Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Kế hoạch phát triển xuất khẩu của việt nam năm 2008 và một số giải pháp thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.19 KB, 30 trang )

Kế hoạch phát triển xuất khẩu của Việt Nam
năm 2008 và một số giải pháp thực hiện
THURSDAY, 22. MAY 2008, 02:36:09
XU Ấ T NH Ậ P KH Ẩ U, KINH TE
Kế hoạch phát triển xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 và một số giải pháp thực hiện
(18/04/2008)
Việt Nam sau khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), uy
tín trên trường quốc tế ngày một tăng cao, đầu tư FDI tăng mạnh , nhưng kinh tế -
thương mại trong nước cũng gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của toàn xã
hội, sự chỉ đạo điều hành hiệu quả của Nhà nước, kinh tế nước ta tiếp tục đạt được những
thành công trong năm 2007. Trong đó, thắng lợi trong thu hút đầu tư nước ngoài (16 tỷ
USD) và sự phát triển mạnh của thương mại được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là
những nhân tố quan trọng góp phần đạt được những thành công của nền kinh tế năm 2007.
Kết quả hoạt động xuất khẩu năm 2007
Năm 2007, hoạt động xuất của nước ta đã đạt được một số kết quả khả quan thể hiện trên
các mặt: Kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt
3,1% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra. Trong đó: Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 27,3 tỷ USD, chiếm 56,9% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 18,6% so
với năm 2006; khu vực doanh nghiệp trong nước tăng 23,1% so với năm 2006.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,2 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu
nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 1,7 tỷ USD, nhóm nhiên liệu, khoáng sản tăng 0,2 tỷ
USD, nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng 3,7 tỷ USD và nhóm hàng khác tăng 2,6 tỷ
USD.
10 mặt hàng và nhóm hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, gạo, cà phê,
cao su, dầu thô, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và nhóm
sản phẩm cơ khí. Trong đó, ngoài 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày
dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3 tỷ USD, thì 2 mặt hàng điện tử và sản
phẩm gỗ cũng đã đạt trên 2 tỷ USD.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu năm 2007 vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như kim ngạch
xuất khẩu bình quân đầu người thấp so với các nước trong khu vực (xuất khẩu bình quân
đầu người của Singapore là 60.600 USD/người, Malaysia 5.890 USD/người, Thái Lan 1.860


USD/người, Philipin 546 USD/người và Việt Nam 473 USD/người); xuất khẩu tăng trưởng
nhanh nhưng chưa vững chắc, chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố bên ngoài như sự biến
động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của
nước ngoài; cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hoá diễn ra chậm và chưa có giải pháp triệt để. Thị
trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận
lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn hạn chế, mạng lưới đại diện về
thương mại ở nước ngoài chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu.
Kế hoạch xuất khẩu năm 2008
Xuất khẩu năm 2008 đạt tốc độ tăng trưởng 22% với kim ngạch xuất khẩu đạt 58,6 tỷ USD.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản đạt 10,65 tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng 8,2%; nhóm khoáng sản đạt 9,7 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 3,3%; nhóm hàng công
nghiệp chế biến đạt 28 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 30,8%; nhóm hàng hoá khác đạt 10,25 tỷ
USD, tốc độ tăng trưởng 39,5%.
Về thị trường xuất khẩu, các thị trường chủ lực của ta trong năm 2008 sẽ vẫn là thị trường
châu á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), châu Âu (chủ yếu
là EU), Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada) và châu Đại dương (Australia). Ngoài ra tiếp tục khai thác,
thâm nhập một số thị trường truyền thống hoặc thị trường mới như Nga, Trung Đông, Mỹ
La tinh, châu Phi.
Các giải pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu năm 2008
Nhằm thực hiện thành công mục tiêu kế hoạch phát triển xuất khẩu năm 2008 cần phải
triển khai thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ nhiều chính sách, biện pháp. Đòi hỏi sự
nỗ lực từ phía cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các địa phương, doanh nghiệp,
hiệp hội ngành hàng và các tổ chức nghề nghiệp khác trong xã hội.
Thứ nhất, thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng để tăng giá trị, kim ngạch hàng hoá
xuất khẩu
Tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy
mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng mới, các mặt hàng
sản xuất do bị hạn chế về cơ cấu (diện tích, năng suất, thời tiết…) không có điều kiện tăng
nhiều về khối lượng nhưng có khả năng tăng trưởng cao và có kim ngạch xuất khẩu lớn,

