Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.08 KB, 89 trang )

Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Mục lục
Lời mở
đầu
……1
Chương I: Cơ sở của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt
Nam và
Singapore ……4
I.Cơ sở về điều kiện tự nhiên 4
1.Vị trí địa lý, địa hình 4
2. Khí hậu, đất đai 5
II. Cơ sở về điều kiện chính trị- xã
hộ
i 6
1. Dân cư, dân tộc, tôn giáo, ngôn
ngữ
6
2. Nhà nước và chính trị 8
III. Cơ sở về điều kiện kinh tế 10
1. Kinh tế Singapore 10
2. Kinh tế Việt Nam 18
Chương II: Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore ……25
I. Lịch sử phát triển mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore 25
II.Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore
1.Quan hệ thương mại Việt Nam-Singapore 31
1.1 Kim nghạch xuất nhập


khẩu
31
1.2 Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu 36
2. Quan hệ đầu tư của Singapore vào Việt Nam 44
2.1 Thực trạng quan hệ đầu tư 44
2.2 Hình thức đầu tư 47
2.3 Lĩnh vực đầu tư 50
III. Đánh giá quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore 53
Những thuận lợi của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore …………………………………………………………………53
Những khó khăn của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore………………………………………………………………….58
Chương III: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế
thương mại giữa Việt Nam và Singapore ……62
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
1. Triển vọng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore..62
2. Kiến nghị một số giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại giữa
Việt Nam và
Singapore……………………………………………………….66
Kết luận ……75
Phụ lục ……76
Tài liệu tham khảo ……82
LỜI MỞ ĐẦU
Chưa đầy 20 năm sau công cuộc đổi mới (1986), Đảng và nhà nước ta đã
lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, trở ngại đưa nước ta dần dần đi
vào ổn định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế và hoà nhập vào nền kinh tế

thế
giớ
i.
Về mặt đối ngoại, Đảng ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại với
phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế
giới”. Chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia lớn nhỏ trong
khu vực cũng như ngoài khu vực đặc biệt là tăng cường quan hệ với các
nước láng giềng trong khối asean trong đó có Singapore.
Trên thực tế, Singapore có quan hệ rất sớm với Việt Nam. Ngay từ
đầu
những năm 90s, mối quan hệ giữa hai nước đã tiến triển đáng kể cùng với sự
phát triển chung của tình hình khu vực và thế giới. Từ đó tới nay Singapore
luôn là một trong các bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Singapore đã khẳng
định tầm quan trọng của mình trong mối quan hệ hợp tác với Việt Nam. Và
mối quan hệ hữu nghị hợp tác về kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và
Singapore ngày càng lớn mạnh. Việt Nam có thể tìm thấy ở Singapore
những sản phẩm của nghành công nghệ tiên tiến như máy móc, thiết bị, điện
tử, linh kiện ô tô, xe máy đồng thời có thể xuất sang Singapore những mặt
hàng là thế mạnh của mình như hàng nông sản, thuỷ sản, lao động…. Trong
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
lĩnh vực đầu tư, Singapore đã và đang vươn lên đứng đầu danh sách các
nướ
c và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Vậy làm sao để tiếp tục thu hút
vốn đầu tư ấy là điều mà Việt Nam phải quan tâm. Và làm cách nào để thúc
đẩy mối quan hệ ấy.
Việc lựa chọn đề tài “Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và

Singapore” làm đề tài khoá luận, một mặt em muốn tìm hiểu thêm về quốc
đảo láng giềng này, mặt khác đánh giá những thuận lợi cũng như khó khăn
của mối quan hệ này để từ đó cùng độc giả bàn luận một số giải pháp khắc
phục nó nhằm giúp cho mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore ngày càng tốt đẹp hơn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào hai lĩnh vực cơ bản nhất
trong mối quan hệ giữa hai nước, đó là: quan hệ thương mại và quan hệ đầu
tư. Phạm vi nghiên cứu đề cập đến hiện trạng, triển vọng và một số giải pháp
nâng cao mối quan hệ ấy.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore
Chương II: Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và
Singapore
Chương III: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế
thương mại giữa Việt Nam và Singapore
Với việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, chon lọc, phân tích, tổng
hợp, đánh giá thông tin dữ liệu, luận văn này mong muốn mang đến bạn đọc
ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
Do khuôn khổ hạn hẹp của đề tài cũng như hạn chế của tác giả, luận văn này
không thể tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự quan tâm, đóng
góp ý kiến của bạn đọc.
Luận văn này hoàn thành được là nhờ có sự đóng góp của thầy cô, gia đình,
bạn bè và các tổ chức có liên quan. Do vậy trước hết em xin chân thành cảm
ơn Thạc Sỹ- Nguyễn Kim Thu đã rất nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, đánh giá
góp ý kiến bổ ích để em có thể hoàn thành luận văn này. Đồng thời em xin
chân thành cảm ơn Đại Sứ Quán Singapore, Bộ kế hoạch và đầu tư, Tổng
cục thống kê và phòng thương mại Việt Nam, Vụ Châu á Thái Bình Dương
đã cung cấp những tài liệu cần thiết để luận văn mang tính xác thực và thiết
thực hơn.

Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại Học Ngoại
Thương đã trực tiếp giảng dạy và truyền thụ cho em những kiến thức bổ ích
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
và quí báu. Em xin cảm ơn những người thân, gia đình, bạn bè đã ủng hộ
giúp đỡ để em hoàn thiện luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội tháng 12/2003.
Chương I:
Cơ sở của mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore
I.Cơ sở v ề đ iều k i ện t ự nhiên
1. Vị trí địa lý- địa hình
Về vị trí địa lý-địa hình của Singapore: Singapore là một quần đảo nằm ở
phía bắc đường xích đạo, ở vào khoảng 103,4- 104 độ kinh đông và 1,15-
1,30 vĩ độ bắc. Singapore có diện tích 692,7 km2 với 54 đảo lớn nhỏ (trong
đó 20 đảo có người ở). Phía tây và phía đông Singpore giáp Malaysia. Phía
nam giáp Indonesia. Singapore nằm ở cực nam bán đảo Malacca là điểm án
ngữ quan trọng trên con đường buôn bán bằng đường biển từ ấn độ dương
sang thái bình dương, từ đông nam á hải đảo sang đông nam á lục địa.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Lãnh thổ Việt Nam có vị trí địa lý đặc biệt ở Đông Nam á, ở vào khoảng
102-109,3 độ kinh đông và 8,1-23,24 vĩ độ bắc. Với diện tích 331.690 km2
Việt Nam nằm ở ranh giới trung gian, nơi tiếp giáp với các lục địa (Châu á

Châu Đại Dương) và đại dương (Thái Bình Dương và Đại Tây Dương).

