Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước giải pháp hữu hiệu đưa luật cạnh tranh vào cuộc sống 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.19 KB, 54 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội

1

Khố luận tốt nghiệp

PhÇn më đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Công cuộc đổi mới kinh tế ở nớc ta đợc khởi đầu bằng Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) với việc thừa nhận kinh tế nhiều thành phần và
chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trờng ®Þnh híng x· héi chđ
nghÜa. Tuy vËy nỊn kinh tÕ thị trờng luôn tiềm ẩn trong nó những phức tạp,đòi
hỏi nhất định. Chấp nhận chuyển sang nền kinh tế thị trờng là chấp nhận sự điều
tiết thị trờng bằng những quy luật của nó - một điều rất xa lạ víi nỊn kinh tÕ tËp
trung quan liªu bao cÊp tríc đó. Các quy luật nh: quy luật cung cầu, quy luật giá
trị, quy luật cạnh tranh ... đà trở thành những bàn tay vô hình tác động, điều
chỉnh các hoạt ®éng kinh tÕ thÞ trêng. NỊn kinh tÕ thÞ trêng mà ở đó lợi nhuận và
hiệu quả đợc xem là mục tiêu, điều kiện đồng thời là lý do tồn tại hay không tồn
tại của doanh nghiệp. Do đó, cạnh tranh cịng xt hiƯn nh mét hiƯn tỵng phỉ
biÕn mang tính tất yếu trên thị trờng. Nó diễn ra trên mọi mặt của đời sống kinh
tế và trở thành yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp buộc phải quan tâm.
Từ năm 1995, với việc tham gia ASEAN, nớc ta bắt đầu tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế một cách toàn diện và ngày càng sâu rộng hơn đánh dấu
bằng việc tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dơng (APEC), ký
kết hiệp định thơng mại Việt Nam Hoa Kỳ (BTA) và mới đây là việc gia nhập
Tổ chức Thơng mại Thế giới (WTO). Quá trình này đà làm thay đổi một cách cơ
bản vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế .
Đối xử bình đẳng giữa các nớc bạn hàng, giữa doanh nghiƯp trong níc vµ
doanh nghiƯp níc ngoµi lµ mét trong những cam kết cơ bản trong AFTA, APEC,
BTA và WTO. Các cam kết sẽ tăng thêm sức ép cạnh tranh với hàng hoá nhập
khẩu, với doanh nghiệp nớc ngoài hoạt động trong và ngoài lÃmh thổ Việt Nam.


Điều này sẽ đặt các doanh nghiệp trong nớc cũng nh toàn bộ nền kinh tế trớc
những thách thức cạnh tranh với các doanh nghiệp nớc ngoài. Tuy nhiên, thể chế
pháp lý ở nớc ta lúc này vẫn còn nhiều bất cập trong việc đảm bảo cạnh tranh
lành mạnh và kiểm soát ®éc qun trong kinh doanh, ®ang h¹n chÕ doanh nghiƯp
tham gia thị trờng và cạnh tranh. Để doanh nghiệp trong nớc chuẩn bị cho quá
trình hội nhập, bớc vào cạnh tranh quốc tế gay gắt khi các cam kết quốc tế có
hiệu lực đầy đủ, nhà nớc ta cần xây dựng chính sách cạnh tranh để tạo ra và duy
trì môi trờng cạnh tranh tích cực trên thị trờng trong nớc.
Đứng trớc những đòi hỏi cấp bách đó, tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khoá
XI ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh đợc thông qua sau 14 lần chỉnh sửa. Có thÓ


Trường Đại học Luật Hà Nội

2

Khoá luận tốt nghiệp

nãi, sù ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 đà đánh dấu một bớc ngoặt quan trọng
trong đời sống kinh tế xà hội, trở thành công cụ điều chỉnh các hoạt động
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trờng. Có ngời ®· nhËn xÐt, sù ra ®êi cđa
Lt C¹nh tranh 2004 chứng tỏ lỗ hổng cuối cùng trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trờng đà đợc khắc phục.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn là những doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực kinh tế cha đủ mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị trờng còn hạn chế. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu
của Nhà nớc, ỷ lại vào Nhà nớc, tỏ ra kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa thì
những yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ hơn, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhà nớc (DNNN). Đây là một thực tế khó khăn trong
việc đa các quy định của Luật Cạnh tranh vào cuộc sống.

Vậy làm thế nào để chính sách cạnh tranh đợc thực thi một cách có hiệu
quả, tạo cạnh tranh năng động trên thị trờng? Một trong những vấn đề đặt ra là
phải tiến hành cải cách DNNN.Từ lâu, cải cách DNNN là mối quan tâm của
Đảng và nhà nớc ta với nhiều giải pháp đợc thực hiện trong từng thời kỳ khác
nhau. Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế xà hội cđa níc ta trong thËp kû võa
qua cho thÊy: Cỉ phần hoá (CPH) là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nớc ta
trong giai đoạn hiện nay. CPH là giải pháp tối u cho quá trình sắp xếp, đổi mới,
nâng câo hiệu quả của DNNN, là giải pháp tạo ra môi trờng cạnh tranh lành
mạnh, năng động, bình đẳng qua đó giúp thực thi có hiệu quả những quy định
của Luật Cạnh tranh (2004).
Với mục đích tìm hiểu một cách toàn diện về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh
và ảnh hởng của tiến trình CPH DNNN đối với việc đa Luật Cạnh tranh vào cuộc
sống, ngời viết đà chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt
nghiệp, khoá học 2003 2007.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây có một số bài viết, công trình nghiên cứu khoa học tập
trung nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của cạnh tranh nói riêng và CPH
DNNN nói chung. Mỗi công trình khoa học có mục đích nghiên cứu khác nhau,
do vậy cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu cũng khác nhau. Nhng cha có đề tài
nào tập trung nghiên cứu CPH DNNN trên phơng diện nh một giải pháp thực thi
Luật Cạnh tranh trong cuộc sống. Vì vậy, nội dung, phạm vi nghiên cứu đề tài
này không trùng lặp với các công trình đà đợc nghiên cứu trớc đó.
1. Phạm vi và mục đích nghiên cứu:


Trường Đại học Luật Hà Nội
-

-


3

Khố luận tốt nghiệp

-Ph¹m vi nghiên cứu: Nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về cạnh tranh, từ
đó khẳng định sự cần thiết của việc CPH DNNN đối với quá trình thực thi có
hiệu quả Luật Cạnh tranh. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn cạnh tranh và CPH
DNNN, chỉ ra những kết quả đà đạt đợc, những điểm còn hạn chế và cần khắc
phục.
-Mục đích nghiên cứu: Đi sâu nghiên cứu tình hình cạnh tranh, t×nh h×nh CPH
DNNN ë ViƯt Nam hiƯn nay, qua đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa chính
sách cạnh tranh và chính sách về CPH DNNN .Chỉ ra vai trò của CPH DNNN
đối với quá trình đa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống. Đánh giá đúng tính chất,
thực trạng cạnh tranh trên thị trờng Việt Nam và sự cần thiết của CPH DNNN
trong việc tạo ra môi trờng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Từ đó kết hợp với
cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH
DNNN nhằm thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh.


