Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tầm quan trọng của người lao động trong sản xuất. Các biện pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.17 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Tính thời sự của đề tài....................................................................................1
3. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN...........3
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất................................................................3
2. Kết cấu lực lượng sản xuất.........................................................................3
3. Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất.................................4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM..............6
1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay......................................6
2. Thực trạng nguồn nhân lực trong ngành Y.................................................9
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................13
1. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay........................................................................................................13
2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Y ở
Việt Nam hiện nay........................................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................21


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lực lượng sản xuất có một vai trị đặc biệt quan trọng đối với sản xuất xã
hội cũng như quá trình phát triển của lịch sự loài người. Phát triển lực lượng sản
xuất là vấn đề được coi trọng và đề cao trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội.


Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để
tạo ra của cải vật chất để tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng
suất lao động cao. Khi công cụ lao động đạt đến trình độ tự động hố thì vai trị
của nó lại càng quan trọng. Trình độ phát triển cơng cụ lao động là thước đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Nói đúng hơn thì yếu tố quan trọng
nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người.
Việc nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của người lao động trong lực lượng
sản xuất, đồng thời tìm ra các biện pháp nâng cao nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay đóng vai trị rất quan trọng, góp phần xây dựng phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam, cùng với đó là sự phát triển của nền kinh tế, của đất nước. Do đó,
em lựa chọn đề tài số 4: Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất
và các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho bài thu hoạch.
2. Tính thời sự của đề tài
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trị
quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong bối
cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và
Nhà nước ta càng đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay nguồn nhân lực nước ta cịn chưa đạt đến trình độ
cao, không theo kịp sự thay đổi tiến bộ của nền kinh tế, phát sinh 1 số hạn chế
làm cản trở q trình phát triển của đất nước. Do đó, cần thiết phải khắc phục,


2

nâng cao trình độ của nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống nguồn nhân lực chất
lượng cao, đáp ứng kịp xu hướng phát triển của xã hội.
3. Mục tiêu nghiên cứu

Bài đi sâu nghiên cứu vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất.
Đồng thời chỉ ra thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay, đưa ra “tiếng
chng cảnh báo” cho nền kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm xây dựng,
phát triển hệ thống nguồn nhân lực cao, góp phần xây dựng nền kinh tế phát
triển. Đặc biệt, các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong ngành Y
nước ta hiện nay.


3

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu tồn bộ sự
vận động và phát triển của q trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài
người. Vì vậy, C. Mác đã sớm nghiên cứu khái niệm lực lượng sản xuất. Trong
các tác phẩm của mình, mặc dù ông không trực tiếp đưa ra khái niệm lực lượng
sản xuất, nhưng nội hàm của khái niệm này đã được ông đề cập đến ngay từ
những tác phẩm đầu tay.
Theo C. Mác, Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với
tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối
tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
2. Kết cấu lực lượng sản xuất
Khi bàn đến lực lượng sản xuất, C. Mác cũng chỉ ra những yếu tố cơ bản
cấu thành nên nó, xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu
sản xuất) và mặt kinh tế -xã hội (người lao động). Theo ông, để cải biến giới tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, người lao động cần phải có một sức mạnh
tổng hợp. Trước hết, đó là sức mạnh của thể chất và trí tuệ - những yếu tố tạo

nên khả năng lao động của con người. Ông viết: “Để chiếm hữu được thực thể
của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con
người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và
hai bàn tay”. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quá trình sản xuất vật chất vẫn
chưa thể diễn ra. Ngoài bản thân chủ thể lao động, con người còn sử dụng những
yếu tố khác, như “sử dụng những thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật,
để tùy theo mục đích của mình, dùng những vật đó làm cơng cụ tác động vào
các vật khác” Những vật đó được C. Mác gọi là “khí quan”, giúp người lao động


