Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.73 KB, 19 trang )

Môc lôc
LỜI MỞ ĐẦU

Trang 3

I / LÝ LUẬN CHUNG

Trang 5

1. Một số khái niệm cơ bản về kinh tế đối ngoại

Trang 5

1.1 Khái niệm

Trang 5

1.2 Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại

Trang 5

2. Vai trò của kinh tế đối ngoại

Trang 7

3. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả

Trang 8

kinh tế đối ngoại
3.1 Mở rộng kinh tế đối ngoại- một vận dụng hợp lý từ chính sách kinh tế



Trang 8

mới (NEP) của Lenin
3.2 Phát triển kinh tế đối ngoại: một nhu cầu xuất phát từ thực tiễn tồn

Trang 8

cầu hố
3.3 Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là điều kiện quan trọng để ổn định

Trang 9

và phát triển kinh tế- xã hội và xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại - một trong ba

Trang 10

nhiệm vụ cơ bản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
II / THỰC TIỄN

Trang 10

1. Thành tựu

Trang 10

2. Hạn chế


Trang 12

2.1 Về phía nhà nước

Trang 12

2.2 Về phía doanh nghiệp

Trang 13

III / GIẢI PHÁP

Trang 13

1. Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và

Trang 13

nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
1.1 Mục tiêu

Trang 14

1.2 Phương hướng

Trang 14

1.3 Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu

Trang 14


quả kinh tế đối ngoại
1


2. Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hiệu

Trang 15

quả kinh tế đối ngoại ở nước ta
2.1 Về phía nhà nước

Trang 15

2.2 Về phía doanh nghiệp
KẾT LUẬN

Trang 17

Danh mục tài liệu tham khảo

Trang 19

Trang 18

Lời mở đầu

Ton cu hoỏ kinh t l xu th tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng
sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn
cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản

dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác
động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế
giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng
2


trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh
tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do tồn
cầu hố đem lại.
Tồn cầu hoá kinh tế đã và đang mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho các dân
tộc trên thế giới khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình để tăng trưởng kinh tế
và phát triển xã hội. Đồng thời q trình tồn cầu hố kinh tế cũng đặt mỗi quốc gia,
dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách thức gay gắt, nhất là đối với các nước
đang phát triển. Vì thế để khơng bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, các nước đều phải
nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng cường sức cạnh tranh kinh tế .
Hơn lúc nào hết q trình tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là sự
quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta. Chúng
ta đã trải qua hơn hai mươi năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội nhập với
nền kinh tế khu vực và tồn cầu. Với phương châm “ đa dạng hố, đa phương hoá quan
hệ” và “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập các quan hệ thương
mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực tham gia vào
các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội
nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng.
Đứng trước ngưỡng cửa hội nhập, ngưỡng cửa của sự thách thức, là một sinh viên
thuộc khối ngành kinh tế, em chọn đề tài Vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại để hoàn thành đề án mơn học Kinh tế chính trị Mac – Lenin với mong muốn
tìm hiểu vai trị của kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại nhằm xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh.”

3


I /LÝ LUẬN CHUNG :
1.Một số khái niệm cơ bản về kinh tế đối ngoại:
1.1. Khái niệm:
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là 1 bộ phận của kinh tế, là tổng thể các quan
hệ kinh tế, khoa hoc, kĩ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia
khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình
thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động quốc tế.
Kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia bên ngoài với nước khác hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác.
1.2. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại:
1.1.1. Ngoại thương:
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hố, dịch vụ
(hàng hố hữu hình và vơ hình) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu. Đối với
4


mỗi quốc gia đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển như nước ta, ngoại thương
có tác dụng to lớn:
- Góp phần làm tăng của cải và sức mạnh tổng hợp của mỗi nước.
- Là một động lực của sự tăng trưởng kinh tế quốc dân.
- “Điều tiết thừa, thiếu” của mỗi nước.
- Nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước.
- Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các
ngành xuất khẩu.
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng háo hữu hình

và vơ hình, gia cơng tái sản xuất, xuất khẩu tại chỗ(bán hàng thu ngoại tệ trong nước).
Trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động ngoai thương ở
các nước nói chung và nước ta nói riêng.
1.1.2. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất:
- Nhận gia cơng:
Nước ta hiện nay có trên 30 triệu người có khả năng lao động trong độ tuổi lao
động, nhưng trong số đó có rất nhiều người chưa có việc làm, do vậy nhận gia cơng
cho nước ngồi là một hình thức rất tốt, giúp tận dụng nguồn dự trữ lao động, tạo nhiều
việc làm và tận dụng cơng suất máy móc hiện có.
- Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn
và cơng nghệ từ nước ngồi:
Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp công nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính - tín dụng. Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung
thương được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng
với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây
dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập
khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nước tiết
kiệm ngoại tệ. Ở nước ta hiện nay, hình thức này đóng vai trị rất quan trọng.
- Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chun mơn hố:
Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định
hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết
quả cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các
nước.
Chuyên môn hố bao gồm chun mơn hố những ngành khác nhau và chun
mơn hố trong cùng một ngành (chun mơn hố theo sản phẩm, theo bộ phận sản
phẩm hay chi tiết và theo cơng nghệ). Hình thức hợp tác này làm co cơ cấu kinh tế
ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
1.1.3. Hợp tác khoa học kĩ thuật:
Hợp tác khoa học kĩ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi những
tài liệu – kĩ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao

công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kĩ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
và công nhân.
Đối với những nước lạc hậu về kĩ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học – kĩ thuật
cịn ít, đội ngũ cán bộ khoa học – kĩ thuật chưa nhiều, phương tiện vật chất cịn thiếu
thốn như nước ta thì việc tham gia hợp tác khoa học – kĩ thuật với nước ngoài là vơ
cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách giữa các nước
tiên tiến.
5