những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như
giải quyết nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội như các sản phẩm chế biến từ
nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử, sản
phẩm nhựa, dây cáp điện…
Thứ hai, giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu
Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ
chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giày dép,
sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản
xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. Trong thời gian tới kiến nghị Chính phủ cho
phép triển khai các khu tập trung như những khu công nghiệp, khu bảo thuế, trung tâm
buôn bán nguyên phụ liệu (dệt may, giầy dép…) và cho phép các nhà đầu tư phân phối hàng
hoá trong nước và nước ngoài vào hoạt động. Những trung tâm này có thể là nơi cung cấp
nguyên phụ liệu cho một ngành hàng cũng có thể là trung tâm tổng hợp.
Thứ ba, tiến hành cải cách thủ tục hành chính nhanh, mạnh hơn nữa
Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút
ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu để giảm thời
gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt
mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để
tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa Trước mắt cần xem xét bãi bỏ một số thủ
tục đối với việc nhập khẩu nông sản từ các nước có chung biên giới với Việt Nam, không
bắt buộc áp dụng quy chuẩn đối với chất lượng cà phê và xem xét cho thông quan hàng
xuất khẩu từ các cửa khẩu phụ.
Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác phối
hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các Bộ, ngành, giữa các cơ quan quản lý với Hiệp hội
ngành hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
ngành thương mại trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, phát triển xuất
khẩu.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu
- Thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu và Quỹ hỗ trợ đầu tư

Hình thức bảo hiểm xuất khẩu chưa được áp dụng tại Việt Nam (các nước phát triển đang
áp dụng phổ biến hình thức này như Đức, áo, Italy, Nhật Bản…). Trong khi thực tiễn kinh
doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng biện
pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần
thiết và phù hợp với các quy định của WTO.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho xuất khẩu như thưởng
xuất khẩu, thưởng thành tích xuất khẩu bị bãi bỏ. Cần sử dụng nguồn vốn này và bổ sung
thêm để thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư: (1) nghiên cứu, cải tạo giống cây trồng, vật nuôi; (2)
đổi mới, chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản hàng hoá xuất khẩu; (3) đào
tạo nâng cao tay nghề cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu.
- Điều tiết tỷ giá hối đoái, lạm phát
Điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho thu hút được vốn nước ngoài và khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho
việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý.
Để việc phá giá khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập siêu có hiệu quả và không làm ảnh
hưởng quá lớn đến lạm phát làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nói chung cần thực
hiện cơ chế lãi suất hợp lý đi kèm với việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền
tệ để kiểm soát tín dụng như dự trữ bắt buộc, công cụ thị trường mở một cách linh hoạt.
Nước ta là một nước nhỏ nên hiệu ứng từ việc phá giá đến xuất khẩu là không lớn trong
khi áp lực lên lạm phát là rõ rệt hơn nên cần cân nhắc mức độ phá giá ở mức hợp lý khi
điều hành tỷ giá trong các bối cảnh cụ thể để tránh áp lực lạm phát quá lớn gây ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng kinh tế nói chung.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu
Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư
và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt
Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực
sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng. Đổi mới công tác tổ chức các chương trình
xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị
trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Tập trung xúc
tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm (ASEAN, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc,

Hàn Quốc) có kim ngạch nhập khẩu lớn…, các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất
trong nước không bị hạn chế, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như: hàng thủ công mỹ
nghệ, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ
phần mềm… nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối
với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu.
Thứ sáu, tập trung khai thác theo chiều sâu, chiều rộng đối với các thị trường xuất khẩu
Phát triển thị trường truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm đi đôi với việc phát
triển các thị trường có chung đường biên giới với Việt Nam với chủ trương đa phương hoá,
đa dạng hoá thị trường thông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù hợp
hạn chế xuất khẩu thời gian qua, có chính sách xuất khẩu cụ thể đẩy mạnh xuất khẩu vào
từng khu vực, từng thị trường.
Bộ Công Thương cần sớm triển khai ký kết các thoả thuận song phương và công nhận lẫn
nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm
dịch thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản.
Thứ bảy, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất
khẩu
Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết
vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng
xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da
giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí… Cần xã hội hoá công tác đào tạo,
theo đó những doanh nghiệp lớn cũng được xem xét cấp kinh phí đào tạo công nhân cho
mình và cung cấp cho những doanh nghiệp khác.
Đồng thời, chú trọng khâu thiết kế, tạo dáng sản phẩm; Tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội
ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản
phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước.
Thứ tám, xây dựng đề án xuất khẩu cụ thể cho từng mặt hàng, từng địa bàn
Phát triển những mặt hàng mới, mặt hàng có điều kiện sản xuất không phụ thuộc nhiều vào
sự biến động của thị trường như sản phẩm cơ khí, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm
đồ gỗ Đồng thời xem xét lại cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất, xuất khẩu đối với