4

có khả năng nối dài đơi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào giới tự nhiên
trở nên có hiệu quả hơn. Nếu tư liệu sản xuất là điều kiện cần của quá trình sản
xuất vật chất thì người lao động chính là chủ thể, đóng vai trị quyết định sự phát
triển của sản xuất. Như vậy, theo C. Mác, nếu khơng có con người biết chế tạo,
sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên thì sẽ khơng có q trình
sản xuất vật chất.
3. Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao
động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã
hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong
nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao
động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ khơng có bất cứ tác dụng nào nếu khơng có
một lực lượng xã hội để tiến hành sản xuất vật chất. Tư liệu sản xuất sẽ trở thành
vô nghĩa nếu khơng có sự tác động của con người. Điều này đã được C.Mác
khẳng định như sau: “Giới tự nhiên khơng chế tạo ra bất kỳ máy móc nào,
khơng chế tạo ra xe hơi, đường sắt, điện báo, máy dệt... Chúng là sản phẩm lao

động của con người, đã biến thành vật chất tự nhiên của ý chí con người điều
khiển tự nhiên hoặc bộ máy hoạt động của con người trong giới tự nhiên.
Chúng là cơ quan đầu não của con người được sáng tạo bởi bàn tay con người;
là lực lượng tri thức được vật hóa”. Như vậy, nếu khơng có con người chế tạo
và sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên thì sẽ khơng có q
trình sản xuất vật chất.
C.Mác đã khẳng định hoạt động sản xuất chính là một dạng hoạt động chỉ
có ở con người, nó khác hẳn về chất so với hoạt động của con vật: “Con nhện
làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng việc xây
dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong phải làm cho một số nhà kiến trúc
phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con


5

ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc
đã xây dựng chúng ở trong đầu mình rồi. Cuối quá trình lao động, người lao
động thu được cái kết quả mà họ đã hình dung ngay từ đầu quá trình ấy, tức là
đã có trong ý niệm rồi”.
Khi tham gia vào q trình sản xuất, trước hết, người lao động sử dụng
sức mạnh cơ bắp. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến hành sản xuất bằng sức mạnh thể chất
thuần túy thì con người sẽ khơng bao giờ tiến xa hơn động vật. Vì con người là
một sinh vật xã hội nên ngoài sức mạnh cơ bắp, con người cịn có cả trí tuệ, ý
thức và tồn bộ hoạt động tâm sinh lý, do đó lao động của họ trở nên khéo léo,
linh hoạt, năng động, sáng tạo hơn. Chính điều này làm cho các q trình sản
xuất vật chất có thể giống nhau ở máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào
nhưng sản phẩm đầu ra của những lao động khác nhau lại rất khác nhau. Điều đó
cho thấy rõ vai trị quyết định của nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất.



6

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Nguồn nhân lực luôn được xem là một yếu tố tạo nên sự thành công của
mọi tổ chức, quốc gia. Đây là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định năng suất,
chất lượng hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác trong hệ thống các nguồn lực.
Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ việc thực hiện “Đột phá chiến lược về
đào tạo nhân lực” và đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục vẫn còn những hạn
chế về nhận thức và tổ chức thực hiện, như: Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục
và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm
vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả
giáo dục và đào tạo chưa cao.
Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thơng
giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình
giáo dục và đào tạo cịn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết
với nghiên cứu khoa học, sản xuất - kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao
động; Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học;
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan
tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả năng tự học, kỹ năng
sáng tạo,... Chính vì vậy, cần có giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong thời đại công nghệ 4.0 là việc rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), tính đến tháng 6/2022,
nguồn nhân lực của Việt Nam ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số.
Quy mô dân số cả nước ước đạt 97,58 triệu người, trong đó, lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên khoảng 54,6 triệu người, chiếm gần 65% so với quy mơ dân số
cả nước. Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng
lao động. Riêng trong năm 2020, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, lực lượng