1.1.4. Đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là q
trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng
và triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Nó làm tăng
thêm nguồn vốn, tăng cơng nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý tiên tiến, tạo thêm việc
làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại, tiếp cận kinh tế thị trường hiên j đại trên thế giới. Nhưng mặt khác, đầu tư quốc tế
cũng có khả năng làm gia tăng sự phân hố giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các
vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng tính lệ
thuộc với bên ngồi.
Có hai loại hình đầu tư quốc tế :
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý
vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp
tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm
về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng
vốn đầu tư, tức là người có vốn khơng trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều
hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay), hoặc
có thể khơng thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Trong các nguồn vốn đầu tư

gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của
chính phủ một số nước phát triển. Bộ phận này có tỉ trọng lớn và thường đi kèm
với các điều kiện ưu đãi.
1.1.5. Tín dụng quốc tế :
Đây là quan hệ tín dụng giữa nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân
trong nước với các chính phủ, các tổ chức (gồm cả tổ chức phi chính phủ) và cá nhân ở
nước ngồi, trong đó với các tổ chức ngân hàng thế giới và ngân hàng khu vực là chủ
yếu.
Tín dụng quốc tế được thẻ hiện dưới nhiều hình thức vay nợ: tiền tệ, vàng, cơng
nghệ, hàng hố, …., có thể qua hình thức đầu tư trực tiếp (bên nhận đầu tư khơng có
vốn, phải vay của bên đầu tư)
Ưu điểm của hình thức này la vay nợ để có vốn đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng
kết cấu hạ tầng - những khu vực này cần vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm.
1.1.6. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế:
- Du lịch quốc tế:
Ngành kinh tế du lịch nảy sinh trên cơ sỏ nhu cầu khách quan đó là sản phẩm và là
một bộ phận trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đây là một ngành kinh
doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao
đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu
trú, tham quan, giải trí, tìm hiểu, lưu niệm,…. của du khách.
- Vận tải quốc tế:
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa hai nước
hoặc nhiều nước.
Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao động xã hội
và quan hệ mua bán giữa các nước với nhau.
6


Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận
tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.

- Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ:
Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn cịn lớn, vì vậy đối với một
nước kinh tế chưa phát triển, có lực lượng lao động lớn như nước ta, việc xuất khẩu
lao động mang lại nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài.
+ Thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động và cho ngân sách
nhà nước.
+ Người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động cơng nghiệp ở
các nước có nền kinh tế phát triển. Khi hết hạn hợp đồng về nước họ sẽ trở thành
lực lượng lao động có chất lượng.
+ Giải quyết việc làm, giảm được tỉ lệ thất nghiệp.
- Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác :
Ngoài những hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại cịn có nhiều hoạt động
dich vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ
kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn,….
2. Vai trò của kinh tế đối ngoại :
Kinh tế đối ngoại thực sự là một trong những bộ phận quan trọng của nền kinh tế
quốc dân và đóng góp những vai trị to lớn :
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc
tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường quốc tế và khu vực
- Một trong những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại là hoạt động đầu tư
quốc tế nhằm huy động vốn để hợp tác xây dựng sản xuất nên kinh tế đối ngoại
đã góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức (ODA)
từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế, thu hút khoa học kĩ thuật, công nghệ,
khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng, quản lý nền kinh tế hiện
đại vào nước ta.
- Kinh tế đối ngoại góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên một
nước công nghiệp hiện đại.
- Kinh tế đối ngoại góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc
làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống nhân dân

theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại :
3.1. Mở rộng kinh tế đối ngoại - một vận dụng hợp lý từ chính sách kinh tế mới
(NEP) của Lenin :
Cũng giống như nước Nga – Xô Viết giai đoạn sau nội chiến 1918 – 1920, Việt
Nam trong thời kì bao cấp lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế.
Nước ta đã gặp nhiều vướng mắc trên con đường xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
7