Trường Đại học Luật Hà Nội

4

Khố luận tốt nghiệp

2. Ph¬ng pháp nghiên cứu:
Đề tài này đợc ngời viết nghiên cứu theo phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng và
Nhà nớc ta trong việc xây dựng và thực thi pháp luật kinh tế nói chung trong đó
co pháp luật cạnh tranh.

Ngoài ra đề tài cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn đ ợc
các nhà nghiên cứu đi trớc đà đa ra, những tài liệu đà đợc công bố trên những tạp
chí, bài viết, bài báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành, các cơ quan từ
hoạt động đến thực tiễn.
Ngời viết đà sử dụng những phơng pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích,
chứng minh, so sánh, tổng hợp, thống kê, quy nạpđể rút ra những kết luậnđể rút ra những kết luận
khoa học của mình.
3. Cơ cấu luận văn:
Luận văn bao gồm: Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và 3 chơng:
Chơng I : Cơ sở lý luận của cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc
Chơng II: Thực trạng về cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chơng III: Một số đề xuất đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nớc nhằm thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh.
Trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành khoá luận này, ngời viết đÃ
có nhiều cố gắng làm việc một cách nghiêm túc. Nhng do đây là lần đầu tiên tìm
hiểu, làm quen với chủ đề này, nên khó tránh khỏi những bỡ ngỡ và thiếu sót.
Rất mong nhận đợc sự quan tâm, đóng góp ý kiến của quý thầy cô, bạn bè và
những ai quan tâm tới vấn đề này để đề tài đợc hoàn thiện sâu sắc hơn trong
thời gian tới.
Xin trân trọng cảm ơn !


Trường Đại học Luật Hà Nội

5

Khố luận tốt nghiệp

Ch¬ng I

C¬ sở lý luận của cạnh tranh và
Cổ PHần hoá doanh nghiệp Nhà Nớc
I. Khái quát chung về cạnh tranh và CPH DNNN
1. Cạnh tranh - động lực thúc đẩy nền kinh tế thị trờng :
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trờng sẽ làm thay đổi về căn bản vai trò của Nhà nớc trong thị trờng. Có
những điều đợc coi là hiển nhiên trong nền kinh tế kế hoạch hoá đà trở nên
không phù hợp với nền kinh tế thị trờng và ngợc lại, có điều không đợc chấp
nhận trong kinh tế tập trung lại thích hợp trong kinh tế thị trờng - cạnh tranh là
một trong những phạm trù nh vậy.
Nền kinh tế thị trờng hiểu một cách đơn giản nhất là nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trờng. ở đó, sản xuất cái gì, nh thế nào, cho ai đợc giải quyết do
yêu cầu khách quan của thị trờng. Cơ chế thị trờng đợc hiểu là tổng thể các nhân
tố cơ bản vận động dới sự chi phối của các quy luật thị trờng trong môi trờng
cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Cạnh tranh là một trong những đặc trng cơ
bản của cơ chế thị trờng. Không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trờng.
Chính vì vậy, nền kinh tế thị trờng khi vận hành cũng phải tuân theo những quy
luật khách quan riêng của mình, đó là quy luật cạnh tranh .
1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cho đến nay, về mặt kinh tế đa số các quốc gia trên thế giới ®Ịu ®i theo
con ®êng kinh tÕ thÞ trêng. Thõa nhËn với nền kinh tế thị trờng cũng đồng nghĩa
với việc thừa nhận các quy luật của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh là quy
luật chi phối mạnh mẽ nhất mọi hoạt động của nền kinh tế thị trờn. Nhận thức đợc quy luật cạnh tranh, những vấn đề liên quan đến cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trờng là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với Nhà nớc chủ thể có nhiệm
vụ điều tiết nền kinh tế thị trờng, đối với các thành phần trong nền kinh tế thị trờng với t cách là các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình cạnh tranh. Trong
kinh tế thị trờng, cạnh tranh là sự sống còn của doanh nghiệp.
Về mặt thuật ngữ, cạnh tranh (compete. đgt) tên tiếng anh (competition) đợc
hiểu là sự tranh đua đẻ giành u thế về phía mình trong một lĩnh vực nào đó.Theo
cuôn từ điển Kinh doanh, xuất bản năm 1992 ở Anh, cạnh tranh trong cơ chế thị
trờng đợc định nghĩa nh sau: ''Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các

nhà kinh doanh trên thị trờng nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản
xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình''.Theo từ điển Cornu của Pháp,
thì cạnh tranh (concurrence) đợc hiểu là ''chạy ®ua trong kinh tÕ, hµnh vi cđa


Trường Đại học Luật Hà Nội

6

Khố luận tốt nghiệp

c¸c doanh nghiệp độc lập với nhau là đối thủ của nhau cung ứng hàng hoá, dịch
vụ, nhằm làm thoả mÃn nhu cầu giống nhau vối sự may rủi của mỗi bên,thể hiện
qua việc lôi kéo đợc họăc để mầt đi một lợng khách hàng thờng xuyên''. ''Chạy
đua trên thị trờng mà cấu trúc và sự vận hành của thị trờng đó đáp ứng các điều
kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung cấp vối bên kia là
những ngời sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hoá họăc dịch vụ:các hàng hoá và dịch
vụ này đợc tự do tiếp cận trong điều kiện các quyết định kinh doanh phải là hệ
quả của áp lc hoặc do nhữnh u đÃi do pháp luật mang lại''[15, tr. 11].Trong Từ
điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh là ''hoạt động tranh đua giữa những ngời
sản xuât hàng hoá, giữa các thơng nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế
thị trờng, chi phối bổi quan hệ cung cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất,
tiêu thụ và thị trờng có lội nhất...''[14, tr. 375] . Có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về cạnh tranh, song nhìn chung dới góc độ kinh tế, cạnh tranh đợc hiểu là
sự chạy đua hay ganh đua của các thành viên của một thị trờng hàng hoá, sản
phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng,
thị trờng và thị phần của một thị trờng cụ thể [22].
Cạnh tranh là hiện tợng gắn liền với kinh tế thị trờng. Với t cách là động
lực phát triển nội tại của nền kinh tế, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại dới
những tiền đề kinh tế và pháp lý nhất định mà những tiền đề đó chỉ có thể có

trong điều kiện kinh tế thị trờng. Về phơng diện kinh tế, cạnh tranh đợc hình
thành trên cơ sở tiền đề là có sự tham gia của các thành viên thơng trờng, có
cuộc đua chạy mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và chúng đều diễn ra trên
một thị trờng hàng hoá cụ thể. Ví dụ: vì mục tiêu lợi nhuận, doanh số hoặc thị
phần. Xét về phơng diện pháp lý, cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong điều kiện
pháp luật thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do
thơng mại và theo ®ã lµ sù tù do kinh doanh vµ qun tù chủ của các nhân đợc
hình thành và đảm bảo.
Trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh, các tín hiệu giá cả, lợi nhuận tạo
ra sự kích thích để các doanh nghiệp chuyển nguồn lực từ nơi tạo ra giá trị thấp
hơn sang nơi giá trị cao hơn. [16, tr. 17].
1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng
Cạnh tranh có thể đa đến lợi ích cho ngời này và thiệt hại cho ngời khác,
song xét dới góc độ toàn xà hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Đối với xÃ
hội, cạnh tranh là động lực quan träng nhÊt ®Ĩ huy ®éng ngn lùc cđa x· hội
vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực
sản xuất của toàn xà hội. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức
năng quan trọng nh: đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu; hớng dẫn việc sử