lao động từ 15 tuổi trở lên ước giảm 1,2 triệu người so với năm 2019, chủ yếu là


7

do sự sụt giảm ở khu vực nông thôn (giảm hơn 1,1 triệu người). Trong số lực
lượng lao động năm 2022, lực lượng lao động tăng từ 27,87 triệu người (năm
1986), đến nay là 51,4 triệu người (quý 2/2022); tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng
49% (năm 2014), nay là 67% (6 tháng đầu năm 2022).
Về chỉ số phát triển con người (HDI): Trong giai đoạn 2016 - 2020, HDI
của cả nước và hầu hết 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng qua
các năm. HDI của cả nước tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,687 năm 2017; 0,693
năm 2018; 0,703 năm 2019 và 0,706 năm 2020. Theo đó, Việt Nam từ Nhóm
các quốc gia, vùng lãnh thổ có HDI trung bình năm 2018 và những năm trước
đó đã gia nhập Nhóm đạt mức cao trong năm 2019 và năm 2020. Thứ hạng HDI
của Việt Nam trong các quốc gia, vùng lãnh thổ thế giới tăng từ vị trí 118 năm
2018 lên 117 năm 2019 và có thể tiếp tục được cải thiện trong năm 2020 khi
UNDP cập nhật Bảng xếp hạng. Cụ thể, HDI của cả nước và hầu hết các địa
phương đều tăng, nhưng tốc độ tăng thấp. Năm 2020, HDI của cả nước đạt
0,706, chỉ tăng 0,024 so với năm 2016 với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 0,9%.
HDI của cả nước tuy đã chuyển từ Nhóm 3 lên Nhóm 2 nhưng mới ở mức thấp
của Nhóm 2. Trong Bảng xếp hạng HDI thế giới, thứ hạng của Việt Nam cải
thiện không nhiều và trong khu vực Đông Nam Á vẫn xếp thứ 7/11 quốc gia.
Điều này cho thấy, chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung, đào tạo nhân lực nói
riêng, chưa đóng vai trị chủ đạo trong phát triển nhân tố con người, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao.
Về cơ cấu trình độ nhân lực được đào tạo: Trình độ học vấn của nhân lực
Việt Nam liên tục được cải thiện qua từng năm. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đã
tăng hơn gấp 2 lần sau khoảng 20 năm, từ 10,3% (năm 2000) lên 22,8% (năm
2019). Giai đoạn 2009 - 2019, trình độ học vấn của nguồn nhân lực Việt Nam đã

được nâng cao; phân bổ lực lượng lao động theo trình độ học vấn tăng mạnh ở
các nhóm trình độ cao và giảm mạnh ở các nhóm trình độ thấp.
Khơng chỉ trình độ học vấn được nâng cao, trình độ chun mơn kỹ thuật
của nguồn nhân lực Việt Nam cũng không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ dân số có


8

chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên đáng kể so với năm 2007, tăng 6,3 điểm phần
trăm, từ 17,7% (năm 2007) lên 24% (quý II/2020). Tỷ lệ dân số có trình độ đại
học trở lên tăng mạnh nhất, từ 4,9% (năm 2007) lên 11,1% (quý II/2020). Điều
này cho thấy trong những năm qua, giáo dục đại học và trên đại học của Việt
Nam đã có những thay đổi lớn, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn cần chú trọng và nỗ lực hơn nữa trong
giáo dục, đào tạo nghề để có được nguồn nhân lực có kỹ năng tốt phục vụ công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây của Bộ Lao động, Thương binh và xã
hội, lao động khơng chính thức và phổ thông vẫn chiếm chủ yếu. Lực lượng đã
qua đào tạo, có chứng chỉ, bằng cấp cịn thấp, khoảng 24,5% năm 2020 (so với
kế hoạch đặt ra là 40%). Trong khi nhân lực đã qua đào tạo chưa phù hợp với
nhu cầu thực tiễn, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Năng suất lao động
(NSLĐ) của Việt Nam vẫn thấp so với các nước trong khu vực. Theo Tổng cục
Thống kê: Tính theo giá hiện hành, NSLĐ của Việt Nam năm 2016 đạt 84,4
triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 7.398 USD) và đến năm 2021 đạt
171,3 triệu đồng/lao động, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2016. Năm 2019, năng
suất lao động Việt Nam đạt 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792
USD). Lao động Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực cơng nghiệp và dịch vụ, góp phần vào gia tăng năng suất
lao động.
Mặc dù, gia tăng NSLĐ của Việt Nam chủ yếu là gia tăng năng suất nội

ngành, song sự chuyển dịch lao động cũng đóng góp khoảng 1/3 gia tăng NSLĐ
tổng thể của nền kinh tế. So với các quốc gia trong khu vực ASEAN, thời gian
qua, Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao. Tính chung
giai đoạn 2011 - 2019, năng suất lao động theo sức mua tương đương năm 2017
(PPP 2017) của Việt Nam tăng trung bình 5,1%/năm, cao hơn so với mức tăng
bình quân của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines hay Indonesia. Tuy
vậy, năng suất lao động Việt Nam hiện vẫn rất thấp so với các quốc gia khác