những mặt hàng truyền thống trọng điểm như hàng nông lâm thuỷ sản, hàng dệt may, giầy
dép, thủ công mỹ nghệ để có những điều chỉnh phù hợp hỗ trợ cho sản xuất và xuất
khẩu.
Mục tiêu phấn đấu cụ thể đối với các nhóm hàng chủ lực
(Đơn vị tính số lượng: 1000T, trị giá: triệu USD)
Tình hình xuất khẩu dệt may
năm 2008 và dự báo năm 2009
Trong những năm qua, Ngành dệt may Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành
công trong việc giải quyết việc làm cho người lao động cũng như đóng góp vào kim
ngạch xuất khẩu chung của cả nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trong 10
quốc gia có ngành dệt may phát triển nhất thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam không ngừng được gia tăng qua các năm. Năm 2003,
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này mới chỉ dừng ở 3,6 tỷ USD; thì sang năm 2004 đạt 4,3 tỷ USD và
cho đến năm 2008 mục tiêu kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đặt ra là 9,5 tỷ USD. 9
tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt 6,8 tỷ, tăng 20% so với cùng kỳ
năm ngoái.
Năm 2008: Thuận lợi và khó khăn:
Thuận lợi:
Trong những năm qua, Ngành dệt may Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành công trong việc giải quyết
việc làm cho người lao động cũng như đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, từng
bước đưa nước ta trở thành một trong 10 quốc gia có ngành dệt may phát triển nhất thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam không ngừng được gia tăng qua các năm. Năm 2003,
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này mới chỉ dừng ở 3,6 tỷ USD; thì sang năm 2004 đạt 4,3 tỷ USD và
cho đến năm 2008 mục tiêu kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đặt ra là 9,5 tỷ USD. 9
tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt 6,8 tỷ, tăng 20% so với cùng kỳ
năm ngoái.
Hiện nay, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 57% thị phần xuất khẩu, thị
trường EU chiếm 18%, Nhật Bản là 9%.
Xuất khẩu sang Nhật Bản và Đài Loan đang hồi phục. Hoạt động mở rộng thị trường sang khu vực
Châu Phi và các nước Châu á khác cũng khá tốt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị

trường này đều có mức tăng trưởng cao.
Khó khăn:
Cho tới nay, khó khăn lớn nhất của ngành dệt may nước ta vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu
đầu vào. Nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu phải nhập khẩu tới 90%. Điều này thể hiện rất
rõ qua đồ thị tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta và biểu đồ tăng trưởng của
kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu chính (bông, sợi và vải) qua các năm như sau:
Theo kế hoạch năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong cả năm 2008 tăng
23% so với năm 2007. Trong 9 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta chỉ
tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy so với mức tăng mục tiêu thì mức tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này vẫn đạt thấp.
Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào chính cũng tăng thấp như: mặt hàng vải
chỉ tăng 17%; sợi tăng 4% theo dõi trên đồ thị, tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu bao giờ cũng cao
hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm và chí ít cũng phải xấp xỉ như năm ngoái.
Năm 2009, xuất khẩu sang Mỹ vẫn có những rào cản:
Năm 2008 được coi là năm khá thành công của ngành dệt may Việt Nam. Bởi hầu hết các nước trong
khu vực đều bị ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu bị ngưng trệ.
Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam vẫn đạt được tăng trưởng ấn tượng với hai con số. Sang năm
2009, nhiều khả năng xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Bởi:
- Kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi suy thoái.
- Hàng dệt may của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ không cần hạn ngạch.
- Mức độ cạnh tranh với các thị trường khác sẽ gay gắt hơn, do hội nhập càng sâu và rộng.
- Xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn còn những rào cản.
Được biết, trong chuyến thăm và làm việc tại Hà Nội, Đoàn Thương mại Mỹ đã thông báo về việc sẽ
không mở rộng chương trình giám sát đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Theo đó, chương
trình này sẽ kết thúc vào cuối năm 2008. Mặc dù vậy, điều này cũng không có nghĩa là từ năm 2009,
xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Mỹ sẽ không còn gặp bất kỳ một rào cản thương
mại nào. Bởi vì:
+ Chương trình giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam của Mỹ dưới thời chính quyền của Tổng
Thống Bush và nhiệm kỳ Tổng thống sẽ kết thúc vào tháng 1/2009. Do đó, chương trình này không
được mở rộng cũng là điều dễ hiểu.