Trường Đại học Luật Hà Nội

7

Khố luận tốt nghiệp

dơng c¸c nhân tố vào sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất, tạo môi trờng
thuận lợi để sản xuất thích ứng với mọi sự biến động của nhu cầu và công nghệ
sản xuất, cạnh tranh tác động tích cực đến sự phân phối thu nhập. Tầm quan
trọng của những chức năng này có thể thay đổi theo từng thời kỳ. ở mỗi thời kỳ

khác nhau, tuỳ theo việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi chức năng, ngời ta
xây dựng mô hình chính sách cạnh tranh khác nhau.
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trờng: khi một cung
hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những ngời bán làm cho giá cả thị
trờng giảm xuống, chỉ những chủ cơ sở kinh doanh kinh doanh nào đủ khả năng
cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phơng thức quản lý và hạ đợc giá bán sản
phẩm mới có thể tồn tại đợc. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng
kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi một cung hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá sẽ trở nên khan
hiếm trên thị trờng, giá cả tăng tạo nên lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi
đó, ngời kinh doanh sẽ đầu t vốn, xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng
cao năng lực sản xuất trong toàn xà hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn
toàn tự nhiên, không theo và không cần theo bất kỳ một mệnh lệnh hành chính
nào của cơ quan hành chính Nhà nớc.
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến việc cải
tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phơng thức quản lý nhằm nâng cao chất lợng
sản phẩm, hạ giá thành, và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá.
Trong điều kiện của cơ chế thị trờng, mức độ của cạnh tranh đà trở lên gay
gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình luôn phải tính toán để vợt lên trên
các đối thủ cạnh tranh của mình. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh có khả năng tạo
sức ép để chống trì trệ, khắc phục suy thoái và buộc các doanh nghiệp phải kinh
doanh có hiệu quả [22].
Trong cạnh tranh, tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm
ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị thua lỗ, thậm chí phá sản. Đối với xÃ
hội, phá sản doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực, vì các nguồn
lực của xà hội đợc chuyển sang cho các nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng
một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn
mà là sự huỷ diệt sáng tạo [16, tr. 34]. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu
quả còn gây ra nhiều lÃng phí cho xà hội hơn là phá sản. Qua đây ta thấy, cạnh
tranh làm cho nền kinh tế luôn có khả năng cơ cấu lại một cách năng động.

Tóm lại, cạnh tranh là động lực thúc đẩy ®ỉi míi vµ theo kinh tÕ häc
Adam Smith gäi lµ bàn tay vô hình


Trường Đại học Luật Hà Nội

8

Khố luận tốt nghiệp

2. Kh¸i qu¸t chung vỊ CPH DNNN
2.1. Kh¸i niƯm CPH DNNN
2.1.1. Kh¸i niệm DNNN
DNNN đợc định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ë c¸c níc kh¸c nhau do
c¸ch tiÕp cËn kh¸c nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê
với mục đích khác nhau. Một số nớc thống kê DNNN có thể liệt kê cả những tổ
chức nghiên cứu mà không hoạt động thơng mại. Trong khi đó, có những quốc
gia khi thống kê DNNN lại bỏ qua những DNNN do chính quyền địa phơng
quản lý. Tuy nhiên, đa số các nớc đều có những điểm chung khi nói đến DNNN
- Đó là vấn đề sở hữu của Nhà nớc.
Định nghĩa DNNN đợc sử dụng khá phổ biến là định nghĩa trong Báo cáo
của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNIDO). Theo UNIDO, DNNN đợc định
nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nớc hoặc do Nhà nớc kiểm soát,
có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định
nghĩa này, DNNN bao gồm các doanh nghiệp mà Nhà nớc giữ phần lớn cổ phần
và cả những doanh nghiệp tuy Nhà nớc không giữ phần lớn cổ phần song do sự
phân tán của cổ đông mà Nhà nớc nắm giữ quyền chi phối, các doanh nghiệp
hoàn toàn thuộc sự quản lý của các bộ ngành.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều
thời kỳ tơng ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu Nhà nớc, thay đổi

trong cơ chế quản lý kinh tế. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng và
để DNNN hoạt động có hiệu quả hơn, năm 1995, Nhà nớc ta đà ban hành Luật
DNNN, thể chế hoá nhiều quan điểm mới về loại hình doanh nghiệp này.
Luật DNNN 1995 định nghĩa DNNN nh sau: “DNNN lµ tỉ chøc kinh tÕ
do Nhµ nớc đầu t vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xà hội do Nhà nớc giao,
DNNN có t cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp
quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính chính trên lÃnh
thổ Việt Nam
Khái niệm DNNN đợc phát triển tơng đối sâu trong định nghĩa và các quy
định của Luật DNNN 2003. Điều 1 Luật DNNN 2003 quy định: DNNN là
tổ chức kinh tế do Nhà nớc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp
chi phối, đợc tổ chức dới hình thức Công ty Nhà nớc, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn.
Đến Luật Doanh nghiệp 2005 thì DNNN đợc định nghĩa nh sau: DNNN
là doanh nghiệp trong đó Nhà nớc sở hữu trên 50% vốn điều lệ [ K22 - Điều 4]


Trường Đại học Luật Hà Nội

9

Khoá luận tốt nghiệp

Nh vËy, Luật DNNN 2003 và Luật Doanh nghiệp 2005 đà đa dạng hoá các
DNNN trên tiêu chí quyền chi phối chứ không phải tiêu chí sở hữu trớc đây.
2.1.2. Khái niệm và bản chất của CPH DNNN
CPH DNNN bắt đầu thực hiện thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện chơng trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990 của