9

trong khu vực: Chỉ bằng 8,4% mức năng suất của Singapore, 23,1% của
Malaysia, 41,5% của Thái Lan, 55,5% của Indonesia và 62,8% của Philippinse;
chỉ cao hơn năng suất lao động của Campuchia (gấp 1,8 lần). Theo Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO), năm 2021, lao động Singapore đóng góp vào GDP cả nước
73,7 USD trong 1 giờ lao động, trong khi lao động Việt Nam đóng góp khoảng
7,3 USD/giờ vào GDP.
2. Thực trạng nguồn nhân lực trong ngành Y
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách và tạo ra những thay đổi tích
cực trong việc tăng số lượng nguồn nhân lực y tế, nhưng trên thực tế, ngành y
vẫn cịn gặp nhiều khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực, dẫn đến hạn chế
chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở nước ta, đó là:
Thứ nhất, phân bổ nguồn nhân lực mất cân đối, bất hợp lý theo vùng,
miền, lĩnh vực
Nhiều khu vực còn thiếu nhân lực y tế như Vùng đồng bằng sông Cửu
Long và Tây Nguyên có tỷ lệ bác sĩ trên vạn dân thấp nhất so với cả nước. Đặc
biệt, một số lĩnh vực: pháp y, giải phẫu, lao, phong, tâm thần… của ngành y tế
thiếu nhân lực hơn hẳn các lĩnh vực khác. Lý do của sự thiếu hụt này là do thu
nhập thấp, khơng đủ thu hút cán bộ y tế. Tình trạng thiếu nhân lực y tế nói
chung và nhân lực có trình độ là bác sĩ ở tuyến y tế cơ sở, cũng như nhân lực y

tế dự phòng vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại, trong khi tỷ lệ số trạm y tế có bác sĩ
ở Hà Nội là 93,8% thì Lào Cai là 35,4%; Quảng Nam là 31,6%, cá biệt ở Quảng
trị chỉ 8,5% số trạm y tế xã có bác sĩ làm việc. Tình trạng biến động nguồn nhân
lực y tế tại tuyến huyện, xã là vấn đề Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa. Số
cán bộ nghỉ việc, chuyển đi ở các cơ sở tuyến huyện bằng 50% tổng số nhân lực
mới tuyển dụng, ở tuyến xã, số nhân lực nghỉ việc, chuyển đi bằng 30% số mới
tuyển (4). Nhiều bệnh viện huyện, trung tâm y tế huyện nhiều năm không tuyển
được bác sĩ nào trong khi số lượng cán bộ chuyển đi nơi khác vẫn tiếp diễn.
Thứ hai, quản lý, sử dụng nhân lực y tế còn nhiều bất cập, hạn chế


10

Mạng lưới y tế cơ sở nói chung, gồm cả tuyến xã và tuyến huyện, chưa tạo được
niềm tin cho người dân vào chất lượng dịch vụ, dẫn tới tình trạng các bệnh viện
tuyến trung ương bị quá tải, trong khi các cơ sở y tế tuyến dưới không hoạt động
hết cơng suất. Ngun nhân của tình trạng này là do cơ chế sử dụng nhân lực
của Nhà nước và ngành y tế chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm
chưa rõ ràng, tính trách nhiệm của người cán bộ y tế khơng cao, dẫn tới lãng phí
nguồn lực. Bên cạnh đó, việc tn thủ các chế độ, chính sách, quy định trong
quản lý, sử dụng nhân lực y tế vẫn cịn nhiều vấn đề, góp phần làm hạn chế năng
lực nguồn nhân lực y tế.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực tuyến y tế cơ sở còn thấp
Chất lượng nguồn nhân lực y tế ở tuyến cơ sở, vùng sâu, vùng xa, miền núi chưa
đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Năng lực của cán bộ y
tế, kể cả bác sĩ của tuyến xã yếu, thậm chí khơng đủ khả năng cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nhiều trạm y tế khang trang, không thiếu trang thiết
bị nhưng cán bộ y tế nơi đây lại không biết sử dụng. Đây là vấn đề mà Nhà nước
cần ưu tiên giải quyết trong những năm tới. Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ làm việc
tăng hàng năm, nhưng bác sĩ ở tuyến xã đa phần là học tại chức, hoặc chuyên tu