Trước hết, mơ hình xây dựng và tổ chức sản xuất hợp tác xã đã bộc lộ nhiều bất
cập. Sự bất hợp lý trong việc tính cơng, chấm cơng, đã dẫn tới gian lận trong hoạt động
sản xuất, không khuyến khích được người nơng dân tích cực tham gia lao động sản
xuất.
Việc nhà nước nghiêm cấm người dân tự do tổ chức sản xuất, kinh doanh lớn vì coi
đó là mầm mống tư sản, đã hạn chế tính nhạy bén, năng động của một thị trường non
trẻ.
Cùng với đó, chủ trương đóng cửa khơng quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa,
chỉ giao lưu quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em cũng là nguyên nhân dẫn
tới sự tụt hậu của nước ta trong giai đoạn này bởi đa phần những nước đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa là những nước có nền kinh tế chậm phát triển.
………………
Nhận thấy những điểm tương đồng với tình hình nước Nga – Xơ Viết sau nội
chiến, Đảng ta đã vận dụng chính sách kinh tế mới NEP của Lenin để đưa ra những
biện pháp cải cách hợp lý, phù hợp với thực tiễn đất nước. Một trong những những
biện pháp đó là chính sách mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Chúng ta
chủ trương phát triển quan hệ hợp tác với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ về
vốn, kĩ thuật, trình độ tổ chức quản lý và khuyến khích kinh tế phát triển. Việc mở

rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan mà Đảng ta đã
nhận thức đúng đắn từ thực tiễn nước Nga, từ quan điểm Lenin thể hiện trong chính
sách kinh tế mới.
3.2. Phát triển kinh tế đối ngoại : một nhu cầu xuất phát từ thực tiễn tồn cầu hố :
Trong thời đại ngày nay, tồn cầu hố kinh tế lơi cuốn mọi quốc gia vào vịng xốy
của nó, dù là quốc gia tiên tiến hay lạc hậu, phát triển hay chậm phát triển. Tồn cầu
hố kinh tế được biểu hiện ở nhiều mặt:
- Tồn cầu hố được biểu hiện ở sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Có thể
nói, sự phân cơng lao động quốc tế và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, các khu
vực ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, bao quát nhiều lĩnh vực với tốc
độ nhanh.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ngày càng gia tăng. Chính sự
chun mơn hố, hợp tác hoá sản xuất làm cho các nước phụ thuộc nhau về
nhiều mặt: nguyên liệu, kĩ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao động thị trường thế
giới ngày càng có vai trò quan trọng đối với “đầu vào” và “đầu ra” của nền kinh
tế mỗi quốc gia.
- Hình thành kết cấu hạ tầng kinh tế và giá cả quốc tế. Chính việc hình thành giá
cả quốc tế đã khiến cho các ngành sản xuất và giá cả của các nước có sự phụ
thuộc chặt chẽ vào nhau.
Ngày nay, tồn cầu hố kinh tế đã tạo ra những thời cơ và thách thức mới, quốc gia
nào nắm bắt được thời cơ, vượt qua những thách thức sẽ phát triển nhanh hơn, ngược
lại, sẽ bị tụt hậu xa hơn. Trong bối cảnh đó, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở nên
quan trọng đối với mọi quốc gia, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa cũng như những
nước xã hội chủ nghĩa.
Nguyên nhân chủ yếu trực tiếp nhất của toàn cầu hố kinh tế là sự phát triển hết
sức nhanh chóng và có những đột phá của cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ hiện
đại. Có thể nói tác động của cuộc cách mạng này tới tồn cầu hố và tới sự phát triển
của kinh tế đối ngoại là hết sức to lớn :
8



- Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của
lực lượng sản xuất, làm cho nó vượt khỏi khn khổ các quốc gia, địi hỏi phải
mở rộng khơng gian kinh tế mới có khả năng sử dụng có hiệu quả.
- Cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã tạo ra các phương tiện giao thông
vận tải, phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, làm cho việc đi lại, giao lưu,
thơng thương trở nên nhanh chóng, dễ dàng, làm cho khoảng cách giữa các quốc
gia trở nên “ngắn lại”.
- Cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại làm xuất hiện những lợi thế mới cho
nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia đều có những ưu thế khác nhau về các lĩnh vực
trong nền kinh tế. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại càng trở nên
cần thiết vì các quốc gia có thể mua được những sản phẩm mà mình chưa có khả
năng sản xuất hoặc sản xuất chưa được tốt, giá thành sản xuất cao,….
- Cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại làm xuất hiện nhiều vấn đề có tính
chất tồn cầu như: ô nhiễm môi trường, bệnh tật, sự phân hoá giàu nghèo,…, địi
hỏi phải có sự hợp tác giữa nhiều quốc gia mới có thể giải quyết được hiệu quả.
Có thể khẳng định rằng, kinh tế đối ngoại thực sự là một tất yếu trong thời đại ngày
nay, thời đại toàn cầu hoá và cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại, càng quan trọng
hơn đối với những quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển như Việt Nam.
3.3. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là điều kiện quan trọng để ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta:
- Các quan hệ kinh tế đối ngoại là một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái sản
xuất mở rộng ở nước ta:
Thông qua các quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta có thể thay đổi cơ cấu tổng
sản phẩm xã hội cả về mặt hiện vật lẫn về mặt giá trị. Xuất, nhập khẩu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế đã đổi nông, lâm, thuỷ sản, hàng tiêu dùng lấy thiết bị, máy móc,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư thiết yếu như xăng, dầu,…, có lợi cho tái sản xuất mở
rộng. Đồng thời điều đó cũng làm thay đổi cơ cấu hàng tiêu dùng, tận dụng được lợi
thế so sánh về lao động và tài nguyên sẵn có trong nước để đẩy mạnh sản xuất, tăng