Hội đồng Bộ trởng và sau đó đợc thực hiện với quy mô rộng hơn. Thực ra, việc
CPH đợc đề cập từ những năm 1987, song thực tế lúc đó cha cho phép triển khai
giải pháp này. Bởi ở nớc ta vào thời điểm này vẫn tồn tại nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế Nhà níc vµ kinh tÕ
tËp thĨ. ViƯc chun sang nỊn kinh tế thị trờng đợc Đại hội Đảng lần thứ VI
(12/1986) khởi xớng đà tạo ra những điều kiện, tiền đề để cải cách triệt để vì nó
giải quyết đợc căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức, quản lý và hoạt
động của DNNN, đó là vấn đề sở hữu. CPH doanh nghiƯp chÊp nhËn sù dung hoµ
cđa nhiỊu thµnh phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vi
mô mà trớc hết là trong các doanh nghiệp. CPH DNNN là giải pháp làm thay đổi
kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trớc đổi mới ít ai dám nghĩ đến.
Xét ở khía cạnh chính trị: CPH DNNN không nhằm mục tiêu t nhân hoá
nền kinh tế, mặc dù CPH có chứa đựng yếu tố t nhân hoá. CPH đợc coi là quá
trình t nhân hoá một phần. CPH không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu Nhà nớc trong
các cơ sở kinh tế công, mà chỉ giảm mức độ sở hữu, tức là chỉ có sự thay đổi về
lợng chứ không có sự thay đổi về chất trong các cơ sở kinh tế này [20, tr. 135].
CPH là giải pháp làm cho sở hữu sở hữu trong DNNN từ ''ảo'' đến ''thực'', chuyển
từ sự kiểm soát bằng chế độ quan liêu sang sự kiểm soát thông qua lợi ích của
các chủ sở hữu thực. Khác với làn sóng t nhân hoá ở các nền kinh tế chuyển đổi
ở Đông Âu đang chuyển các DNNN từ sở hữu chung của xà hội sang sở hữu của
cá nhân, CPH DNNN ë ViƯt Nam nh»m thu hót sù tham gia làm chủ thực sự của
ngời lao động vào DNNN thông qua việc để họ sở hữu một phần vốn trong
DNNN, biến họ từ ngời lao động thuần tuý thành ngời lao động có sở hữu
vốn của doanh nghiệp. Giải pháp này làm cho doanh nghiệp có thêm những chủ
nhân thực sự bên cạnh chủ nhân trừu tợng là Nhà nớc. Với t cách là giải pháp cải
cách nền kinh tế, CPH DNNN ở nớc ta đợc tiến hành với sự cân nhắc triệt để các
hậu quả chính trị và xà hội của nó. Đặc biệt CPH DNNN vẫn đảm bảo đợc tính
định hớng xà hội chủ nghĩa của việc phát triển kinh tế thị trờng trong lúc vẫn
củng cố đợc những thành quả của công cuộc cải tạo x· héi chđ nghÜa ë níc ta
[20, tr. 170].



Trường Đại học Luật Hà Nội

1
0

Khố luận tốt nghiệp

XÐt vỊ bản chất pháp lý: CPH là việc biến doanh nghiệp mét chđ thµnh
doanh nghiƯp nhiỊu chđ, tøc lµ chun tõ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những ngời
khác.Những ngời này trở thành sở hữu chủ của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản
mà họ sở hữu trong doanh nghiệp CPH. Xét đới góc độ này thì CPH dẫn tới sự
xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp đợc
CPH
Qua phân tích trên đây ta thấy, để hiểu rõ hơn về bản chất của CPH, cần
phải nhận thức đợc bản chất chính trị và bản chất pháp lý của CPH.
2.2. Vai trò của CPH DNN trong việc thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh:
CPH có vai trò to lớn trong việc đổi mới DNNN, nhất là ở những nền kinh
tế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng định hớng xÃ
hội chủ nghĩa. Tác dụng cđa CPH thĨ hiƯn ë mét sè khÝa c¹nh sau đây:
Thứ nhất, CPH có tác dụng làm cho sở hữu đối với doanh nghiệp trở nên
đa dạng hơn. Chính vì vậy nó giải quyết đợc khá triệt để về vấn đề sở hữu trong
DNNN loại hình doanh nghiệp với những vớng mắc về hậu quả và sự kém năng
động trong sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, CPH có tác dụng trong xà hội hoá t liệu sản xuất trong doanh
nghiệp thuộc sở hữu một chủ. Nh vậy, các thực thể kinh doanh vĩ mô cũng trở
nên đa sở hữu nh bản thân nền kinh tế vĩ mô. Điều này tạo ra sự tơng thích nhất
định giữa các giải pháp quản lý vĩ mô và vi mô.

Thứ ba, CPH tạo cho những ngời lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh
nghiệp nÕu nh hä mong mn. B»ng viƯc së h÷u cỉ phÇn (hay phÇn vèn gãp )
cđa doanh nghiƯp, ngêi lao động có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề
quan trọng của doanh nghiệp thông qua nền dân chủ cổ phần [20, tr. 147] họ
góp phần hình thành nên các cơ quan quản lý doanh nghiệp, quyết định vấn đề
trọng đại của nó. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích
cực của ngời lao độmg không chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối
với các vấn đề kinh tế, chính trị, xà hội của đất nớc.
Những tác động to lớn mang tính phổ biến trên của CPH đơng nhiên đúng
với giải pháp CPH DNNN mà đất nớc ta đang tiến hành. Trong bối cảnh Việt
Nam hiện nay, những tác động này của CPH còn phát huy tác dụng lớn hơn vì
thực trạng của DNNN đang đòi hỏi phải cải cách triệt để trong lúc đó nhiệm vụ
đặt ra là không đợc làm mất đi vai trò chủ đạo của chúng. Ngoài ra, ở Việt Nam,
CPH DNNN còn có những tác động sau:


Trường Đại học Luật Hà Nội

1
1

Khố luận tốt nghiệp

Thóc ®Èy sự phát triển của thị trờng chứng khoán đang gặp khó khăn trong
giai đoạn phát triển hiện nay của đất nớc. Sự phát triển của thị trờng chứng
khoán phụ thuộc chủ yếu vào việc trên thị trờng có chứng khoán để giao dịch
hay không. Các công ty cổ phần thờng là các doanh nghiệp cung cấp chứng
khoán với tỷ lệ lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, số lợng
công ty cổ phần ở nớc ta không lớn và nhất là không có tiềm lực kinh tế mạnh vì
phần lớn là những công ty cổ phần t nhân. Các doanh nghiệp, các công ty lớn và

Tổng công ty của Nhà nớc cha đợc CPH và cũng cha phát hành trái phiếu rộng
rÃi. CPH DNNN ở nớc ta sẽ tạo ra những chủ thể phát hành chứng khoán cã tiỊm
lùc.
CPH ë níc ta cã t¸c dơng rÊt lín trong việc đẩy lùi tình trạng lÃng phí,
tham nhũng đang khá phổ biến trong các DNNN và những cơ quan quản lý. Sự
bao cấp của Nhà nớc đối với nhiều doanh nghiệp, cơ chế xin cho là mảnh đất
tốt lành cho những hành động lÃng phí, tham nhũng. CPH tạo ra sự giám sát chặt
chẽ của chủ sở hữu (cổ đông) đối với giám đốc và cán bộ quản lý DNNN CPH.
Điều này có nghĩa là Giám đốc, nhân viên quản lý không dễ dàng thực hiện các
hành vi vụ lợi nh khi DNNN đang hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Nhà nớc.
Những phân tích về tác động của CPH đà nêu ở trên có ý nghĩa quan trọng
đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN, từ đó góp phần thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh trên thị trờng.
II. KháI quát pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về CPH DNNN