nên năng lực chuyên môn thấp. Tỷ lệ cán bộ y tế xã có kiến thức và kỹ năng đạt
yêu cầu trong sơ cấp cứu, chẩn đoán và điệu trị một số bệnh, cũng như kiến thức
về xử lý bệnh dịch rất hạn chế. Một điều tra cho thấy chỉ có 17,3% số bác sĩ và y
sĩ có kiến thức và kỹ năng đúng trong xử lý sơ cấp cứu, 17% số bác sĩ và y sĩ
được hỏi biết được các dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ phụ nữ mang thai,
50,5% cán bộ y tế được hỏi biết cách chẩn đoán tăng huyết áp, 15,6% biết cách
xử lý một vụ dịch. Kết quả từ một số khảo sát khác cũng cho thấy kiến thức về
chăm sóc sức khỏe sơ sinh của cán bộ trạm y tế chỉ đạt 60% so với chuẩn quốc
gia; 54,3% bác sĩ có kiến thức đúng về chẩn đoán và điều trị các mức độ mất
nước tiêu chảy.
Nghề y là một nghề đặc biệt. Nhân lực ngành y tế phải đáp ứng yêu cầu cả
về chun mơn và y đức; vì thế cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi


11

ngộ đặc biệt. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tăng cường cơng
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới (Nghị
quyết số 20-NQ/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2017) xác định mục tiêu tổng quát:
Nâng cao sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng
cuộc sống của người Việt Nam. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng,
hiệu quả và hội nhập quốc tế. Phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại
chúng. Bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khoẻ.
Để thực hiện mục tiêu đó, cần xây dựng hệ thống mạng lưới y tế rộng
khắp, gần dân; được chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt về chuyên môn, nghiệp vụ
theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong phạm vi cả nước, đồng thời bảo
đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương. Đồng thời, cần
xây dựng đội ngũ cán bộ y tế “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”, có năng lực
chun mơn vững vàng, tiếp cận trình độ quốc tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh
trong chuỗi sản xuất, cung ứng dược phẩm, dịch vụ y tế.

Trong phát triển ngành y tế, bên cạnh việc xây dựng khung khổ pháp lý
thống nhất; xây dựng mạng lưới y tế đồng bộ trong tồn quốc; đầu tư nguồn lực
tài chính một cách thỏa đáng để ngành y tế có thể làm tốt việc chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, Nhà nước cịn phải xây dựng, đào tạo đủ và phân bổ hợp lý
nguồn nhân lực cho cho ngành y tế để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày
càng cao của quần chúng nhân dân.
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực y tế ln có vai trị quan trọng, quyết
định đến việc thành công hay thất bại trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng
đồng. Bởi một trong những yếu tố quyết định đến vai trò của Nhà nước đối với
quản lý phát triển y tế là đội ngũ nhân lực. Nguồn nhân lực y tế có đủ năng lực,
chuyên mơn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức… có vai trị quan trọng dẫn đến
thành công hay thất bại trong việc nhà nước thực hiện vai trị chủ đạo của mình
đối với cơng tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Các chính sách của nhà nước
trong lĩnh vực y tế có đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn hay không, việc thực


12

hiện các chính sách ấy có hiệu quả hay khơng, có phát huy được tác dụng hay
khơng… phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất, đạo đức của nguồn nhân lực y tế.
Mặt khác, nhu cầu về thầy thuốc và cán bộ thuộc nhiều chun mơn khác
nhau cũng đang địi hỏi phải đào tạo bác sĩ, dược sĩ, y tá, hộ lý với số lượng
ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng cao, cơ cấu hợp lý, nắm bắt các kiến
thức y học hiện đại, giỏi thực hành, có y đức tốt… Trong xây dựng đội ngũ cán
bộ y tế nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn cho cơng tác chăm sóc sức khỏe cộng
đồng, địi hỏi Nhà nước phải có chính sách thích hợp, thể hiện ở tất cả các khâu
từ tuyển chọn, đào tạo, đãi ngộ và tôn vinh.