nhanh thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Tranh thủ nguồn vốn nước ngoài và thành tựu khoa học – công nghệ của thế giới
để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội:
Trong chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, mức thu nhập tính theo đầu người của nước ta rất thấp, do đó tích
luỹ cũng vơ cùng thấp vì phần lớn thu nhập dung vào sinh hoạt. Trong khi đó,
chúng ta lại cần lượng vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình thiết
yếu nhằm phát triển kinh tế. Vì vậy xuất hiện khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư
và tích luỹ vốn. Hàng xuất khẩu của nước ta hầu hết là nguyên liệu sơ chế hoặc
hàng thủ công giá thấp, còn hàng nhập khẩu chủ yếu là các loại thiết bị, máy móc
có giá trị cao. Điều đó đã dẫn đến cán cân buôn bán thường xuyên bị thiếu hụt, cán
cân thanh toán quốc tế bị mất cân đối. Chỉ có tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước
ngồi mới giải quyết được khó khăn này.
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại - một trong ba nhiệm vụ cơ
bản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta :
9


Trước xu thế tồn cầu hố kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín mà phải mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu, là vấn đề mang tính quy luật trong thời
đại ngày nay. Nhận thức được tất yếu khách quan này từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
VI – 1986, Đảng ta đã chủ trương mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
cũng như xác định đây là một trong ba nhiệm vụ cơ bản của nước ta trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã chủ trương “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá
quan hệ kinh tế quốc tế, thu hút nguồn nhân lực từ bên ngoài, phát huy lợi thế trong
nước, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh – liên kết - hợp tác,
kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ các nước trong khu
vực và trên thế giới.

Đại hội X của Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại,
hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục đích cao nhất”
II / THỰC TIỄN :
Trong hơn 20 năm phát triển, kinh tế đối ngoại ở nước ta đã đạt được nhiều thành
cơng song vẫn cịn những mặt hạn chế.
1. Thành tựu :
Công cuộc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở nước ta đã co những
thành tựu đáng kể trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực :
- Quá trình hội nhập kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới đã có nhiều
bước tiến mới quan trọng. Trong đó phải kể tới việc ra nhập Tổ chức Thương
Mại thế giới (WTO). Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của WTO, đánh dấu một bước phát triển mới của nền kinh tế nước ta. Là
thành viên của WTO, chúng ta sẽ bình đẳng hơn trong quan hệ kinh tế quốc tế,
trong quan hệ giao thương với nước ngoài; việc mở rộng quan hệ ngoại giao với
các nước, các khu vực trên thế giới cũng sẽ diễn ra thuận lợi hơn.
Quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước, các tổ chức được mở
rộng và đạt được nhiều thành tựu. Gần đây, trong chuyến công du Ấn Độ của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tháng 7/2007, chúng ta đã kí kết được nhiều hiệp
định song phương trong vấn đề hợp tác kinh tế. Đồng thời các nhà đầu tư Ấn Độ
cũng nhìn nhận Việt Nam như một mơi trường hấp dẫn cho đầu tư kinh doanh.
Chính việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, các doanh nghiệp
song song với việc thực hiên các hiệp định song phương, đa phương (như việc
thực hiện cam kết về khu vực mậu dịch tự do ASEAN – AFTA,…) đã góp phần
tạo ra diện mạo mới cho kinh tế đối ngoại Việt Nam.
- Xuất nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trong 5 năm
2001 – 2005 đạt gần 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm. Riêng năm 2006,
tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 39,6 tỉ USD chiếm 65% GDP, tăng 22,1% so với
năm 2005, đứng thứ 6/11 Đông Nam Á, thứ 39/165 trên thế giới. Tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2006 đã tăng gấp 16,5 lần năm 1990;

tăng 2,7 lần so với năm 2000.
1
0


Trong năm 2005, xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD, gấp đôi năm
2000. Xuất khẩu dịch vụ 5 năm đạt trên 21 tỉ USD; tăng 15,7%/năm, bằng 19%
tổng kim ngạch xuất khẩu, xấp xỉ bằng mức trung bình 20% của thế giới. Cũng
trong năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu, đứng thứ hai về
xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều, đứng thứ tư về cao su,…. Thị trường xuất
khẩu được mở rộng sang một số nước và khu vực, nhất là Hoa Kì. Trước năm
2000, quan hệ giữa Việt Nam – Hoa Kì rất hạn chế nhưng hiện tại Hoa Kì đã trở
thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5 năm 2001 – 2005 là 130,2 tỉ USD; bình
quân tăng 18,8%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 5 năm khoảng trên 21
tỉ USD, tăng 10,3%/năm. Nhập siêu hàng hoá từng bước giảm dần, trong năm
2005 tỉ lệ này là 14,4% và đến năm 2006 giảm còn 12,1%.
Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Trong tổng kim
ngạch xuất khẩu, tỉ trọng hàng cơng nghiệp nặng và khống sản giảm từ 37,2%
năm 2000 xuống còn 35,8% năm 2005; các mặt hàng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
giảm từ 29% xuống 24,4%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng
từ 33,9% lên 39,8%. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu năm 2005, nhóm máy móc
thiết bị phụ tùng chiếm 32,5%, nhóm nguyên vật liệu chiếm 61,3%, nhóm hàng
tiêu dùng chiếm 6,2%.
- Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng khá mạnh. Hiện nay, khu vực có vốn
đầu tư nước ngồi đã tăng cao hơn khu vực kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân.
Trong năm 2006, kinh tế tập thể chỉ chiếm khoảng 6,8% GDP, đối với khu vực
kinh tế tư nhân là trên 9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là trên 16%. Xét
sự tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi qua các giai đoạn :
Trước năm 1980 : hầu như chưa có gì.