1. Pháp luật về cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tợng gắn liền với kinh tế thị trờng. Do đó cạnh
tranh chỉ xuất hiện dới những tiền đề kinh tế pháp lý cụ thể. Ngày nay, có lẽ
không ai còn hoài nghi về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trờng ở nớc ta,
vì vậy cạnh tranh đà đựoc nhìn nhận chung nh là động lực phát triển nội tại của
nền kinh tế thị trờng. Cạnh tranh cũng chỉ thật sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận
và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thơng mại và theo đó
là tự do kinh doanh, tự do khế ớc và quyền tự chủ của các cá nhân đợc hình
thành và bảo đảm. Cạnh tranh cũng chØ diƠn ra khi kh«ng cã bÊt kú mét quy định
hay hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng [19, tr.
5]- những doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trờng. Tất cả những tiền đề đó đÃ
đợc hình thành ở nớc ta từ khi Đảng và Nhà nớc ta có chủ trơng thúc đẩy phát
triển kinh tế thị trờng đó. Nền tảng pháp lý của chủ trơng đó là Hiến pháp 1992
(Điều 15 và các điều 16, 19, 20, 21, 22, 25). Ngày nay, nhu cầu nâng cao hơn
nữa hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp, và cả nÒn



Trường Đại học Luật Hà Nội

1
2

Khoá luận tốt nghiệp

kinh tÕ đòi hỏi phải tạo ra cơ sở pháp lý cho tự do cạnh tranh và kiểm soát quá
trình đó trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa.
1.1. Sự cần thiết phải ban hành Luật Cạnh tranh:
Khi lựa chọn mô hình kinh tế thị trờng tức là chúng ta đà thừa nhận sự tồn
tại của nhiều thành phần kinh tế, thừa nhận tính khách quan của quy luật kinh tế,
đặc biệt là quy luật cạnh tranh với t cách là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
xà hội. Tuy nhiên, thừa nhận sự tồn tại của quy luật cạnh tranh không có nghĩa là
chúng ta để mặc cho cạnh tranh diễn ra một cách nguyên thuỷ theo kiểu cá
lớn nuốt cá bé. Ngày nay, ngay cả những quốc gia theo khuynh hớng kinh tế thị
trờng tự do nhất cũng không áp dụng triệt để học thuyết kinh tế bàn tay vô
hình của Adam Smith vốn chủ trơng thủ tiêu sự can thiệp của Chính phủ đối với
sự vận hành của nền kinh tế [23, tr. 7].
ở nớc ta, đà có không ít các công trình nghiên cứu về sự cần thiết của các
nội dung cơ bản của Luật Cạnh tranh. Trên cơ sở các nghiên cứu đó, về cơ bản
có những yếu tố sau đây tác động đến việc phải xây dựng Luật Cạnh tranh ở nớc
ta bao gồm:
Thứ nhất, là yêu cầu của bản thân nền kinh tế. Nhu cầu điều tiết nền kinh
tế thị trờng bằng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó Luật cạnh
tranh là một trong những luật cơ bản. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp trớc đây, cạnh tranh hầu nh không diễn ra, hoặc diễn ra rất đơn giản vì vốn
chỉ có hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể và mọi vấn đề từ chiến lợc

sản xuất kinh doanh, phân phối hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ đến ngời dân
đều thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nớc. Chuyển sang nền kinh tế thị
trờng theo định hớng xà hội chủ nghĩa với đa thành phần kinh tế, cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp diễn ra ngày càng khốc liệt. Mặt khác, các DNNN, đặc biệt là
các Tổng công ty 90, 91 với những đặc quyền do cơ chế mang lại đà và đang tìm
mọi cách bảo vệ vị trí độc quyền của mình hoặc vị trí thống lĩnh của mình vì lợi
ích cục bộ (điển hình trong lĩnh vực Bu điện, Điện lực, Bu chính viễn thông,
xăng dầuđể rút ra những kết luận). Trong khi đó, các biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô (thể hiện trong
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nh: Bộ luật Dân sự, Luật Thơng mại,
Luật Doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm) đÃ
không đủ để điều chỉnh và kiểm soát các hiện tợng này. Khi cha có Luật Cạnh
tranh, nhiều khi các cơ quan công quyền đà phải chọn các giải pháp mang tính
tình thế là mợn các quy phạm trong các luật khác để xử phạt, hệ quả tất yếu là
dễ bị rơi vào một trong hai khuynh hớng: hoặc tả khuynh (hình sự hoá các
quan hệ dân sự, kinh tế ), hoặc hữu khuynh (để mặc vi phạm diễn ra mà không


Trường Đại học Luật Hà Nội

1
3

Khố luận tốt nghiệp

xư lý vì cha có quy phạm để điều chỉnh) [23]. Chính vì vậy, rất cần thiết phải có
các quy định của pháp luật để điều tiết các hành vi và hiện tợng đà nêu trên.
Thứ hai, nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt khi mở cửa thị trờng để
hội nhập kinh tế quốc tế.
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng
thờng gây ra những hậu quả tiêu cực nhất định đối với nền kinh tế quốc dân. Độc

quyền trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng
đoạn cao, làm ảnh hởng đến lợi ích của ngời tiêu dùng. ở hầu hết các nớc đều
tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền Nhà nớc. ở nớc ta, với xuất phát
điểm thấp và một số đặc điểm nội tại của tình hình kinh tế xà hội trong thời
gian tới sẽ vẫn còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại một số ngành và lĩnh vực tồn
tại độc quyền Nhà nớc. Tuy nhiên, thông qua các quy định của Luật Cạnh tranh,
Nhà nớc cần có cơ chế kiểm soát nhằm hạn chế hiện tợng cửa quyền, lũng đoạn,
lạm dụng vị trí độc quyền để tránh gây hậu quả xấu cho xà hội.
Bên cạnh đó, cùng với quá trình mở cửa thị trờng thông qua việc ký kết và
gia nhập các hiệp định thơng mại song phơng và đa phơng, đà và sẽ xuất hiện
những công ty đa quốc gia hoạt động ở Việt Nam. Những công ty này, với sức
mạnh kinh tế của mình, có khả năng tạo lập đợc vị thế độc quyền. Trong bối
cảnh đó, các doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang có nguy
cơ bị loại bỏ. Để chiếm lĩnh thị trờng, các doanh nghiệp nớc ngoài đà thiết lập vị
thế độc quyền diễn ra ở mức độ khác nhau. Do đó, việc chuẩn bị các cơ sở pháp
lý để kiểm soát độc quyền trong kinh doanh là điều cần thiết.
Thứ ba, yêu cầu tạo lập và duy trì một môi trờng kinh doanh bình đẳng.
Mặc dù Hiến pháp 1992 chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh
tế và khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trớc pháp luật, nhng khi thực hiện, nhiều cơ quan quản lý Nhà nớc đà không thực sự tuân thủ quy
định này. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là
giữa DNNN và doanh nghiệp khu vực t nhân khá phổ biến. Bên cạnh đó, do
quyền lợi địa phơng, cục bộ, một số cơ quan Nhà nớc bằng các mệnh lệnh hành
chính của mình, gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
tạo lợi thế cho mét hay mét sè doanh nghiƯp vÉn ®ang diƠn ra. Tình trạng đó làm
xuất hiện những rào cản thơng mại ngay trên chính thị trờng nội địa. Ví dụ theo
cách chỉ đợc mua xi măng của tỉnh nhà trong xây dựng hay gần đây là việc Sở
giáo dục một tỉnh yêu cầu các trờng phổ thông trên địa bàn chỉ đợc mua bút bi
của một doanh nghiệp [18], làm mất cơ hội cạnh tranh bình đẳng của các doanh
nghiệp khác, gây thiệt hại cho ngời tiêu dùng.