13


CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực có trí tuệ, tay nghề,
năng lực tốt, được đào tạo cơ bản, chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của thực tiễn đất nước, của thị trường lao động hiện nay. Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao được xem là yếu tố quan trọng, nòng cốt bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định trong điều
kiện phát triển kinh tế tri thức thời đại mới. Trong những năm qua, Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, để sớm hoàn thành mục
tiêu đưa Việt Nam trở thành nước cơng nghiệp vào năm 2030 và nằm trong
nhóm nước phát triển thu nhập trung bình cao vào năm 2045 cần áp dụng
đồng thời các biện pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực thông qua nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo
Định hướng giáo dục theo nhu cầu nhằm tạo ra sự cân bằng trong đào
tạo và sử dụng nhân lực ở các ngành nghề, vùng, miền và các thành phần kinh
tế. Tránh lãng phí khơng cần thiết khi đào tạo lao động có bằng cấp mà không
được sử dụng hay sử dụng sai so với nội dung đào tạo. Hệ thống giáo dục
quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập. Các chương trình đào tạo, phương pháp giảng
dạy cần được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; bên cạnh các
kiến thức trong sách vở, người học cần được thực hành nhiều hơn, cũng như
cần được trang bị thêm các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày
càng cao của xã hội.



14

Đẩy nhanh việc xây dựng các chuẩn đầu ra dựa trên tiêu chuẩn nghề
phù hợp với Khung trình độ quốc gia, trước mắt tập trung vào các nghề trọng
điểm, các nghề có trong danh mục của hội thi tay nghề ASEAN; Rà soát và
điều chỉnh việc xây dựng các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, theo
hướng linh hoạt, tăng tính thực hành.
Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề, ưu tiên tập
trung các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; rà soát, chỉnh sửa các danh mục
thiết bị đã ban hành theo hướng tiếp cận với các nước trong khu vực; áp dụng
tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Đồng
thời, rà soát, thống nhất các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục
nghề nghiệp; xây dựng các cơ chế, quy định về đảm bảo chất lượng; các cơ
chế, quy định và phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo chất lượng trong các
cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo nhân lực trẻ có kỹ năng nghề cao, đáp
ứng u cầu nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cụ thể, tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục
nghề nghiệp chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm; hình thành các trường
chất lượng cao, các trung tâm quốc gia, trung tâm vùng đào tạo và thực hành
nghề chất lượng cao có tính chất hạt nhân, dẫn dắt, lan tỏa và thực hiện liên
kết vùng hiệu quả, đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ năng nghề cao của một số
ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn; phát triển các chương trình đào tạo
chất lượng cao gắn với các ngành nghề mới, ứng dụng công nghệ mới, công
nghệ cao, kỹ năng mới, kỹ năng tương lai; khuyến khích, tạo điều kiện phát
triển các chương trình liên kết đào tạo với nước ngồi, các chương trình đào
tạo kỹ năng nghề cao cho người nước ngoài tại Việt Nam; đánh giá, nhân
rộng đào tạo theo các chương trình chuyển giao từ nước ngồi; áp dụng cơng
nghệ đào tạo, nhân rộng các mơ hình đào tạo tiên tiến của các nước phát triển;

thí điểm mời giảng viên nước ngồi giảng dạy một số ngành, nghề chất lượng
cao theo chuẩn quốc tế.


15

Đồng thời, đa dạng hóa, đổi mới căn bản phương thức tổ chức đào tạo
theo tiếp cận phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất thanh niên; khai
phóng tiềm năng, khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực vận
dụng kiến thức, kỹ năng của thanh niên vào thực tiễn nghề nghiệp; đổi mới
phương thức đánh giá và cơng nhận tốt nghiệp có sự tham gia của doanh
nghiệp đối với các chương trình chất lượng cao…
Thứ ba, dự báo nhu cầu nhân lực cho các địa phương và các lĩnh
vực ngành nghề
Trong giai đoạn hiện nay, nguồn nhân lực Việt Nam đứng trước những
cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 không chỉ ở trong nước, mà còn chịu ảnh
hưởng bởi các tác động từ khu vực do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên
cạnh những áp lực hiện tại và trong ngắn hạn từ thực trạng nền kinh tế nước ta
hiện nay, những áp lực trong ngắn đến trung hạn từ tác động của khu vực và
xa hơn nữa là các tác động của thị trường toàn cầu trong bối cảnh CMCN 4.0
phát triển mạnh mẽ.
Thứ tư, cơ cấu, phân bố lại nhân lực từng vùng, từng khu vực, địa
phương.
Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng trong đào tạo,
hướng nghiệp cho học sinh, qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng tích cực, phù hợp với nhu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ
nhằm thu hút nguồn nhân lực từ nơi thừa sang nơi thiếu; từ thành phố, đồng
bằng lên vùng sâu, vùng xa. Đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, nơng thơn, đồng thời có các giải pháp căn bản để chuyển