Về địa hình, Việt Nam hình chữ S, nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương,
phía bắc giáp với Trung Quốc, phía tây giáp với Lào và Campuchia, phía
đông giáp với biển. Việt Nam nằm trong khu vực có nền kinh tế phát triển
năng động nhất, đồng thời án ngữ trên các tuyến hàng hải huyết mạch thông
thương như ấn độ và thái bình dương, châu âu-trung cận đông với Trung
Quốc…. (Địa lý kinh tế- xã hội Việt Nam- NXB Giáo Dục 2001)
Như vậy cả Việt Nam và Singapore đều có vị trí địa lý hết sức thuận lợi
đồng thời lại gần nhau (vì cùng trong khu vực Châu á). Đây là một cơ sở
thuận lợi cho sự phát triển mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Vì
dù rằng vị trí địa lý không có tính chất quyết định nhưng nó lại có khả năng
tạo ra những thuận lợi cũng như khó khăn cho việc trao đổi, tiếp cận, giao
thoa cùng phát triển giữa các quốc gia với nhau. Đặc biệt là trong xu thế hội
nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay thì vị trí địa lý sẽ trở
thành một nguồn lực, định ra hướng phát triển có lợi nhất trong phân công
lao động toàn thế giới và xác định các mối quan hệ song phương và đa
phương của một quốc gia. Do vậy đây là yếu tố thuận lợi xét trong mối quan
hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore .
Khí hậu và đất đai
Singapore nằm trong vùng khí hậu xích đạo nhiệt đới nên khí hậu thường
xuyên nóng và ẩm, độ ẩm không khí cao. Là quốc gia hải đảo với 150 km bờ
biển bao bọc xung quanh nên khí hậu Singapore quanh năm tương đối mát
mẻ và dễ chịu. Nhiệt độ bình quân trong năm là 26,7oC, dao động từ 24oC
đến 31oC, độ ẩm bình quân trong năm là 84,4%. Lượng mưa trung bình khá
lớn, khoảng 2359 mm/ năm. Tuy vậy nhưng về đất đai, phần lớn diện tích
đất Singpore đã bị đô thị hoá, do vậy đất dành cho nông nghiệp chỉ còn
khoảng 1%, đất rừng còn khoảng 5%.
Về khí hậu và đất đai Việt Nam, nước ta hoàn toàn nằm trong vòng đai nhiệt
đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là về xích đạo cho nên Việt Nam
cũng có một nền nhiệt cao, thường từ 22oC đến 27oC. Hàng năm có khoảng
100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1500 đến 2000 mm. Độ ẩm

không khí khoảng 80%. Độ ẩm không khí cao, lượng mưa lớn là những điều
kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loài sinh vật đặc
biệt là đối với các loại cây trồng như lúa nước, cây rừng, cây nhiệt
đới….Trong khi đó, khác với Singpore là ở chỗ, Việt Nam có đất đai khá
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
nhiều. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tiềm năng đất nông nghiệp của cả
nước là 10- 11,37 triệu ha, riêng đất trồng cây hàng năm lên tới 8 triệu
ha
(đấ
t trồng lúa khoảng 5 triệu ha) và còn lại là 2,3 triệu ha đất trồng cây lâu
năm. Trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều loại đất với 2 nhóm đất chính là:
Feralit ở miền đồi núi và đất phù sa ở vùng đồng bằng. Đất phù sa rất thích
hợp với cây trồng. Về chất lượng, đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi
xốp, lượng chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng khá cao nhất là đất phù
sa, đất xám. Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam có thể đa dạng hoá chủng
loại cây trồng. Đó là chưa kể đến Việt Nam có một hệ thống rừng rậm tiêu
biểu cho rừng nhiệt đới, có nguồn tài nguyên thuỷ hải sản phong phú (cá,
tôm, trai, ốc, mực….) có giá trị dinh dưỡng cao, có tiềm năng xuất khẩu lớn.
Do vậy điều kiện khí hậu và đất đai là điều kiện thứ hai thúc đẩy việc
trao
đổ
i hàng hoá giữa hai quốc gia. Singapore có thể nhập từ Việt Nam các mặt
hàng nông, thuỷ sản bù đắp cho sự thiếu hụt trong nước do điều kiện tự
nhiên không cho phép. Thay vào đó Việt Nam có thể nhập từ Singapore sản
phẩm của nghành công nghệ cao.
II. Cơ sở v ề đ iều k i ện chính t r ị - xã hộ i
1. Dân cư, dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ

Dân cư, dân tộc: Singapore là một quốc gia trẻ nhiều dân tộc và đa sắc thái
văn hoá. Dân số của Singapore là gần 4,46 triệu người (tính đến tháng 7 năm
2002). Về thành phần dân tộc thì người Hoa là nhóm tộc người chính (chiếm
tới 76,7%). Nhóm tộc người lớn thứ hai là người Mã Lai (chiếm 14% dân số
Singapore). Thứ ba là cộng đồng người ấn độ, chiếm khoảng 7%. Ngoài ra
còn có cộng đồng người châu âu (chủ yếu là có nguồn gốc ănglê-xắc sông),
cộng đồng người ả rập và nhóm tộc ít người khác.
Việt Nam cũng là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc anh em). Dân tộc kinh
chiếm đa số (87% dân số cả nước) sống tập chung chủ yếu ở vùng châu thổ
sông hồng, các đồng bằng ven biển miền trung, đồng bằng sông cửu long
….Còn 53 dân tộc khác phân bổ chủ yếu ở các vùng núi (chiếm 2/3 lãnh thổ)
trải dài từ bắc vào nam. Trong số các dân tộc thiểu số, đông nhất là dân tộc
Tày, Thái, Mường, Hoa, Khơ Me, Nùng… mỗi dân tộc trên dưới 1 triệu
người. Nhỏ nhất là dân tộc Brau, Roman, O-du chỉ vài trăm người. Tổng
cộng 54 dân tộc có hơn 8 triệu người. Đây là một con số không nhỏ so với
dân số Singapore. Cũng vì thế Việt Nam được coi là nơi cung cấp lực lượng
lao động dồi dào rất hấp dẫn các nhà đầu tư Singapore.
Về tôn giáo: ở Singapore, đại đa số người Hoa theo Phật giáo. Còn hầu hết
người Mã Lai theo hồi giáo, nói tiếng mẹ đẻ. Người ấn độ theo đạo hinđu và
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
nói tiếng Tamin. Người châu âu theo đạo thiên chúa và nói tiếng anh. Từ
trước tới nay không một tôn giáo nào ở Singapore được nhà nước công nhận
là quốc giáo.
ở Việt Nam, trong các tôn giáo chủ yếu có nguồn gốc á đông như: Phật giáo,
nho giáo, đạo giáo…,Phật giáo đã được phổ biến rộng khắp ngay từ thời Bắc
thuộc và phát triển cực thịnh thời Lý- Trần. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
Phật giáo được duy trì cho tới ngày nay. Nho giáo chính thức được tiếp nhận

vào Việt Nam từ năm 1070 (khi Lí Thánh Tông cho lập văn miếu thờ Chu
Công, Khổng Tử. Nhiều công trình biểu trưng của nho giáo còn tồn tại đến
ngày nay như: Văn Miếu Hà Nội, Văn Miếu ở Huế. Đạo giáo vào Việt Nam
từ cuối thế kỷ II và có chỗ đứng ngay vì tìm thấy những tín ngưỡng tương
đồng có sẵn từ lâu như sùng bái ma thuật, phù phép…Còn tôn giáo có nguồn
gốc từ phương tây như thiên chúa giáo không phổ biến ở Việt Nam (hiện
nay chỉ có khoảng 5 triệu tín đồ).
Như vậy về tôn giáo Việt Nam và Singapore tìm thấy điểm chung ở văn hoá
phật giáo, thờ cúng tổ tiên nên sinh hoạt và ứng xử trong gia đình cũng có
nhiều nét tương đồng. Từ đó dẫn đến một nền văn hoá khá giống nhau nên
thiết lập quan hệ tương đối dễ dàng.
Về ngôn ngữ: ở Singapore nhà nước công nhận cả 4 thứ tiếng gồm tiếng Mã
Lai, tiếng Hoa phổ thông, tiếng Tamin và tiếng Anh là những ngôn
ngữ
chính,
trong đó tiếng anh là ngôn ngữ chính trong thương mại, hành chính và
giáo dục.
Còn ở Việt Nam : Dân tộc Kinh chiếm đa số dân số của cả nước nói tiếng
kinh. 53 dân tộc khác mỗi dân tộc có ngôn ngữ của mình. Tiếng kinh là tiếng
phổ thông. Và trong những năm qua do xu thế mở cửa hội nhập thế giới nên
mặc dù tiếng anh là tiếng ngoại ngữ song cũng rất phổ biến ở Việt Nam .
Do vậy xét riêng trong quan hệ buôn bán thì đây cũng là một thuận l