Trường Đại học Luật Hà Nội

1
4

Khố luận tốt nghiệp

V× vËy, việc ban hành Luật Cạnh tranh với các chế tài nghiêm khắc đối
các hành vi làm ảnh hởng xấu đến môi trờng kinh doanh bình đẳng là rất cần
thiết
1.2. Tổng quan pháp luật về cạnh tranh
1.2.1. Pháp luật cạnh tranh của một số nớc trên thế giới
Cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và các thủ pháp cạnh tranh là những
phạm trù rất đa dạng trong thực tiễn. Vì vậy, nội dung pháp lý của khái niệm
cạnh tranh khó xác định cụ thể so với khái niệm pháp lý về cạnh tranh không
lành mạnh. Khác với các bộ phận khác của pháp luật kinh tế, pháp luật cạnh
tranh tiếp cận hành vi cạnh tranh từ mặt trái của nó và không triệt để về tính xác
định về mặt nội dung.
ở nhiều nớc, theo thông lệ, pháp luật cạnh tranh đợc chia thành hai lĩnh
vực, đó là: pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh (Unfair Competition)
và pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh (Restrictive Competition). Ngoài ra,
pháp luật cạnh tranh của các nớc có những quy định về xem xét, kiểm tra, xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay hạn chế cạnh tranh. Bên cạnh đó,
quản lý Nhà nớc về cạnh tranh cũng là một vấn đề lớn thuộc pháp luật cạnh tranh
mà theo đó, pháp luật thiết lập cơ quan cạnh tranh và xác lập địa vị pháp lý của
chúng [22, tr . 5;6]. Nhiều quốc gia đà điều tiết cạnh tranh bằng pháp luật ngay
cuèi thÕ kû XIX nh : Canada lµ quèc gia đầu tiên trên thế giới ban hành Luật
Cạnh tranh (1889). Song khi nhắc đến Luật Cạnh tranh, ngời ta vẫn coi Hoa Kỳ
là cha đẻ của ngành luật này với hai đạo luật đợc ban hành cách đây trên dới

một thế kỷ (Đạo luật Sherman Act năm 1980 và Clayton Act năm 1914) hoặc từ
những thập niên 40, 50 của thế kỷ XX nh: Pháp (1945), Nhật Bản (1947), Cộng
hoà Liên Bang Đức (1958)để rút ra những kết luận Kinh nghiƯm cđa mét sè n íc trong thiÕt kÕ chÝnh
s¸ch cạnh tranh đợc thể hiện:
Mỹ là một trong những nớc sử dụng rộng rÃi và thành công yếu tố cạnh
tranh để phát triển kinh tế và là nớc ban hành Lt C¹nh tranh tõ rÊt sím. Do vËy
thùc tÕ, Mü đà có môi trờng cạnh tranh tự do nên pháp luật cạnh tranh của Mỹ
tập trung chủ yếu vào việc ngăn ngừa hạn chế hình thành độc quyền. Trong khi
đó, do hệ thống pháp luật còn quy định hạn chế cạnh tranh nên Australia có một
cách tiếp cận ngợc lại: chú trọng phát triển cạnh tranh, chống hạn chế cạnh tranh
hơn là kiểm soát hành vi của doanh nghiệp độc quyền [16, tr . 22].
ở Pháp, Luật Cạnh tranh đợc hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật có
mục đích điều tiết thị trờng. Nói một cách đơn giản thì Luật Cạnh tranh bao gồm
những quy định kiểm soát, những biện pháp mà các tác nhân kinh tế sử dụng để
thu hút khách hàng của tác nhân khác [15, tr. 14].


Trường Đại học Luật Hà Nội

1
5

Khố luận tốt nghiệp

NhËt B¶n là một nớc Châu á có nhiều điểm tơng đồng với Việt Nam, nhất
là văn hoá kinh doanh, với việc đánh giá tinh thần cộng đồng cao hơn tính độc
lập cá thể. Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh cũng gặp những vấn đề mà hiện
nay ta đang phải giải quyết nh: môi trờng kinh doanh thiếu minh bạch, rõ ràng.
Mặc dù cách rất xa Việt Nam về mặt địa lý, nhng kinh nghiệm của
Mexico rất đáng đựoc tham khảo. Là một nớc đang phát triển, Mexico chấp nhận

và khuyến khích cạnh tranh ngay cả với nớc láng giềng khổng lồ có khoảng cách
phát triển khá xa.
Ngoài ra, chúng ta cịng häc hái kinh nghiƯm cđa c¸c níc nh: Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đức, Nga.
Mặc dù có thể có những đặc điểm riêng với trình độ phát triển cao hơn
nhiều so víi níc ta, nhng kinh nghiƯm cđa nh÷ng níc này cung cấp cho chúng ta
những bài học quý báu trong việc xây dựng chính sách cạnh tranh phù hợp với
điều kiện thực tế của mình. Tiếp thu bài học của nớc khác và vận dụng khéo léo
chính sách cạnh tranh sẽ giúp chúng ta bắt kịp với các nớc khác về phát triển
kinh tế.
1. 2. 2. Những nội dung cơ bản của Luật Cạnh tranh
* Gần nh đà thành thông lệ quốc tế, Luật Cạnh tranh của các nớc trên thế
giới đều tập trung điều chỉnh các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Các quy định bảo vệ thị trờng, bao gồm các quy định về thoả thuận hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế.
- Các quy định bảo vệ tác nhân kinh tế, bao gồm các chế định cạnh tranh
không lành mạnh, cấm phân biệt đối xử trong quan hệ thơng mại.
- Các quy định về cơ quan quản lý, điều tiết cạnh tranh.
- Các quy định về tố tụng cạnh tranh.
- Các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
* Luật cạnh tranh 2004 và các văn bản hớng dẫn thi hành luật cạnh
tranh ở ViƯt Nam
Tríc kia khi níc ta cha ban hµnh Lt Cạnh tranh thì pháp luật có liên
quan đến cạnh tranh tồn tại rải rác tại một số văn bản thuộc các lĩnh vực pháp
luật sau đây: Bộ luật Dân sự, pháp luật về sở hữu công nghiệp và chuyển giao
công nghệ, pháp luật về quảng cáo, pháp luật về quản lý cạnh tranh trong hoạt
động thơng mại (Luật Thơng mại). Tuy nhiên các quy định nói trên trong các
lĩnh vực điều chỉnh pháp luật khác nhau, kể cả khi chúng đợc thực hiện nghiêm
chỉnh vẫn cha có đủ khả năng đáng kể để duy trì một trật tự cạnh tranh lành
mạnh ở nớc ta.