đổi cơ cấu ngành nghề, tích cực mở rộng hệ thống cơ sở đào tạo nhằm từng
bước nâng cao chất lượng lao động tại các khu vực nông thôn và miền núi.
Cùng với việc đào tạo lao động tại chỗ, Nhà nước và địa phương cần có chính
sách khuyến khích, thu hút lực lượng lao động trẻ đã qua đào tạo nhưng lại


16

chưa tìm được việc làm ở các khu đơ thị về làm việc tại các khu vực nông
thôn, miền núi.
Thứ năm, tăng cường công tác phối hợp, liên kết với các trường,
viện, học viện, cơ sở đào tạo của trung ương, các trường ở địa phương.
Khuyến khích các cơ sở đào tạo của địa phương phối hợp với các cơ sở đào
tạo trong và ngoài nước, gắn kết các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, mở rộng
hình thức đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và thu hút doanh
nghiệp tham gia nhiều hơn vào đào tạo nhân lực. Có cơ chế tạo điều kiện cho
doanh nghiệp chủ động trong việc liên kết với các cơ sở đào tạo để đặt hàng
nguồn nhân lực. Tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế thành lập cơ sở đào tạo,
hằng năm tổ chức tốt hội chợ việc làm để giải quyết việc làm, đồng thời, nắm
bắt kịp thời nhu cầu sử dụng lao động trên thị trường.
2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Y
ở Việt Nam hiện nay
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực y tế ln có vai trị quan trọng,
quyết định đến việc thành công hay thất bại trong công tác chăm sóc sức khỏe
cộng đồng. Bởi một trong những yếu tố quyết định đến vai trò của Nhà nước
đối với quản lý phát triển y tế là đội ngũ nhân lực. Nguồn nhân lực y tế có đủ
năng lực, chun mơn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức… có vai trị quan trọng
dẫn đến thành cơng hay thất bại trong việc nhà nước thực hiện vai trị chủ đạo
của mình đối với cơng tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Các chính sách của
nhà nước trong lĩnh vực y tế có đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn hay

khơng, việc thực hiện các chính sách ấy có hiệu quả hay khơng, có phát huy
được tác dụng hay khơng… phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất, đạo đức của
nguồn nhân lực y tế. Ngày nay, việc ứng dụng ngày càng rộng rãi những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm tăng
năng suất lao động. Tuy nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh thế
nào cũng khơng thể thay thế hồn tồn vai trị của con người. Đối với ngành


17

Y tế Tiền Giang, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trị quan
trọng, quyết định hiệu quả, chất lượng khám chữa bệnh
Nguồn nhân lực y tế là một trong những ưu tiên trong chính sách y tế
mà Nhà nước Việt Nam phải đầu tư và có trách nhiệm chính. Phát triển nguồn
nhân lực y tế phải tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, Quản lý và phát triển nhân lực y tế. Cần hoàn thiện quy hoạch
tổng thể về phát triển nguồn nhân lực y tế với các giải pháp chiến lược khả
thi, lâu dài và mang tính bền vững. Nâng cao năng lực dự báo nhu cầu nhân
lực y tế, xây dựng quy hoạch chiến lược phát triển nhân lực y tế. Củng cố hệ
thống thông tin về nhân lực y tế là cơ sở để đào tạo, đào tạo lại và phát triển
nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân sự y tế. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng,
đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ nhân lực y tế. Ưu tiên tuyển chọn người
giỏi, trẻ, có tâm huyết, có đạo đức nghề. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng
cường phối hợp liên ngành trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Cử chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ y bác sĩ đi học tập bồi dưỡng nâng cao
trình độ về chun mơn và ứng dụng cơng nghệ khám chữa bệnh, cơng nghệ
số,...
Hai là, rà sốt và chuẩn hóa các chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa, y
tế công cộng, điều dưỡng… Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh giá nhân
lực dựa trên cơ sở năng lực, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động thực tế. Ưu