i
cho 2 phía bởi vì cả Việt Nam và Singapore đều có thể sử dụng tiếng Anh
làm công cụ trong trao đổi buôn bán.
2.Nhà nước và chính trị
ở Singapore có 22 đảng phái chính trị khác nhau trong đó Đảng Hành Động
Nhân Dân (PAP) cầm quyền từ hơn 30 năm nay và vẫn tiếp tục giữ vị trí
thống trị. Lãnh tụ của đảng này trước đây là ông Lý Quang Diệu và hiện nay

là ông Goh Chok Tong. Sau khi lên nắm quyền lãnh đạo, Đảng PAP chủ
trương xây dựng một nền kinh tế thị trường có điều tiết (cũng giống như
Việt Nam sau này). Theo hiến pháp, Singapore là một nước cộng hoà, đứng
đầu nhà nước là Tổng thống do toàn dân lựa chọn theo phổ thông đầu phiếu.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Tổng thống có nhiệm kỳ 6 năm, hiện nay là ông Stellapan nhậm chức từ
01/9/1999. Đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Thủ tướng hiện nay của
Singapore là ông Goh Chok Tong nhậm chức ngày 28/11/1990 và được bổ
nhiệm lại 2 lần năm 1997 và 2001. Thủ tướng và các thành viên nội các do
tổng thống bổ nhiệm từ các đại biểu của nghị viện. Tổ chức nhà nước gồm 3
cơ quan chính: cơ quan lập pháp (gồm nghị viện và hội đồng tổng thống), cơ
quan hành pháp (bao gồm các bộ, ban nghành chức năng của chính
phủ,
đứng
đầu nội các là chính phủ và tổng thống), cơ quan xét xử (gồm toà án
tối cao và toà án địa phương).
Khác với Singapore có 22 đảng phái chính trị khác nhau thì Việt Nam chỉ có
một đảng duy nhất: đó là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt
Nam ra đời sớm hơn Đảng Hành Động Nhân Dân (PAP) rất
nhiều
(3/2/1930).
Điều 4 hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
ghi “Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân….là lực lượng
lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Thực tế Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức
và lãnh đạo xã hội thực hiện mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam: đánh
đổ

ách
đô hộ của thực dân Pháp lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
(năm 1945) và đánh đổ đế quốc Mỹ thống nhất đất nước (năm 1975). Năm
1986 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, bước vào thời kỳ
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020. Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ: có ban chấp hành trung ương (BCH TW). ban
chấp hành trung ương bầu ra bộ chính trị và tổng bí thư. Tổng bí thư đầu tiên
của Đảng Cộng Sản Việt Nam là ông Trần Phú, hiện nay là ông Nông Đức
Mạnh. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm: quốc hội (là cơ quan lập hiến, lập
pháp, bầu ra chủ tịch từ các đại biểu quốc hội), toà án nhân dân tối cao (là cơ
quan xét xử), viện kiểm sát nhân dân tối cao (kiểm tra việc tuân theo pháp
luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác… đảm bảo cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngoài ra ở Việt Nam còn
có Mặt trận tổ quốc Việt Nam (là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân),
tổ chức công đoàn (chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên
chức và những người lao động khác), hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu
chiến binh…
Như vậy mặc dù Việt Nam và Singapore có chế độ chính trị khác nhau song
trong xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì hợp tác
chặt chẽ giữa các quốc gia, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không phân biệt chế độ chính trị xã hội được đưa lên hàng đầu, nên sự
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
khác biệt này sẽ không phải là rào cản. Ngược lại đây là cơ hội để Việt Nam
có thể trao đổi với một quốc gia phát triển nhất khu vực Đông Nam á đồng
thời học tập Singapore về cách quản lý về mọi mặt.

III. Cơ sở kinh tế
Nói đến cơ sở kinh tế tức là chúng ta sẽ đề cập đến chiến lược phát triển
kinh tế và các chính sách phát triển kinh tế của hai quốc gia: Việt Nam và
Singpore .
1.Kinh tế Singapore
Chiến lược phát triển kinh tế của Singapore là việc chuyển đổi từ chiến lược
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang chiến lược công nghiệp hoá hướng
về xuất khẩu (hay nói cách khác là chuyển từ chiến lược đóng cửa nền kinh
tế sang chiến lược mở cửa nền kinh tế).
Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu: Chiến lược công nghiệp
hoá thay thế nhập khẩu được hầu hết các nước công nghiệp phát triển tiến
hành trong thế kỷ 19. Một số nước châu á bắt đầu thực hiện chiến lược này
từ trước chiến tranh thế giới thứ II. Bản chất của chiến lược này là nhằm
thoả mãn nhu cầu trong nước để xây dựng một nền kinh tế độc lập, không
phụ thuộc bên ngoài. Do vậy mà ngoại thương không được chú trọng mà chỉ
chú trọng đến khả năng tự cung tự cấp của thị trường nội địa.
Singapore áp dụng chiến lược này từ những năm 1960-1965. Sau
khi
thoát khỏi ách thống trị của thực dân Anh, quốc gia Singapore gặp nhiều khó
khăn trở ngại: nguồn cung cấp nguyên liệu giảm, thất nghiệp tăng nhanh….
buộc Singpore phải tiến hành công nghiệp hoá trên cơ sở xây dựng và phát
triển nghành công nghiệp hướng nội. Để kích thích các nhà tư bản trong và
ngoài nước mở rộng kinh doanh trong các nghành công nghiệp non trẻ nhằm
tạo thêm công ăn việc làm và tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu trong
nước, chính phủ Singapore đã thi hành chính sách bảo hộ hàng nội địa bằng
hàng rào thuế quan, hạn chế hàng ngoại nhập cả về số lượng và chủng loại
đồng thời áp dụng những ưu đãi về tài chính cho các hoạt động kinh doanh
trong nước:
Ví dụ: miễn thuế cho các xí nghiệp tiên phong mới thành lập trong năm năm
đầu, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu và máy móc từ bên ngoài, cho các xí

Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
nghiệp lớn vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường…Điều này đã
mang lại cho Singpore một số kết quả khả quan: tạo thêm công ăn việc làm,
nâng giá trị nghành công nghiệp chế biến trong tổng sản phẩm quốc
dân(GDP) từ 13,2% (năm 1960) lên 15,6% (năm 1965). Tuy vậy do hạn chế
của chính sách bảo hộ mậu dịch, mất ổn định chính trị, cơ sở hạ tầng chưa
được hoàn thiện nên số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào
Singapore từ năm 1959-1965 chỉ khoảng 40 triệu USD. Nền kinh tế
Singapore vẫn nằm trong tình trạng là một nền sản xuất nhỏ, tỉ lệ thất nghiệp
cao (chiếm 10% lực lượng lao động), đời sống nhân dân chưa được cải thiện
với mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp (500 USD/người). Điều này
đòi hỏi Singpore phải chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng
về
xuấ
t khẩu (từ năm 1965 đến nay).
Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu: là chiến lược mở cửa nền
kinh tế, hướng ra thị trường bên ngoài, do vậy mà ngoại thương được chú
trọng. áp dụng chiến lược này, mỗi quốc gia có thể tận dụng lợi thế so sánh
của mình trong trao đổi buôn bán nhằm tối đa hoá lợi ích cho mình. Đây là
chiến lược mà hầu hết các quốc gia trong nền kinh tế hiện đại đều theo đuổi.
Với Singapore cũng vậy, sau khi tách khỏi liên bang Malaysia, chính phủ
Singapore bắt tay ngay vào thựcàšiện chiến lược n•y. ĐiểU đầu tiên trong
èhiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Singapore là lựa chọn
v khuyến khích những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như:
chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, lắp ráp cácưthiết bị điện dân dụng, các
phương tiện giao thông vận tải, ngành kéo sợ_, ngành may mặc,xây dựng
các cơ sở lọc dầu và đóng tàu biển ... Việc thu hởt đầu tư vào những ngành

