết trẻ tự kỷ đều có chậm phát triĨn trÝ t ( Rutter, 1978). Kho¶ng
40 – 60% cã IQ< 50. ChØ kho¶ng 20 -30% cã IQ> 70. Do đa số trẻ tự kỷ khó

làm các test trí tuệ ( nhất là các test dùng lời nói) nên các kết quả IQ vẫn còn
bàn cÃi.
Trẻ tự kỷ có IQ thấp thờng kèm theo các khiếm khuyết nặng về kỹ
năng quan hệ xà hội và có nhiều đáp ứng xà hội lệch lạc, ví dụ: hay sờ mó
hoặc ngửi đồ vật và ngửi khác, có những hành vi định hình và tự gây thơng
tích bản thân ( bartak va Rutter, 1976).
1/3 trẻ tự kỷ có chậm phát triển trí tuệ sẽ bị động kinh, còn trẻ tự kỷ
có trí tuệ khá thì tỷ lệ này thấp hơn ( Rutter, 1978). Vì vậy, IQ cũng phần
nào có ý nghĩa tiên lợng.
Khác với những đứa trẻ chậm phát triển tâm thần, tình trạng chậm
phát triển của trẻ tự kỷ vẫn còn chừa lại những Sử dụng các biện pháp khoảng trí tuệ b×nh thêng

2
0



×