tiên xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo liên tục cập nhật kiến thức cho
cán bộ y tế tuyến huyện và tuyến xã. Đánh giá hiệu quả của các chính sách, có
biện pháp thu hút, duy trì, tăng cường năng lực nguồn nhân lực y tế tại vùng
sâu, vùng xa để điều chỉnh cho phù hợp. Nâng cấp các cơ sở đào tạo cán bộ y
tế, nâng cao chất lượng giảng viên, đổi mới chương trình đào tạo, tài liệu và
phương pháp giảng dạy: Đổi mới đào tạo nhân lực y tế và tiếp thu các bài học
kinh nghiệm đào tạo nhân lực y tế của thế giới. Xây dựng bộ tiêu chí kiểm
định chất lượng giáo dục y tế đặc thù cho các ngành đào tạo nhân lực y tế đảo
bảo chuẩn đầu ra trong đào tạo nhân lực y tế. Bên cạnh đó, cần phát triển


18

nhân lực y tế làm về kiểm định chất lượng đào tạo trong y tế, từng bước
chuẩn hóa chất lượng đào tạo tại các trường đào tạo nhân lực y tế. Đẩy mạnh
đào tạo sau đại học đối với nhân viên y tế tuyến huyện trước tiên là đội ngũ
lãnh đạo, phụ trách khoa, phòng. Tăng cường đào tạo nước ngoài cho các lĩnh
vực chuyên ngành mà Việt Nam chưa đủ điều kiện đào tạo để phát triển đội
ngũ cán bộ y tế chuyên sâu, cán bộ y tế nòng cốt, chất lượng cao
Ba là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về đảm bảo
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế (kiểm định chất lượng đào tạo, cải tiến
chương trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao năng lực giảng viên về giảng dạy và
nghiên cứu…). Do đặc thù của ngành y với nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, liên
quan đến tính mạng con người, địi hỏi Nhà nước phải giữ vững yêu cầu, chất
lượng cao trong công tác tuyển sinh, đào tạo nguồn nhân lực y tế. Xây dựng
năng lực về đào tạo lại/ đào tạo liên tục về lĩnh vực chuyên môn, chuyển giao
công nghệ, cơ chế quản lý các chương trình đào tạo lại để tránh chồng chéo
hoặc thiếu hụt, chú ý đào tạo lại đối với một số chuyên ngành: quản lý bệnh
viện, y pháp, dự phòng…
Bốn là, sử dụng con người đúng lĩnh vực, đúng chuyên môn. Để đảm

bảo nhân sự cán bộ y tế hoạt động, trong thời gian qua, ngành Y tế đã có
nhiều giải pháp để tuyển dụng và phân công viên chức y tế phù hợp với từng
tuyến, từng cơ sở khám, chữa bệnh; đồng thời đề xuất Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân các tỉnh ban hành các chính sách thu hút, hỗ trợ tạo nguồn nhân
lực bền vững cho ngành Y tế. Đặc biệt, ngành Y tế thực hiện tốt chính sách
thu hút bác sĩ về công tác tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn.
Năm là, từng bước triển khai xây dựng mạng lưới y tế đồng bộ điện tử
trực tuyến từ Trung ương đến cấp cơ sở trên toàn quốc: Đồng bộ hóa cơ sở dữ
liệu y tế trên tồn quốc giảm thiểu chi phí và thời gian trong cung cấp dịch vụ
y tế, từng bước giảm thiểu thủ tục hành chính nhằm năng cao chất lượng dịch
vụ y tế chăm sóc người dân.


19

Nhân lực ngành Y tế là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc cung cấp
các dịch vụ y tế có chất lượng, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân
và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến sức khỏe. Trong
công cuộc cải cách hệ thống y tế tại Việt Nam, một trong những việc trọng
tâm là thực hiện đồng bộ các giải pháp trên nhằm phát triển đội ngũ nhân lực
ngành Y tế “vừa hồng vừa chuyên”.



×