này giúp SFngapore giải quyết tình trạng thất Å_hiệp, nhanh chóng tạo ra
sản phẩm đ# xuất khẩu và tăng nhanh nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho đầu
tư. Trong khi ẻó nhu cầd của các nước tư bản như: Mỹ, Nhật bản… ngay từ
Thững năm 1960s đã có nhu cầu thay đổi nhanh các xí nghiệp sử dụng nhiều
lao động sang các nước đang phát triển để nâng cấp, hˆện đại hGá các xí
nghiệp mới, sử dụng nhiều vốn và có trì–h độ công ngh cao. Singapore đã
đón nhận luồng di dời của các xí nghiệp—này một cách kịp thời để phát
triển nghành công nghiệp trong ầước.
Đến giữ` những năm 1970s, chiến lược công nấhiệp hoá hướng về xuất
khẩu, sử dụng nhiều lao động đã mang lại cho Singapore những thành quả
tốt đẹp: ngành công nghiệp chế biến đã tạo ra được gần 150000 việc làm
mới, giá trị xuất khẩu của ngành này đã tăng từ 43% lêá#55%, nạn thất
nghiệp hầu như được thanh toán. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại mặt hạn
chế của nó, đó là: việc ưu tiên những nghành sử dụng nhiều lao động dẫn
đến việc cải tiến công ng
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
ử, nâng cao tay nghề ít được chú trọng, do vậy năng suất lao động thấp, hạn
chế khả năng tạo ra những sản phẩm có giá trị cao. Mặt khác nhu cầu xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế tăng lên từ giữa những năm 1970s đẩy Singapore
vào tình trạng thiếu lao động. Sự gia tăng các hàng rào thuế quan bảo
hộ
mậu
dịch ở các nước phương tây từ cuối những năm 1970s cùng sự cạnh
tranh của những hàng xuất khẩu từ các nước có mức lương thấp trong khu
vực gây ra trở ngại đối với xuất khẩu hàng của Singapore. Do vậy từ cuối
những năm 1970s, chính phủ Singapore bắt đầu từng bước thay thế các xí
nghiệp sử dụng nhiều lao động, điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hiện đại

hoá
công nghệ và sử dụng nhiều chất xám.
Để tạo điều kiện cho chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu phát
huy hiệu lực, chính phủ Singpore đã tiến hành nhiều biện pháp hành chính
quan trọng mà chúng ta phải kể đến đó là:
-Thứ nhất là thực hiện chính sách mậu dịch tự do: chính sách mậu dịch tự do
được Singapore áp dụng nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi
với việc xoá bỏ hàng rào thuế quan. Chính phủ Singapore đặc biệt khuyến
khích nền kinh tế tự do bằng cách đề ra những ưu đãi về thuế và tài chính,
khuyến khích mở cửa các ngành công nghiệp, khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia lập trụ sở của mình tại Singapore.
Mỗi thành viên có thể tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Chính phủ
không can thiệp vào công việc kinh doanh của mỗi cá nhân, không thu thuế
xuất nhập khẩu mà chỉ thiết lập một môi trường kinh doanh thích hợp thông
qua hệ thống pháp lý toàn diện:
( Đối với hàng xuẩt khẩu: nhìn chung Singapore không đánh thuế hàng xuất
khẩu nhưng cũng áp dụng hạn nghạch hoặc giấy phép để quản lý một số mặt
hàng cần thiết.
( Đối với hàng nhập khẩu: Bộ tài chính Singapore quy định chỉ đánh thuế
đối với một số ít mặt hàng tuỳ theo các thời điểm khác nhau. Các mặt hàng
chịu thuế nhập khẩu thường là: rượu, bia, đồ gỗ, xăng dầu và một số ít mặt
hàng tiêu dùng khác nhằm bảo vệ các mặt hàng sản xuất trong nước. Việc
nhập khẩu các mặt hàng như máy móc, trang thiết bị nguyên liệu thô được
miễn thuế nhập khẩu. Hàng nhập khẩu từ asean được hưởng thuế suất ưu
đãi.
Chính sách thương mại tự do không chỉ là tự do trong buôn bán mà còn mở
rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Để thực hiện thành công chính sách
này Singapore áp dụng rất nhiều đạo luật khác nhau, ví dụ:
( Luật kinh tế: chỉ đạo và điều tiết các hoạt động kinh tế, đây là cơ sở
cho

việc thành lập hội các nhà kinh tế.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
( Luật về hệ thống khuyến khích và phát triển kinh tế: tạo cơ sở pháp lý cho
việc miễn thuế đối với các nghành công nghiệp mũi nhọn, khuyến khích hiện
đại hoá và mở rộng hoạt động kinh doanh.
( Luật về thuế thu nhập: quy định các khoản thu nhập của cá nhân hay tập
thể xí nghiệp phải nộp.
( Luật công ty: quy định về các thủ tục đăng ký thành lập và hoạt động của
các công ty ở Singapore.
( Luật ngân hàng: quy định về các thủ tục cấp giấy phép cho hoạt động tín
dụng.
( Luật chứng khoán: quy định về thành lập và hoạt động của các thị trường
chứng khoán.
( Luật quy định về quỹ dự phòng TW: làm cơ sở cho việc thành lập và hoạt
động của hình thức bảo hiểm xã hội và an ninh quốc gia.
( Luật về văn tự và đất đai: những quy định về quyền sở hữu và cho thuê
đấ
t.
(
Luật về cơ quan tiền tệ: xác định những chức năng của cơ quan này với tư
cách là cơ quan tài chính ngân hàng và hoạt động ngân hàng.
-Thứ hai phải kể đến là chính sách khuyến khích đầu tư của Singpore: Chính
phủ đã đưa ra hàng loạt chính sách đổi mới công nghệ để thu hút đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là đầu tư vào các nghành công nghiệp non trẻ.
Singapore tiếp tục đưa ra hàng loạt luật quy định: luật mở rộng kinh tế năm
1967 và được bổ sung vào năm 1970, luật khuyến khích mở rộng kinh tế ban
hành năm 1971. Các luật trên tiếp tục được điều chỉnh bổ sung với những

điều kiện ngày càng thuận lợi hơn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ
thể các nhà đầu tư nước ngoài ở Singapore được hưởng rất nhiều ưu đãi:
( Không quốc hữu hoá các xí nghiệp nước ngoài, miễn thuế 5 năm cho các
ngành công nghiệp mũi nhọn, miễn thuế lãi suất tín dụng, thuế quảng cáo.
Trong quá trình kinh doanh nếu bị thua lỗ thì không phải nộp thuế trong 3
năm và có thể kéo dài thời hạn miễn thuế nếu tiếp tục bị lỗ.
( Đối với các cá nhân nước ngoài: không phân biệt quyền sở hữu kinh doanh
giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư bản xứ, các nhà đầu tư nước
ngoài được tự do chuyển đổi tiền tệ và chuyển vốn lợi nhuận về nước, được
thuê mướn người nước ngoài vào Singapore để vận hành máy móc thiết bị
của mình, được miễn thuế khi vay vốn nước ngoài, miễn thuế nhập khẩu bản
quyền và bằng phát minh sáng chế, miễn thuế đầu tư vào nghiên cứu khoa
học và đào tạo tay nghề và nâng cấp công nghệ, có thể không bị đánh thuế
với những nguyên liệu, thiết bị không có sẵn ở Singapore.
( Đồng thời chính phủ cũng có chính sách khuyến khích đối với các nhà tư
bản công nghiệp và chuyên gia kỹ thuật nước ngoài, đó là nếu họ có vốn đầu
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
tư đạt 125.000 $ thì sẽ được hưởng chế độ nhập cảnh, cư trú dễ dàng và nếu
sau 5 năm tiếp tục đầu tư sẽ có quyền cư trú vĩnh viễn cùng cả gia đình. Nếu
số vốn đã đầu tư vào công nghệ chế biến, chế tạo thì sẽ được hưởng ngay
quyền cư trú vĩnh viễn. Các kỹ sư, chuyên gia, công nhân có tay nghề cao
được phép tự do nhập cư và làm việc lâu dài tại Singapore.
( Ngoài ra nhà nước còn có chính sách miễn thuế : đối với những dự án có số
vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở lên miễn thuế từ 5 đến 10 năm, với những
dự
án
có số vốn đầu tư dưới 1 triệu USD nhưng sản phẩm làm ra có chất lượng