năm 1995 : 6,3%
năm 2000 : ~ 13,3%
năm 2005 : 15.89%
năm 2006 : trên 16%
Có thể thấy rằng từ sau khi thực hiện chính sách mở cửa, lượng vốn nước ngoài
đổ vào nước ta đã tăng lên đáng kể.
Việc kí kết các hiệp định về vốn ODA trong 5 năm qua được duy trì đều đặn với
tổng giá trị đạt 11,2 tỉ USD, vốn giải ngân đạt 7,9 tỉ USD. Từ năm 1993 – 2005,
tổng giá trị ODA cam kết là 32,5 tỉ USD, kí kết hiệp định là 24,7 tỉ USD và giải
ngân được 15,8 tỉ USD. Riêng trong năm 2006, vốn ODA của Nhật cam kết là 890
triệu USD, Liên minh Châu Âu là 948 triệu USD. Hiện nay nguồn vốn ODA chiếm
11% tổng đầu tư toàn xã hội, bằng 17% vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Vốn
ODA tập trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đào tạo
nguồn nhân lực, xố đói giảm nghèo, tăng cường thể chế, bảo vệ mơi trường.
Vốn FDI cũng có những chuyển biến khá mạnh. Tổng mức vốn đăng kí là 20,9 tỉ
USD, vượt kế hoạch 395; tổng vốn thực hiện là 14,3 tỉ USD, vượt 30% so với kế
hoạch. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng
kim ngạch xuất khẩu đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm
cho hàng triệu lao động.

1
1


Ngồi ra cịn phải kể đến lượng kiều hối của kiều bào ta gửi về xây dựng Tổ
Quốc. Lượng kiều hối gửi về năm 2005 đạt gần 4 tỉ USD, gấp 1,2 lần tổng đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài (FDI) trong năm 2005.
Du lịch Việt Nam cũng đạt được nhiều thành công. Trong năm 2002, ngành du
lịch đã thu về 23.500 tỉ đồng, tăng 14,6% so với năm 2001. Theo thống kê, trong
tháng 11/2005 nước ta đã đón 290.000 lượt khách, nâng tổng số khách du lịch trong

năm lên 3,2 triệu lượt người. Chúng ta cũng đã mở rộng thị trường, tìm kiếm thêm
nhiều bạn hàng lớn như Nga, Nhật, Trung Quốc. Năm 2006, lượng khách Nhật du
lịch Việt Nam chiếm 10,5%; Trung Quốc là 27,7%. Trong 6 tháng đầu năm 2007,
lượng khách Nga tới Việt Nam du lịch là 28.000.
- Các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu thành công trong việc đầu tư một số
dự án nước ngoài, cổ phiếu của một số doanh nghiệp lớn như VINAMILK,… đã
được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán ở London. Đây là những tín hiệu
đáng mừng cho kinh tế Việt Nam.
2. Hạn chế :
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng kinh tế đối ngoại nước ta vẫn cịn nhiều
hạn chế :
2.1. Về phía Nhà nước :
Việt Nam cịn thiếu một lộ trình chủ động trong hội nhập kinh tế với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù đang trong tiến trình hội nhập nhưng nước ta vẫn chưa hồn thiện pháp
luật, thể chế, chính sách, chưa cải cách cơ cấu kinh tế. Các văn bản pháp luật còn rườm
rà,nhiều thủ tục, chưa thật sự đi sâu vào đời sống và gây ảnh hưởng không tốt tới môi
trường đầu tư.
Môi trường đầu tư của nước ta kém hấp dẫn hơn so với một số nước trong khu vực.
Vì vậy lượng vốn đầu tư cũng như cơng nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn đổ
vào nước ta còn hạn chế. Mặt khác, chúng ta cũng chưa chủ động trong việc khai thác
vốn đầu tư gián tiếp quốc tế. Đây rõ ràng là một hạn chế lớn của Việt Nam trong tiến
trình hội nhập.
Cùng với đó, tỉ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến của ta vẫn cịn thấp, quy mơ xuất
khẩu cịn nhỏ, nhập siêu còn lớn. Theo báo cáo phát triển thế giới năm 2006 của Ngân
hàng thế giới, năm 2004 xuất khẩu bình quân đầu người của nước ta bằng 70% so với
Trung Quốc, gần bằng 20% của Thái Lan, bằng 6% của Malaysia và mới bằng 22%
mức bình quân của thế giới.
Bên cạnh đó, việc giải ngân vốn ODA cịn chậm, chiến lược vay và trả nợ nước
ngoài cũng chưa được chuẩn bị thật tốt. Chũng ta cũng chưa có những định hướng và