Trường Đại học Luật Hà Nội

1
6

Khố luận tốt nghiệp

Lt C¹nh tranh (2004) ra đời là một chế định pháp lý mới, phù hợp với cơ
chế thị trờng. Luật này điều chỉnh những nội dung chủ yếu sau:
- Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh: Thoả thuận hạn chế cạnh tranh,
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trờng, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung kinh tế;
- Quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Quy định về cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh;
- Quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử
lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Cùng với việc ban hành Luật Cạnh tranh, Chính phủ đà ban hành các văn
bản hớng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh, gồm những văn bản sau:
- Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;
- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 của Chính phủ quy định
về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về việc
thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội
đồng cạnh tranh;
- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh (2004) và các văn bản hớng dẫn thi hành đà tạo ra khung
pháp lý để duy trì một trật tự cạnh tranh lành mạnh ở nớc ta.

2. Pháp luật về CPH DNNN
CPH là giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của
DNNN, mang tính chất chiến lợc và có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của
nền kinh tế, xà hội của đất nớc.
2.1. Sự cần thiét của pháp luật điều chỉnh CPH DNNN
CPH DNNN động chạm đến sở hữu Nhà nớc, sở hữu toàn dân theo hớng
giảm tỷ trọng của nó. Hơn nữa, do nhiều yếu tố gắn với cơ chế kế hoạch tập
trung trớc đây, việc CPH DNNN chứa đựng nguy cơ lÃng phí ngân sách và sự
giàu lên của một số ít viên chức Nhà nớc. Có thể nói, CPH là vấn đề nhạy cảm cả
về chính trị lẫn kinh tế. Chính vì vậy, CPH cần đợc tiến hành trên nền tảng pháp
lý vững chắc. Xét ở khía cạnh này, pháp luật hiện hành về CPH cha đáp ứng đợc.
Từ trớc đến nay, để tạo cơ sở pháp lý cho CPH, Nhà nớc ta chỉ ban hành các văn
bản dới luật trong đó phần nhiều là các Nghị định, Nghị quyết hoặc các Thông t
hớng dẫn. Khác với thực tiễn lập pháp ở nhiều nớc tiến hành cải cách DNNN, ở
nớc ta hiện nay cha có một văn bản hiệu lực cao nào điều chỉnh các quan hƯ ph¸t


Trường Đại học Luật Hà Nội

1
7

Khoá luận tốt nghiệp

sinh tõ CPH. Tốc độ CPH, việc giải quyết tốt các vấn đề hậu CPH phụ thuộc khá
nhiều vào sự tồn tại của một văn bản pháp luật có hiệu lực cao mới giải quyết đ ợc một cách toàn diện, triệt để các vấn đề liên quan đến CPH.
Việc hoàn thiện nền tảng pháp lý ở nớc ta nên bắt đầu từ việc xây dựng
Luật CPH. Sự cần thiết phải xây dựng Luật CPH bắt nguồn từ những lý do khác
nhau dới đây:
Thứ nhất: CPH có mục tiêu là sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao

hiệu quả DNNN một bộ phận chủ yếu là thành phần kinh tế Nhà nớc. Đối với
nền kinh tế thị trờng định hớng x· héi chđ nghÜa ë níc ta, CPH cã tÇm quan
trọng cả về kinh tế lẫn chính trị và xà héi. XÐt ë khÝa c¹nh kinh tÕ, CPH cã thĨ
mang một sức sống mới cho thành phần kinh tế Nhà nớc, đặc biệt là DNNN. Xét
từ góc độ chính trị, CPH đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại trong những hình
thức kinh tế mới, thích hợp với nền kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa,
tăng hiệu quả của chúng và vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nớc. Chính tầm
quan trọng này quyết định sự cần thiết phải có một nền tảng pháp lý tơng xứng,
đó chính là luật.
Thứ hai: Các quy định pháp luật hiện hành rất tản mạn, thiếu tính hệ thống
và có những mâu thuẫn lẫn nhau, cản trở không ít đến viƯc thùc hiƯn hiƯu qu¶
CPH DNNN. Mét vÝ dơ cơ thể: Chỉ một thời gian ngắn sau khi ban hành Nghị
định số 64/2002/NĐ- CP, Nhà nớc đà ban hành 17 văn bản khác nhau liên quan
đến việc thực thi Nghị định này [20, tr. 275]. Cho đến nay, việc rà soát và đánh
giá lại các tác động cũng nh hiệu lực của các quy định pháp luật về CPH cha đợc
thực hiện một cách chính thức và đầy đủ. Một trong những yêu cầu hiện nay là
rà soát để loại bỏ các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tác dụng hoặc phản
tác dụng đối với tiến trình CPH.
Thứ ba: CPH động chạm đến nhiều vấn đề pháp lý quan trong nh vấn đề
sở hữu Nhà nớc, Công ty cổ phần, phát hành chứng khoán, việc làm, bảo hiểm.
Các vấn đề nêu trên đều đợc điều chỉnh bằng các văn bản luật, chính vì vậy,
nhiều quy định của pháp luật về CPH, mặc dù có tầm quan trọng rất lớn song vẫn
dễ bị vô hiệu hoá bởi các Nghị định và các văn bản dới luật khác.
Thứ t: Do chúng ta coi CPH nh một chơng trình quốc gia nên việc thể chế
hoá nó cũng cần ở tầm một văn bản luật. Các quốc gia khi thực hiện t nhân hoá
nh một chính sách, chơng trình quốc gia đều ban hành Luật CPH. Kinh nghiệm
này cũng cần đợc tham khảo đối với việc thực hiện chơng trình quốc gia về CPH
ë níc ta.



Trường Đại học Luật Hà Nội

1
8

Khoá luận tốt nghiệp

Nh vËy, việc ban hành các quy định của pháp luật về CPHDNNN là một
việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Tổng quan pháp luật về CPH DNNN
2.2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp lt vỊ CPH
DNNN
CPH DNNN trong st thêi gian ®· ®ùoc tiến hành trên một nền tảng pháp
lý cha thực sự vững chắc. Điều này đợc thể hiện qua thực trạng pháp luật về CPH
dới đây:
Văn bản pháp luật đầu tiên về CPH DNNN là Quyết định số 143/HĐBT
ngày 10/05/1990. Quyết định này đà đa ra một số điều kiện để chọn các DNNN
làm thí điểm CPH. Hơn nữa, các tiêu chí cho việc chọn DNNN thí điểm CPH
hoàn toàn dựa vµo mong mn chđ quan cđa doanh nghiƯp, ý chÝ của chủ sở hữu
không đợc thể hiện rõ. Theo Quyết định, chỉ những DNNN kinh doanh có lÃi và
có khả năng mua cổ phần mới điựơc tiến hành CPH. Tiếp theo Quyết định
143/HĐBT, Chính phủ ban hành Chỉ thị số 2002/CP ngày 06/08/1992 và sau đó
vài tháng ban hành tiếp chỉ thị số 84/TTg ngày 04/03/1993 về việc CPH DNNN.
Sau một thời gian thực hiện thí điểm CPH DNNN, ngày 07/05/1996,
Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP về Chuyển một số DNNN thành công
ty cổ phần. Cha đầy một năm sau đó, Chính phủ đà ban hành tiếp Nghị định số
25/CP ngày 26/03/1997 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 28/CP. Các
quy định của Nghị định 28/CP và nghị định 25/CP đà tạo ra đợc cơ sở pháp lý
khá vững chắc để chuyển các DNNN sang hình thức công ty cổ phần đà đựoc
Luật công ty 1990 xác định. Các văn bản này đà quy định mục tiêu, điều kiện,