cao cũng được miễn thuế. Những xí nghiệp như thế này có thể được nhà
nước cho vay vốn với lãi suất thấp hoặc nhà nước sẽ mua cổ phần và bảo
hiểm đầu tư. Những xí nghiệp có sản phẩm chủ yếu dành cho xuất khẩu sẽ
được giảm thuế lợi tức, thuế xuất khẩu và hưởng ưu đãi nhiều hơn những xí
nghiệp có sản phẩm phục vụ thị trường nội địa.
Các biện pháp này giúp Singapore có một nguồn vốn đầu tư trực tiếp tăng
nhanh từ 157 triệu đô la Singpore (S$) năm 1960-1965 lên 6,35 tỷ S$ (năm
1979) và đạt tới 19 tỉ S$ (năm 1989). Trong những năm gần đây, chính phủ
Singapore tiếp tục duy trì đa dạng hoá đầu tư trong đó chú trọng tăng cường
quan hệ với các nước trong khu vực châu á- thái bình dương trong đó có
Việt Nam vì các nước trong khu vực này là thị trường tiêu thụ lớn, tiềm năng
phát triển kinh tế cao, tài nguyên phong phú, lao động rẻ…
-Thứ 3:Phát triển kết cấu hạ tầng toàn diện:
Trước hết, chính phủ Singapore quan tâm đến phát triển kết cấu hạ tầng kỹ
thuật hiện đại như: xây dựng các khu công nghiệp, kho bãi nhà
xưởng,
đường
sá, bến bãi… để thu hút đầu tư. Xuất phát từ lí do quỹ đất có hạn nên
buộc chính phủ Singapore phải tiến hành quy hoạch đô thị và quản lý đất
đai. Ngay từ thập kỷ 60-70 chính phủ Singapore đã thực hiện chính sách
trưng thu đất trong diện quy hoạch và bồi thường chủ đất bằng tiền hoặc
bằng đất. ở giai đoạn sau chính phủ mua lại đất với giá thị trường.
Đi đôi với phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật là phát triển kết cấu hạ tầng xã
hội trong đó đặt giáo dục đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng kỹ thuật lên
hàng đầu. Bởi vì nhân lực là nguồn có sẵn duy nhất ở Singapore. Do vậy
chính phủ đã chủ trương giáo dục hướng nghiệp ngay từ đầu bên cạnh việc
giáo dục kiến thức phổ thông. Ngoài ra chính phủ thường xuyên cải cách bộ
máy hành chính, thiết lập hệ thống pháp luật toàn diện, lấy pháp luật làm nền
tảng cho mọi hoạt động, thành lập uỷ ban điều tra các hành vi tham nhũng…
để dần dần nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước.

Các chính sách này nhằm tạo ra một nền kinh tế thị trường tự do. Để hỗ trợ
cho việc theo đuổi nền kinh tế thị trường tự do, chính phủ Singapore đã
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
thành lập hai cơ quan: Hội đồng phát triển thương mại Singapore (STDB) có
chức năng khuyến khích xuất khẩu ra nước ngoài và Hội đồng phát triển
kinh tế Singapore (SEDB) có chức năng thu hút nhiều đầu tư vào Singapore
.
Kết quả: Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, Singapore đã
đạt được những thành tựu kỳ diệu về phát triển kinh tế với mức tăng trưởng
cao liên tục, thể hiện ở bảng sau:
Bảng1 : Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
8,9
6,2
7,8
1,3
5,5
9
Nguồn: Vụ Châu á II- Bộ Ngoại Giao
Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu

vực tốc độ tăng trưởng GDP của Singapore chỉ còn 1,3% song các năm sau
lại có dấu hiệu phục hồi lại. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng của Singapore
cao nhất (9,0%) tuy vậy năm 1996 đánh dấu mốc quan trọng đối với
Singapore, Singapore là quốc gia đầu tiên ở khu vực đông nam á được
OECD xếp vào hàng ngũ các nước phát triển.
Singapore cũng đã giải quyết được nạn thất nghiệp giảm từ 3,9%(năm 1987)
xuống còn 1,9%(năm 1993), đây có thể được coi là một cố gắng lớn của
Singapore. Đồng thời Singapore nhanh chóng biến từ một nền kinh tế thu
nhập chủ yếu dựa vào buôn bán chuyển khẩu sang nền kinh tế có nền công
nghiệp chế biến chế tạo phát triển cao, tạo ra sản phẩm để xuất khẩu, từ đó
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
tăng nhanh nguồn vốn tích luỹ cho đầu tư và cùng với một hệ thống dịch vụ
thương mại tài chính và du lịch hấp dẫn, mở đường cho Singpore trở thành
thành viên của NIES châu á vào đầu những năm 80s và là một trong bốn con
rồng của khu vực.
2. Kinh tế của Việt Nam
Việt Nam cũng là một nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Tuy giành
lại được độc lập từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhưng phải trải qua 30 năm
kháng chiến đến năm 1975 mới được giải phóng hoàn toàn. Sau khi đất nước
hoàn toàn độc lập, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại không
chỉ với các nước xã hội chủ nghĩa mà còn với các nước tư bản chủ nghĩa và
các nước trong khu vực. Song do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp,
chiến tranh tàn phá cộng với việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp cùng với các chính sách phát triển kinh tế sai lầm, nóng vội làm sản
xuất trong nước tăng chậm. Kế hoạch 5 năm (1976-1980) phần lớn các chỉ
tiêu đều không đạt. Tăng trưởng chỉ đạt 0,4% trong khi tỷ lệ tăng dân số
hàng năm trên 2,3%. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980

phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Lưu thông hàng hoá bị đình đốn dẫn
đến giá cả tăng nhanh lạm phát có nguy cơ ngày càng trầm trọng: đầu năm
1980 tăng khoảng 30-50% hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2% và siêu
lạm phát lên đến đỉnh điểm vào năm 1986 với 774,7%,, đời sống nhân dân
hết sức khó khăn. Thêm vào đó là chính sách cấm vận của Mỹ duy trì trong
thời gian này đã hạn chế quan hệ kinh tế của Việt Nam.Từ năm 1976 kim
nghạch xuất nhập khẩu có tăng nhưng không đáng kể so với thời gian trước,
luôn trong tình trạng nhập siêu. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời
kỳ này rất hạn chế, chủ yếu là các khoản vay không lãi suất hoặc các khoản
viện trợ không hoàn lại của các cơ quan liên hiệp quốc, các tổ chức phi
chính phủ…và kết quả của chính sách đóng cửa nền kinh tế là đến năm 1985
kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1986 đã
đưa ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Nội dung chủ yếu là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ
chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và nhà nước ta là:
- Mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở bình đẳng hai bên cùng
có lợi để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh đồng thời giữ vững nguyên
tắc: bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
công việc nội bộ của nhau, đảm bảo sự phát triển của đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Khắc phục tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế,
từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được điều này,
chúng ta phải thực hiện thông qua nhiều kênh, kênh quan trọng nhất là ngoại