chiến lược đúng đắn trong việc sử dụng nguồn vốn vay ODA trong việc phát triển kinh
tế đất nước, gây thất thốt vốn một cách lãng phí, đồng thời tạo ấn tượng không tốt với
các nước cho vay.
2.2. Về phía doanh nghiệp :
Trước tiên, có thể thấy rõ rằng hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam chính là sự
yếu kém trong việc cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đối với hàng hố nước ngồi.
Ngun nhân chủ yếu của vấn đề này là do trình độ khoa học kĩ thuật, trang thiết bị
máy móc, cũng như cơng nghệ của chúng ta vẫn còn hạn chế, lạc hậu hơn so với các
1
2


nước trong khu vực và quốc tế. Trong các vụ kiện với Mĩ, ta khơng thể biện hộ được
trước lí do Mĩ đưa ra: sản phẩm của Việt Nam giá rẻ vì khơng đảm bảo đúng các quy
trình cơng nghệ, các tiêu chuẩn chất lượng trong quá trình sản xuất, và dẫn đến việc
chúng ta bị thua kiện trong các vụ kiên bán phá giá cá tra, cá basa, tôm, …. Đây là điều
không thể chối cãi khi mà việc cải tiến công nghệ ở nước ta vẫn đang được tiến hành
mọtt cách dè dặt, chậm chạp.
Hơn nữa, ngày nay, nạn hàng giả, hàng kém chất lượng đang tràn lan trên thị
trường trong khi chính phủ vẫn chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ cũng làm mất lòng
tin của người tiêu dùng vào hàng hóa Việt Nam. Mặc dù các biện pháp cải cách đang
được thúc đẩy nhưng rõ ràng vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá của doanh
nghiệp và nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa theo kịp yêu cầu hội nhập.
Hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa dừng lại ở đó. Dù giải quyết
được vấn đề cơng nghệ họ vẫn cịn phải đối mặt với vấn đề đội ngũ công nhân điều
khiển máy móc. Lực lượng cơng nhân của nước ta hạn chế cả về học vấn cũng như
trình độ, kinh nghiệm vận hành máy móc. Đây thực sự là một vấn đề cấp bách, nhất là
khi chúng ta đã gia nhập WTO thì yêu cầu về lực lượng lao động lành nghề, trình độ
cao la rất cần thiết.
Ngồi ra, vấn đề tìm kiếm và xây dựng đối tác cũng là một trở ngại đối với các

doanh nghiệp Việt Nam. Trước ngưỡng cửa hội nhập chúng ta dường như vẫn còn lúng
túng trong việc tìm kiếm đối tác thích hợp. Mặc dù việc thận trọng trong hội nhập hiện
nay là cần thiết nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần biết nắm đúng thời cơ trên
thương trường quốc tế. Vấn đề rất cấp thiết đặt ra lúc này chính là chúng ta phải tìm
kiếm dược những đối tác mạnh, có kinh nghiệm quản lý, có trình độ cơng nghệ cao mà
chúng ta đang rất cần học hỏi.
III / GIẢI PHÁP :
1. Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại :
1.1. Mục tiêu :
Đối với nước ta, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải từng
bước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.Trong thời gian trước mắt, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - nhiệm
vụ trọng tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó phải được quán triệt
với mọi ngành, mọi cấp hoạt động cũng như mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại.
1.2. Phương hướng :
Xuất phát từ quan điểm của Đảng: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế…”, phương hướng cơ bản nhằm mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trong thời kì quá độ là :
- Đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại và đa dạng hố các hình thức kinh tế
đối ngoại. Đây là phườn hướng chủ yếu của quan hệ quốc tế trong giai đoạn hiện nay –
giai đoạn hoà bình, phát triển trở thành xu hướng cơ bản của thời đại.

1
3


- Chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đơi với việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên

ngoài nhằm kết hợp sức mạnh thời đại một cách có hiệu quả.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường quốc tế đã từng bước hiện đại hoá, trở
thành nền kinh tế thị trương hiện đại và thống nhất, đồng thời cũng luôn biến động, vì
vậy việc phát triển kinh tế đối ngoại cần tôn trọng và tuân thủ cơ chế thị trường, thông
qua việc phát triển kinh tế đối ngoại mà củng cố, phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại :
Các giải pháp phát triển kinh tế đối ngoại đều phải dựa trên cơ sở những nguyên
tắc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Chính vì vậy, việc nắm vững
những ngun tắc này là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
1.3.1. Bình đẳng :
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa
chọn dối tác trong quan hệ kinh tế giữa các nước.
Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗiquốc gia trong cộng
đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của
sự hình thành và phát triển của thị trương quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Vời
tư cách là thành viên, mỗi quốc gia phải được đảm bảo có quyền kinh doanh, quyền tự
chủ như mọi quốc gia khác.
1.3.2. Cùng có lợi :
Nguyên tắc này giữ vai trò là nền tảng thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa
các nước với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng
các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế bởi mỗi nước đều có
những lợi ích kinh tế, lợi ích dân tộc riêng. Trong nền kinh tế thị trường thế giới
nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức nếu các quốc gia tham dự
khơng có cùng lợi ích kinh tế.
Ngun tắc cùng có lợi cịn là động lực kinh tế để duy trì lâu dài mối quan hệ kinh
tế giữa các quốc gia với nhau.
1.3.3. Tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi

quốc gia :
Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập, có chủ quyền
về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng và
nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau bởi xét cho cùng chỉ
khi cùng có lợi ích về kinh tế thì mới tạo cơ sở để cùng có lợi ích về chính trị, qn sự
và xã hội.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng các
yêu cầu :
- Tôn trọng các điều khoản đã được kí kết trong các nghị định giữa các chính phủ
và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
- Không đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau.