thủ tục cổ phần hoá, quyền và lợi ích của ngời lao động khi DNNN đợc CPH.
Ngày 29/06/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/CP về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần. Khác với Nghị định số 28/CP, Nghị định 44/CP
có thêm các quy định về hình thức CPH, về quyền mua cổ phần trong DNNN
CPH, các vấn đề liên quan đến định giá tài sản của DNNN CPH. Chính nhờ
những quy định này, nên việc CPH đợc tiến hành trên cơ sở pháp lý vững chắc
hơn. Để tạo thêm động lực mới cho tiến trình CPH, Chính phủ đà ban hành Nghị
định số 64/2002/NĐ- CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển đổi DNNN thành công
ty cổ phần. Với 36 điều, Nghị dịnh số 64/2002/NĐ- CP đà quy định nhiều vấn đề
cụ thể hơn về tiến trình CPH. Sau đó 2 năm, Chính phủ ban hành Nghị định
178/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nớc thành công
ty cổ phần. Nghị định 64/CP và Nghị định 187/CP đà điều chỉnh một số vớng
mắc và trong quá trình CPH theo các văn bản pháp luật trớc đây không giải


Trng i hc Lut H Ni

1
9

Khoỏ lun tt nghip

quyết đợc. Đó là vấn đề liên quan đến định giá tài sản DNNN, xử lý tài chính khi
CPH, chính sách đối với doanh nghiệp và ngời lao động sau CPH để rút ra những kết luận
Nh vậy, trong 16 năm thực hiện CPH, Chính phủ đà liên tục hoàn thiện cơ
sở pháp lý cho CPH để điều chỉnh có hiệu quả hơn các vấn đề nảy sinh.
2.2.2. Những điểm cơ bản trong pháp luật hiện hành về CPH các
DNNN
Nội dung của pháp luật hiện hành về CPH tập chung chủ yếu ở Nghị định
178/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004. Nghị định này đợc ban hành trên cơ sở kế

thừa các quy định phù hợp với thực tế cuộc sống của các văn bản pháp luật trớc
đây, cũng nh thực tiễn CPH sinh động. Nội dung của pháp luật hiện hành về
CPH có những điểm quan trọng sau:
* Đối tợng áp dụng:
Về cơ bản, không có những hạn chế đối với diện DNNN CPH. Hạn chế
CPH chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp Nhà nớc cần nắm giữ 100% vốn
theo những danh mục mà Chính phủ công bố, DNNN đợc CPH không phụ thuộc
vào thực trạng hoạt động, điều kiện hạn chế đối với việc CPH bộ phận của
DNNN là bộ phận đó có đủ điều kiện hạch toán độc lập và việc CPH không ảnh
hởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc bộ phận còn lại
của DNNN.
* Hình thức CPH:
Thứ nhất: Giữ nguyên vốn Nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn, áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần có nhu cầu
tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu
cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần đựoc phản
ánh trong phơng án CPH.
Thứ hai: Bán một phần vốn Nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết
hợp vừa bán bớt một phần vốn Nhà nớc vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút
vốn.
Thứ ba: Bán toàn bộ vốn Nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán toàn bộ vốn Nhà nớc vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
* Chủ thể đợc mua cổ phần:
Đối tợng và điều kiện mua cổ phần đợc mở rộng. Pháp luật quy định nhà
đầu t trong nớc đợc quyền mua cổ phần của các doanh nghiệp CPH với số lợng
không hạn chế, còn nhà đầu t nớc ngoài đợc mua cổ phần của các doanh nghiệp
CPH theo quy định của pháp lt ViƯt Nam.
* Xư lý tµi chÝnh khi CPH:



Trường Đại học Luật Hà Nội

2
0

Khố luận tốt nghiệp

C¸c DNNN CPH có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan,
chủ động xử lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại về
tài chính trớc khi xác định giá trị doanh nghiệp CPH và trong quá trình CPH.
* Xác định giá trị doanh nghiệp CPH:
Các doanh nghiệp CPH đợc áp dụng một trong các phơng pháp xác định
giá trị doanh nghiệp nh sau: phơng pháp tài sản, phơng pháp đóng tiền chiết
khấu, các phơng pháp khác. Việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH đợc thực
hiện thông qua các tổ chức có chức năng định giá đối với các doanh nghiệp CPH
có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên. Còn doanh nghiệp
CPH có tổng giá trị tài sản dới 30 tỷ đồng thì không nhất thiết phải thuê tổ chức
định giá, doanh nghiệp này có thể tự xác định giá trị doanh nghiệp và báo cáo cơ
quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp.
* Quyền lợi của ngời lao động:
Công ty cổ phần đựoc thành lập trên cơ sở của DNNN CPH có trách
nhiệm kế thừa mọi nghĩa vụ đối với ngời lao ®éng tõ DNNN chun sang, cã
qun tun chän, bè trÝ sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan
giải quyết chế độ cho ngời lao động theo quy định của pháp luật.
Giá bán cổ phần u đÃi cho ngời lao động trong doanh nghiệp đợc giảm
40% so với giá đấu bình quân.
Những quy định trên đây của pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho quá trình
CPH doanh nghiệp, giúp cho quá trình này diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả,
từ đó góp phần hình thành nên những doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh trên thị
trờng.

3. Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về CPHDNNN
Cạnh tranh và CPH có mối quan hệ biện chứng và có tác động qua lại lẫn
nhau. Mối quan hệ này đợc biểu hiện nh sau:
3.1. Cạnh tranh vừa là động lực vừa là mục tiêu của CPH DNNN.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, ít có khả năng cạnh tranh
trên thị trờng của DNNN trong bối cảnh đất nớc ta đang chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, tham gia nhiều hơn vào các khu vực mậu dịch tự do hoặc các hiệp
định thơng mại song phơng, đa phơng sẽ là một thách thức lớn đối với nền kinh
tế nớc ta. Đòi hỏi đặt ra là phải tiến hành cải cách DNNN, giúp những doanh
nghiệp này tự chủ hơn, năng động hơn trên thị trờng. Và CPH là một trong
những giải pháp hiệu quả đáp ứng đựoc yêu cầu đó. CPH làm cho hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các DNNN CPH đợc nâng cao. CPH không làm thay đổi
một cách cơ bản kÕt cÊu së h÷u cđa nỊn kinh tÕ. ChÝnh sù đa dạng về hình thức



×