thương. Đồng thời phải có chính sách thu hút mạnh mẽ đầu tư của các công
ty nước ngoài, áp dụng chính sách thị trường tự do, từng bước đưa giá cả
trong nước gắn với giá cả của thị trường thế giới.
- Mở rộng sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự
quản lý thống nhất của nhà nước. Nhà nước chỉ quản lý để tránh các hành
động tiêu cực: buôn bán trái phép, trốn lậu thuế… còn tất cả các thành phần
kinh tế đều được tự do tham gia kinh doanh. Điều này giúp nâng cao tính
cạnh tranh của nền kinh tế, không còn độc quyền ngoại thương và buộc các
doanh nghiệp phải năng động hơn, nhạy bén hơn và tất yếu điều này sẽ đem
lại hiệu quả cao hơn.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế trong hoạt động ngoại thương: hiệu quả ngoại
thương được hiểu không chỉ là mức lợi nhuận mà còn được hiểu ở mức đóng
góp cho xã hội. Tức là doanh nghiệp phải tìm kiếm lợi nhuận tối ưu chứ
không phải là lợi nhuận tối đa.
- Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ thương mại:
Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác song phương và đa
phương với các nước trên thế giới đặc biệt là tăng cường hợp tác với các
nước láng giềng và các nước trong tổ chức asean trên tinh thần đoàn kết hữu
nghị và hợp tác cùng phát triển.
Các quan điểm chỉ đạo trên là cơ sở cho việc hoạch định chính sách và cơ
chế quản lý trong việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế thương mại, cụ thể
các chính sách đó là:
( Chính sách bảo hộ thương mại: chính phủ thông qua biện pháp thuế quan
hoặc phi thuế quan như: hạn nghạch, quy định về mẫu mã, chất lượng, chế
độ quản lý ngoại tệ để hạn chế hàng nước ngoài xâm nhập, bảo vệ sản xuất
trong nước cũng như thị trường trong nước.
Mặc dù thực hiện chính sách bảo hộ thương mại, song chính phủ Việt Nam
còn thực hiện chính sách thương mại tự do: tức là chính phủ không can thiệp
bằng biên pháp kinh tế hoặc phi kinh tế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu,
cho phép hàng hoá cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, không

thực hiện đặc quyền ưu đãi đối với hàng hoá xuất nhập khẩu nước mình,
không có sự kỳ thị phân biệt với hàng hoá xuất nhập khẩu nước ngoài.
Cơ sở cho chính sách thương mại thời kỳ này là nghị định 64/HĐBT ngày
16/6/1989 của Hội Đồng Bộ Trưởng về chế độ tổ chức, quản lý kinh doanh
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
hoạt động xuất nhập khẩu. Nghị định đã thể hiện những nới lỏng bước đầu
trong cơ chế quản lý ngoại thương, dần dần thực hiện tự do hoá ngoại
thương của chính phủ ta.
Tự do hoá ngoại thương thể hiện:
( Nhà nước cho phép các đơn vị kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
được phép xuất khẩu trực tiếp. Việc cho phép mọi thành phần kinh tế được
phép xuất khẩu trực tiếp là một điều mới mẻ vì trước đây mọi hoạt động xuất
nhập khẩu đều được thực hiện dưới sự quản lý độc quyền của bộ thương
mại.Việc xuất khẩu trực tiếp phải tuân thủ các quy định pháp lý đã ban hành
của nhà nước.
( Tự do hoá một phần nhập khẩu, nhất là nhập khẩu phi mậu dịch đối với
những hàng hoá thiết yếu cho nhu cầu trong nước mà sản xuất nội địa không
đáp ứng kịp.
( Đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu như cấp giấy phép, quota,
kiểm tra hải quan…, thường xuyên có các kế hoạch điều chỉnh hợp lý biểu
thuế xuất nhập khẩu. Thực hiện các chính sách khuyến khích mở rộng thị
trường xuất khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
Đồng thời chủ yếu nhập khẩu máy móc, nguyên nhiên vật liệu (chiếm 91%)
và hàng năm tăng bình quân 25%, hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 9%.
( Tự do hoá tỷ giá hối đoái: thay thế việc nhà nước ấn định cứng nhắc nhiều
tỷ giá hối đoái bằng việc thực hiện tỷ giá thả nổi (được chính thức thực hiện
vào tháng 3/ 1989) đồng thời với việc mở hai trung tâm giao dịch ngoại tệ ở

hà nội và thành phố hồ chí minh tạo điều kiện cho tự do hoá tỷ giá hối đoái,
cho phép tất cả các lực lượng thị trường tham gia xác định tỷ giá. Lãi suất
ngân hàng cũng được đẩy lên cao nhằm chống lạm phát. Nhờ đó tỷ lệ lạm
phát đã giảm từ 400% thời kỳ 1986-1988 xuống còn 5,2% năm 1993(thấp
nhất).
Định hướng trong chiến lược ngoại thương của Việt Nam là:
Thứ nhất:chúng ta xác định phát triển nền kinh tế hàng hoá khắc phục tính
chất tự cung tự cấp, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản
xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế nhập khẩu những mặt
hàng đã được sản xuất có hiệu quả ở Việt Nam , hướng mạnh về xuất khẩu.
Thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu có chọn lọc. Đây là giải
pháp mở cửa nền kinh tế, thu hút các nguồn lực bên ngoài vào để khai thác
tài nguyên và tiềm năng đất nước một cách có hiệu quả.
Thứ hai: coi ngoại thương cùng các quan hệ kinh tế đối ngoại khác không
chỉ là nhân tố hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế quốc dân mà còn được xem là
động lực phát triển kinh tế của đất nước.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Thứ ba: Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên nguyên tắc giữ
vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Để đổi mới thành công, ngoài chính sách thương mại tự do còn phải kể đến
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
Để hấp dẫn được nhiều chủ đầu tư ở các nước trên thế giới đến đầu tư và
hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, nhà nước ta đã áp dụng nhiều
chính sách biện pháp khác nhau nhằm cải thiện môi trường đầu tư, cải cách
thủ tục hành chính như: đa dạng hoá các hình thức đầu tư, đơn giản hoá thủ
tục giấy tờ…. Điều này nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút

đầu tư vào trong nước. Việc thu hút vốn đầu tư được thực hiện dựa trên
nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ. Trong việc thu hút vốn
đầu tư nói chung và vốn đầu tư nước ngoài nói riêng, Đảng và nhà nước ta
xác định rõ vốn trong nước có ý nghĩa quyết định còn vốn nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng. Chính phủ Việt Nam tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư
một cách đồng bộ cả về khung pháp lý và việc thi hành luật pháp. Luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời năm 1987, có hiệu lực từ 1/1998 qua các
lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và gần đây nhất là năm
2000 đã chứng minh điều này. Đây được coi là văn bản pháp lý đầu tiên
đánh dấu sự chuyển hướng thực sự sang chính sách mở cửa theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Luật đầu tư nước ngoài cũng chính là
tiền đề cho các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thể
hiện:
( Các doanh nghiệp có vốn đâù tư nước ngoài không phải nộp thuế nhập
khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu như: thiết bị máy móc, linh kiện đi kèm,
nguyên liệu vật tư nhập khẩu để thực hiện dự án BOT, BTO, BT…
( Nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận, thu nhập của mình ra
nước ngoài sau khi thực hiện các nghĩa vụ về thuế…
Với các chính sách này giúp cho vốn đầu tư vào Việt Nam đặc biệt là vốn
đầu tư trực tiếp FDI ngày một tăng. Tính tới ngày 31/8/2001, chỉ tính các dự
án có hiệu lực thì đã có 2914 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 37.269,789
triệu USD. Đây là một nguồn vốn không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế
Việt Nam.
Kết quả: Thực hiện các chính sách phát triển kinh tế của mình, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu sau:
Thứ nhất: Cơ chế quản lý đã thay đổi căn bản: từ nền kinh tế bao cấp khép
kín đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư doanh…
trong đó kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 60% tổng sản phẩm trong nước,
Phan Thị Toan A8K38C

PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
tuy vậy kinh tế quốc doanh vẫn được chú trọng để giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế.
Thứ hai: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao:
Bảng2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Tốc độ tăng trưởng GDP(%)
9,34
8,12
5,83
4,8
5,5
Nguồn: Tổng cục thống kê, IMF,ADB
Nhờ vào các chính sách đổi mới đúng đắn, trong 5 năm 1991-1995 tổng sản
phẩm trong nước tăng bình quân 8,2%. Năm 1996 tổng sản phẩm quốc dân
tăng 9,34%. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực phát triển
liên tục và vững chắc, mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn lương thực. Sản xuất
công nghiệp tăng bình quân mỗi năm là 13,5%. Lạm phát tiếp tục bị
kiềm
chế
và đẩy lùi. Sản xuất trong nước đã bắt đầu có tích luỹ. Trong 5 năm
1996-2000 chúng ta đã thu hút và sử dụng có hiệu quả khoảng 7 tỉ USD từ
nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) và 13 đến 15 tỉ USD từ nguồn đầu

tư trực tiếp nước ngoài(FDI).
Thứ ba: Đổi mới cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỉ trọng khu vực công nghiệp (chiếm trên 40% trong giai đoạn 1995-
1999) và dịch vụ (khoảng 30%), giảm dần khu vực nông-lâm-ngư nghiệp
(chỉ còn 20%)
Thứ tư: Đẩy nhanh quá trình mở cửa hội nhập. Việt Nam chính thức
trở
thành
thành viên của hiệp hội các nước Đông Nam á (asean) vào 28/7/1995.
Cũng trong năm này, chúng ta thực hiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
với Mỹ. Bên cạnh đó, chúng ta còn nộp đơn gia nhập tổ chức thương mại thế
giới WTO và diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dương.
Tóm lại: Chính sách phát triển kinh tế thương mại của Singapore là “tự do
hoá thương mại với hệ thống pháp luật hoàn thiện cùng hàng loạt chính sách
ưu đãi về thuế và tài chính” còn chính sách phát triển kinh tế thương mại của
Việt Nam là “ tự do trong khuôn khổ pháp luật, tự do có điều tiết của nhà
nước”. Như vậy chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam và Singpore là
tương đối đồng nhất, đều hướng tới thị trường tự do thông qua quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế đóng cửa sang nền kinh tế mở cửa và thu được
những thành tựu khả quan. Đây là một cơ sở giúp cho việc bắt tay giữa 2
nước được thuận lợi và không gặp trở ngại. Đồng thời Singpore là quốc gia
đi trước Việt Nam do vậy Việt Nam có thể học hỏi từ Singpore rất nhiều
trong quá trình hợp tác cùng phát triển.
Chương II:
Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore
I. L ị ch sử phát triển m ố i quan h ệ kinh tế t h ương mạ i giữa Việt Nam và

Singapore
Do một số nguyên nhân khách quan nên trước kia quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Singapore hầu như chưa phát triển. Việt Nam và Singapore bắt
đầu xây dựng mối quan hệ ngoại giao năm 1973. Sự kiện này đã cải thiện
mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore.
Bắt đầu từ những năm 1970s, Singapore thực hiện chiến lược công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu, tăng cường đầu tư ra nước ngoài. Với một quốc gia
hầu như không có nguồn tài nguyên thiên nhiên, thiếu nước sạch và ít đất đai
màu mỡ thì đây là một chiến lược đúng đắn giúp Singapore mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại với các nước khác để khắc phục những nhược điểm trên.
Mặt khác Singapore có thể tận dụng được ưu thế về vị trí địa lý của mình
(một vị trí địa lý chiến lược, là trung tâm vận chuyển hàng hoá đi nơi khác)
để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ. Hiện nay, Singapore là một trong
năm nước sáng lập asean và đã xây dựng hiệp hội thành một tập thể vững
chắc cùng hợp tác phát triển. Singapore cũng tích cực nâng cao vai trò của
nước sáng lập á- âu (ASEM) và diễn đàn Đông á- châu mỹ latinh (EALAF).
Singapore ngày một nâng cao hơn nữa vị trí của mình trên diễn đàn khu vực
và quốc tế.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
ở Việt Nam từ sau khi tiến hành công cuộc cải tổ đổi mới năm 1986, Đảng
và nhà nước ta cũng dần dần thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, bắt
tay với các nước trong khu vực và toàn thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Như vậy có thể nói Singapore và Việt Nam đã gặp nhau tại cùng một điểm
trong chiến lược phát triển kinh tế của mình và nó là một xu thế tất yếu của
thời đại nền kinh tế hướng ngoại.
Chúng ta sẽ điểm qua một số sự kiện nổi bật trong lịch sử phát triển mối

quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore:
Như trên đã nói, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Singapore được thiết
lập từ năm 1973, song do có sự đối đầu giữa hai nhóm nước asean và đông
dương trong thời kỳ chiến tranh lạnh nên mối quan hệ này tiến triển chậm
chạp. Hai nhóm nước asean và đông dương tìm được tiếng nói chung sau sự
kiện lập lại hoà bình ở Campuchia trong thập kỷ 80 và khi tình hình thế giới
đã thay đổi. Chiến tranh lạnh kết thúc tạo cơ hội cho sự trao đổi buôn bán
giữa hai nhóm nước nói chung và giữa Việt Nam –Singapore nói riêng được
thuận lợi hơn.
Sự kiện thứ hai là từ tháng 1 năm 1989 Mỹ đã gạt Singapore ra khỏi danh
sách các nước được hưởng hệ thống ưu đãi chung vì hàng hoá Singapore
thâm nhập mạnh vào thị trường Mỹ làm cho cán cân thương mại Mỹ với
Singapore luôn ở tình trạng nhập siêu. Điều này buộc Singapore phải thực
hiện đa dạng hoá quan hệ ngoại giao, mở rộng với các nước châu á- Thái
bình dương trong đó có Việt Nam .
Như trên đã nói Singapore là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, diện
tích hẹp, dân số ít nên thị trường tiêu thụ nhỏ bé, thiếu lao động. Do vậy đặt
quan hệ với Việt Nam , Singapore tìm kiếm cho mình không chỉ có nguồn
nguyên liệu dồi dào mà còn cả một thị trường lớn (số dân trên 80 tri
ệu
người).
Điều này rất hấp dẫn các nhà đầu tư Singapore. Do vậy Singapore đã
có một chiến lược cụ thể để thâm nhập vào thị trường Việt Nam đồng thời
từng bước cởi bỏ các trở ngại trong quan hệ đầu tư và và thương mại giữa
hai nước. Bên Việt Nam cũng có những ưu đãi đối với thương nhân
Singapore. Điều này thể hiện qua chính sách của hai nước đối với nhau.
Chính sách thương mại đầu tư của Singapore đối với Việt Nam:
- Thương nhân Singapore nhập khẩu hàng Việt Nam không phải nộp thuế
0,5% giá trị hàng nhập khẩu nữa để khuyến khích các doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu hàng hoá sang Singapore. Điều này chính thức được bãi bỏ