1
4


- Khơng dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào cơng việc nội bộ của các
quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kĩ thuật và kích động để can
thiệp vào đường lối, thể chế chính trị của các quốc gia đó.
1.3.4. Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa
đã chọn :
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và
thực hiện quan hệ đối ngoại, vừa là ngun tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội
chủ nghĩa, trong đó có nước ta.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau, bên cạnh việc xử lý tốt mối
quan hệ về lợi ích kinh tế, cũng cần phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và
lợi ích chính trị.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc giữ vững định hướng xã hội chủ

nghĩa, giữ vững độc lập dân tộc để từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
2. Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hiệu quả kinh tế đối
ngoại ở nước ta :
2.1 Về phía nhà nước:
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nhà nước ta cần thực
hiện đồng bộ nhiều chính sách, trong đó có những biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhà nước ta cần đảm bảo sự ổn định về mơi trường chính trị, kinh tế- xã
hội. Có thể nói đây là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối
ngoại, đặc biệt là đối với thu hút đầu tư nước ngồi- một trong những hình thức chủ
yếu, quan trọng của kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng, nếu sự ổn
định chính trị khơng được đảm bảo, môi trường kinh tế không thuận lợi, thiếu các
chính sách khuyến khích, mơi trường xã hội thiếu tính an tồn sẽ tác động xấu tới quan
hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngồi và thu hút khách
du lịch.
Vì vậy, công việc trước mắt cần làm là chúng ta phải tiếp tục đổi mới thể chế kinh
tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung hồn chỉnh hệ thống pháp luật
nhằm đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch cũng như có những
chính sách khuyến khích phát triển hợp lí. Đồng thời, để phát triển bền vững, đảm bảo
sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm
lực và đẩm bảo an ninh kinh tế, đi đoi với củng cố quốc phòng và an ninh.
Thứ hai, có chính sách hợp lý đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại. Đây là giải
pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng, có hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, mặt
khác cần phải sử dụng linh hoạt các chính sách phù hợp với những điều kiện cụ thể,
đặc biệt là phải sử dụng chính sách hợp lý đối với từng hình thức đối ngoại:
- Đối với hình thức ngoại thương :
+ Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu – chính sách mặt hàng
xuất khẩu. Chính sách mặt hàng xuất khẩu trong những năm tới vẫn là tăng nhanh
hàng đã qua chế biến, giảm tỉ trọng xuất khẩu hàng nguyên liệu sơ chế. Hơn nữa
phải gấp rút nâng cao trình độ cơng nghệ, hạ thấp giá thành, tiếp cận thị trường thế

giới.
1
5


+ Về nhập khẩu – chính sách mặt hàng nhập : trong thời gian tới chính sách nhập
khẩu phải tập trung vào nguyên liệu, vật liệu, các loại thiết bị đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố.
+ Giải quyết đúng dắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và chính
sách bảo hộ thương mại.
+ Hình thành một tỉ giá hối đoái sát với sức mua của đồng tiền Việt Nam.
- Đối với hình thức đầu tư quốc tế: cần tiếp tục đổi mới chính sách và cải thiện
mơi trường đầu tư, xố bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội
đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn; khuyến khích người Việt
Nam định cư ở nước ngồi chuyển vốn và cơng nghệ về nước tham gia đầu tư.
Ngoài ra, cũng cần tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để thu hút các nguồn
vốn quốc tế như FDI, ODA, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác, tăng sức
hấp dẫn đối với các công ty, nhất là các công ty xuyên quốc gia.
- Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức kinh tế đối
ngoại khác như hợp tác trong lĩnh vực sản xuất, hợp tác khoa học – công nghệ, đầu
tư quốc tế, các dịch vụ thu ngoại tê,…
Thứ ba; xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - kĩ thuật. Trong điều kiện
nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội yêu cầu chất lượn ngày càng cao và đóng vai trị ngày càng quan trọng trong nền
kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng.
Đối với nước ta, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều hạn chế; hệ
thống đường bộ chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp; hệ thống điện vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu cả về nguồn điện, lưới điện và chất lượng điện. Hơn nữa, hạ tầng bưu chính viễn
thơng cịn thiếu tính đồng bộ, chất lượng dịch vụ cịn thấp nhưng giá thành cao. Do vạy
cần phải có chiến lước đầu tư đúng đắn, nhất là tập trung đầu tư có trọng điểm, dứt
điểm và có hiệu quả cao, đặc biêt pahỉ chống các hiên tượng tiêu cực gây thất thốt vốn

đầu tư.
Thứ tư, tăng cường vai trị quản lý của nhà nước đối với kinh tế đối ngoại. Vai trò
quản lý của nhà nước là rất quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và kinh tế đối
ngoại nói riêng. Chỉ có tăng cường vai trị quản lý của nhà nước mới có thể đame bảo
mục tiêu, phương hướng đã đề ra và giữ vững những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế
đối ngoại. Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý của nhà nước sẽ khắc phục được
tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy hiệu quả sự hợp tác trong nước từ đó
có sự cạnh tranh với quốc tế, tránh bị thua thiệt về mặt lợi ích.
Để tăng cường vai trị quản lý, nhà nước cần đỏi mới bộ máy tổ chức, cơ chế quản
lý một cách hợp lý. Ngày 31/7/2007, tại kì họp thứ nhất Quốc hội khố XII, Quốc hội
đã thông qua việc hợp nhất một số bộ, ngành, nhằm đơn giản hố bộ máy nhà nước:
hợp nhất Bộ cơng nghiệp và Bộ hương mại thành Bộ công thương. Đây là bước di hợp
lý trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới bộ máy
nhà nước song vẫn phải phát huy được tính năng động, sáng tạo của các đơn vị, đưa lại
hiệu quả kinh tế ngày càng lớn.
2.2. Về phía doanh nghiệp :
Hoạt động của doanh nghiệp có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Chính vì thế muốn mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, những biện pháp
đối với doanh nghiệp là rất cần thiết :
1
6


Thứ nhất, chúng ta cần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hố Việt Nam. Trong
tồn bộ các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có một phần rất nhỏ đáp ứng được các tiêu
chuẩn quốc tế vầ quy trình cơng nghệ sản cuất hàng hoá. Hơn nữa đa phàn các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam đều là các sản phẩm thô, chưa qua chế biến nên giá
thành rẻ.
Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, các doanh nghiệp phải khẩn
trương đổi mới từ tư duy đến phong cách quản lý, đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí, để tăng sức cạnh tranh. Đồng thời các
doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ quan chức năng để ngăn chặn nạn hàng giả,
hàng kém chất lượng trên thị trường, nâng cao uy tín của hàng hố Việt Nam trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Thứ hai, đào tạo đội ngũ cán bộ có tay nghề cao. Việt Nam vẫn tự hào là nước có
lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Nhưng ngày nay khi chúng ta đã gia
nhập WTO thì đây khơng cịn là một lợi thê. Đội ngũ nhân cơng này hầu hết đều có
trình độ rất thấp và chỉ có khả năng làm việc một cách thủ công, thua kém rất nhiều so
với các nước trong khu vực và quốc tế.
Điều cần làm trước mắt là phải đào tạo một đội ngũ cán bộ nâng cao về trình độ,
tay nghề, có học vấn để có đủ khả năng điều khiển máy móc, cơng nghệ hiện đại phục
vụ cho việc phát triển kinh tế nói chung, mở rộng kinh tế đối ngoại nói riêng.
Thứ ba, xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản, có tính
quyết định đói với hiệu quả kinh tế đối ngoại. Do kinh tế đối ngoại có rất nhiều hình
thức đa dạng nên đối tác cũng rất đa dạng. Vì thế vấn đề vừa xây dựng đối tác, vừa tìm
kiếm đối tác là rất phức tạp, cần được xử lý một cách linh hoạt.
- Đối với đối tác trong nước, chúng ta phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh
mẽ (về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý) có tầm cỡ quốc tế, đóng vai trị
đầu tàu trong quan hệ.
- Đối với đối tác nước ngoài, việc lựa chọn đối tác thích hợp ln là một vấn đề
quan trọng với nước ta. Trong tương lai và về lâu dài chúng ta cần quan tâm hơn
đối với các đối tác là những cơng ty xun quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn
nhất vầ vốn, về cơng nghệ và cả về kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần
khai thác.

KÕt luËn
Thế kỉ 21 đang bước những bước đi đầu tiên. Quá trình hội nhập của Việt Nam
trong thế kỉ 21 – thế kỉ của công nghệ thông tin cũng đang dần được mở rộng. Chủ
1

7


động mở rộng kinh tế đối ngoại thực sự là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát
triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “ sánh vai với các cường quốc năm châu”.Bởi Việt
Nam không chỉ là đi theo xu hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời cơ
cho đất nước.
Việt Nam hội nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó khơng
chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho sự khẳng
định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu
tư...làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế giới.
Mặc dù kinh tế đối ngoại Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn chế chưa thể khắc phục thì
nó vẫn là bộ phận quan trọng, không thể tách rời của kinh tế Việt Nam. Tiếp tục phát
huy những thành tựu đã đạt được, từng bước khắc phục những hạn chế, yếu kém là vấn
đề đặt ra trước mắt trong thời gian tới đây nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại nước ta, góp phần hồn thiện cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tµi liƯu tham kh¶o

1
8


1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac – Lenin (NXB Chính trị Quốc gia)
2. Tạp chí kinh tế đối ngoại
3. Thời báo kinh tế Việt Nam
4. Thời báo Ngân hàng
5. Website : www.dangcongsan.vn

6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X


1
9



×