sau khi hai nước ký hiệp định thương mại.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
- Tạo điều kiện cho các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam thành lập văn
phòng đại diện tại Singapore và trong 6 tháng năm 1998 công ty xăng dầu
Việt Nam Air Petrol Company thuộc tổng công ty hàng không Việt Nam
thành lập đại diện tại Singapore.
- Đối với hàng nhập từ Việt Nam vào Singapore, Singapore cho các thương
nhân Việt Nam hưởng ưu đãi về điều kiện thanh toán, ra vào cảng thuận tiện
(vì cảng Singapore là cảng tự do). Hơn nữa hệ thống thuế nhập khẩu của
Singapore rất thấp. Hầu hết các mặt hàng (98%) được miễn thuế hoàn toàn.
Chính sách ưu đãi này đã góp phần đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai
nước.
- Thủ tục visa vào Singapore dễ dàng, thời gian làm thủ tục giảm từ 3 tuần
xuống còn 1 tuần, trong đó quy định quá cảnh 36h không cần xin visa. Vì
vậy hàng hoá Việt Nam vào Singapore không gặp trở ngại vì phải chờ đợi
lâu.
- Để hỗ trợ các nhà đầu tư Singapore vào Việt Nam, tháng 12/1991 cơ quan
quản lý tiền tệ Singapore (MAS) tuyên bố bãi bỏ cấm vận đầu tư đối với
Việt Nam. Công ty Việt Nam hoặc công ty Singapore tại Việt Nam được vay
vốn để kinh doanh. Đồng thời các nhà đầu tư được quyền tự do đầu tư vốn
của mình vào tất cả các hình thức cũng như lĩnh vực kinh doanh. Mục tiêu là
để tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực rẻ.
Chính sách thương mại đầu tư của Việt Nam đối với Singapore:
- Dần dần cắt giảm thuế còn 0-5% đối với các hàng hoá buôn bán thuộc
nghành chế tạo, tư liệu sản xuất, chế biến nông sản.
- Để khuyến khích các nhà đầu tư Singapore đầu tư tại Việt Nam, chính phủ
Việt Nam cho phép nhà đầu tư Singapore có thể đầu tư dưới mọi hình t

hứ
c:

nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100%vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh
doanh…đối xử công bằng đối với doanh nghiệp Singapore cũng như doanh
nghiệp trong nước. Trong quá trình đầu tư, vốn và tài sản của họ sẽ không bị
trưng thu, tịch thu. Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không bị quốc
hữu hoá. Họ được chuyển lợi nhuận về nước, khi chuyển chỉ phải nộp một
khoản thuế từ 5-10% số tiền chuyển về nước đó. Cơ quan nhà nước quản lý
đầu tư nước ngoài có thể miễn hoặc giảm mức thuế này cho những trường
hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư.
- Nhà đầu tư Singapore làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được phép chuyển thu nhập về nước sau khi nộp thuế thu nhập theo
luật định. Các nhà đầu tư nước ngoài Singapore chỉ phải nộp thuế lợi tức từ
15-25% số lợi nhuận thu được. Đây là con số nhỏ hơn nhiều so với các nước
khác, ví dụ: trung quốc là 31%.
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Trong trường hợp tổ chức cá nhân Singapore dùng lợi nhuận thu được để tái
đầu tư thì cơ quan thuế hoàn lại phần thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái
đầu tư với các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư. Mức hoàn thuế có
thể
là 50%, 70%, 100%.
Đặc biệt nhà nước Việt Nam cho phép mọi thành phần kinh tế: bệnh viện,
trường học, viện nghiên cứu… hợp tác đầu tư với Singapore.
Để tiến hành các hoạt động thương mại đầu tư được dễ dàng, hai nước đã ký
kết với nhau các hiệp định. Đây cũng chính là cơ sỏ pháp lý cho các hoạt
động thương mại đầu tư giữa 2 nước trong đó tiêu biểu là 7 hiệp định sau:

- Hiệp định hàng hải thương mại (16/4/1992): 2 nước giành cho nhau quy
chế tối huệ quốc trong quan hệ hàng hải.
- Hiệp định về vận chuyển hàng không (20/4/1992): nhằm thúc đẩy buôn
bán, du lịch và đầu tư giữa hai nước. Trước đó ngày 18/2/1992 hãng hàng
không Việt Nam mở đường bay đi Singapore.Tiếp đó 28/2/1992 và 6/5/1992
hãng hàng không Singapore mở đường bay đi thành phố hồ chí minh và hà
nội..
- hiệp định thương mại 24/9/1992: ký kết trong chuyến thăm Singapore của
bộ trưởng thương mại và du lịch Việt Nam Lê Văn Triết theo lời mời của bộ
trưởng bộ công nghiệp và thương mại Singapore.
- Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký ngày 29/10/1992 sau khi
Singapore mở sứ quán tại Việt Nam ngày 1/10/1992.
- Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường
(14/5/1993)
- Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (3/1994)
- Hiệp định hợp tác về du lịch (23/8-27/8/1994) ký kết nhân chuyến thăm
của Đoàn đại biểu tổng cục du lịch Việt Nam do tổng cục trưởng Đỗ Quang
Trung dẫn đầu thăm Singapore theo lời mời của Cục xúc tiến du lịch
Singapore (STPB).
Để thể hiện thiện chí của chính phủ và nhân dân hai nước, đã có hàng loạt
chuyến thăm hữu nghị của các quan chức lãnh đạo hai nước:
Trong chuyến thăm chính thức của thủ tướng Phạm Văn Đồng đến
Singapore năm 1978, hai bên đã nhấn mạnh các nguyên tắc chỉ đạo trong
mối quan hệ hai nước. Tháng 11 năm 1991, thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm
chính thức cộng hoà Singapore. Sau chuyến thăm này, bộ trưởng ngoại giao
Singapore tuyên bố “ Singapore mong muốn Việt Nam phát triển và thịnh
vượng. Quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa hai nước là rộng lớn. Singapore
bằng mọi cách sẽ hợp tác giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam.
Singapore ủng hộ Việt Nam tham gia hiệp ước Bali.”
Phan Thị Toan A8K38C

PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Cộng hoà Singapore cũng có hàng loạt chuyến thăm chính thức Việt Nam
vào tháng 4 năm 1992, tháng 11/1993, tháng 3/1994. Thủ tướng Singapore
Goh Chok Tong phát biểu tại Hà Nội sau khi kết thúc chuyến thăm Việt
Nam tháng 3 năm 1994 “ Thông qua asean và arf, mối quan hệ giữa hai nước
không chỉ được mở rộng mà còn trở nên sâu sắc hơn. Hai nước có thể cùng
nhau hợp tác để bảo vệ nền an ninh ở Đông Nam á”.
Ngoài ra Việt Nam và Singapore đã tham gia các hội nghị cấp cao chính
thức và không chính thức của hiệp hội các nước đông nam á tổ chức hàng
năm. Tại đây hai quốc gia cùng gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm và thúc đẩy
quan hệ giữa hai nước thêm bền chặt.
Sự kiện Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam đầu năm 1994 và sự kiện Việt
Nam chính thức gia nhập hiệp hội các nước đông nam á cũng có tác dụng
kích thích phát triển quan hệ hai nước. Đầu tư của Singapore vào Việt Nam
tăng nhanh đặc biệt Singapore dẫn đầu danh sách đầu tư trực tiếp (FDI) ở
Việt Nam năm 1996.
Trong cuộc gặp gần đây nhất (3/3/2003), thủ tướng Phan Văn Khải và thủ
tướng Goh Chok Tong đã thảo thuận các biện pháp nâng cao hợp tác và hữu
nghị giữa hai quốc gia trong những năm tới, hợp tác phát triển hơn nữa trong
lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực
… Singapore hứa tiếp tục giúp Việt Nam trong các lĩnh vực này đặc biệt là
công nghệ thông tin. Do vậy mối quan hệ thương mại giữa hai nước Việt
Nam và Singapore theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét thực trạng mối quan hệ ấy để minh chứng cho
nỗ lực của hai chính phủ trong những năm qua.
II. Thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Singapore
Mặc dù quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam– Singapore hình

thành chưa lâu song quan hệ ấy phát triển mạnh cả về kim nghạch xuất nhập
khẩu và cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu.
1.1Kim nghạch xuất nhập khẩu
Chúng ta sẽ tham khảo bảng 3
Bảng 3: Kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Singapore
Phan Thị Toan A8K38C
PAGE _1_
_
Trường Đại Học Ngoại Thương Khoá Luận Tốt Nghiệp
Đơn vị: triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng kim nghạch
Nhập siêu
1991
428,0
722,2
1150,2
294,2
1992
510,3
867,8
1378,1
357,5
1993
380,3
1058,3
1438,6
678,0

1994
592,8
1170,7
1763,5
577,9
1995
678,8
1425,2
2104,0
746,4
1996

×