+ Năm 2009, Tổng thống Mỹ mới nhận chức, và chưa chắc chinh quyền của Tổng thống mới kế thừa
quyết định của Chính quyền Bush. Và Tổng thống mới chắc chắn sẽ thực hiện quyết định của Quốc hội
Mỹ – bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong Hiệp hội Dệt Mỹ.
+ Chắc chắn hàng dệt may xuất khẩu của Trung Quốc sang thị trường Mỹ sẽ gặp phải những rào cản
thương mại khi chế độ hạn ngạch được dỡ bỏ vào cuối năm nay. Điều này sẽ khiến cho hàng dệt may
Việt Nam rất dễ rơi vào “tầm ngắm” cùng với hàng Trung Quốc.
Do đó, trong việc ký kết các hợp đồng xuất khẩu sang thị trường Mỹ cho năm 2009, doanh nghiệp nên
chủ động đàm phán với các đối tác để nâng giá xuất khẩu, tránh những thiệt hại của giá thấp gây ra.
Cùng với đó là hoàn thiện công tác lưu trữ, cũng như việc khai báo hải quan rõ ràng chính xác, tạo điều
kiện cho các cơ quan quản lý trong việc thống kê, phục vụ thông tin định hướng và quản lý nhà nước,
giúp các doanh nghiệp hoạt động một cách hiệu quả nhất.
ND (Vinanet)
Hoạt động xuất nhập khẩu 2008- kế hoạch 2009
Thứ ba, 20.01.2009, 07:57pm (GMT+7)
Một số nội dung chính về hoạt động xuất nhập khẩu năm 2008, kế hoạch năm 2009 và các giải
pháp thực hiện. Nguồn : trích trong Báo cáo tổng kết ngành của Bộ Công thương
<! [if !supportLists] >A. <! [endif] >Tình
hình hoạt động xuất nhập khẩu năm 2008
Hoạt động thương mại năm 2008 bên cạnh một số thuận lợi như một
số mặt hàng trong một số tháng đầu năm được lợi về giá, về thị trường,
nhưng cũng gặp không ít khó khăn do cạnh tranh thị trường, về chính
sách giám sát hàng dệt may của Mỹ, việc áp thuế bán phá giá giày mũ da
của EU, các quy định của Luật nông nghiệp Mỹ, đặc biệt việc khủng
hoảng tài chính, tiền tệ của Mỹ và một số nền kinh tế lớn đã làm giảm sút
sức mua, sức thanh tóan của các nhà nhập khẩu trong những tháng cuối
năm đã làm cho nhu cầu và mức tiêu thụ giảm, kim ngạch xuất khẩu qua
từng tháng cuối năm bị giảm dần, ảnh hưởng tới tổng kim ngạch cả năm.
Trước tình hình kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào EU và Hoa Kỳ có xu
hướng tăng không cao như năm 2007, chúng ta đã đẩy mạnh việc đa dạng
hoá thị trường, nhiều loại hàng hoá đã vào được các thị trường xuất khẩu

mới, nhất là thị trường châu Phi đã tăng đột biến đồng thời giảm dần xuất
khẩu qua các thị trường trung gian.
Về nhập khẩu, khi mức nhập khẩu và nhập siêu những tháng đầu
năm ở mức cao, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt
kiềm chế nhập siêu, nên mức nhập siêu đã giảm dần và thực hiện vượt
yêu cầu đề ra.
1. Xuất khẩu
Kim ngạch cả năm ước đạt xấp xỉ 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với
năm 2007. Kim ngạch của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 34,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 55,4%, tăng 25,5% so với năm
2007; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 28,02 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 44,6%, tăng 34,9%, so với năm 2007.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giữ được ở mức cao do
trong những tháng đầu năm dầu thô, than đá và nhiều mặt hàng nông sản
gặp thuận lợi về giá và thị trường xuất khẩu. Những mặt hàng có tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu cao như gạo, nhân điều, khoáng sản.
Ngoài 10 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã thực hiện được từ
năm 2007 (chủ yếu thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến, nông sản) là
thủy sản, gạo, cà phê, cao su, dầu thô, dệt may, giầy dép, điện tử và linh
kiện máy tính, sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí, trong năm nay
xuất hiện thêm 1 mặt hàng có khả năng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là
dây điện và cáp điện.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng giảm nhưng do
giá thế giới tăng mạnh nên về mặt trị giá tăng khá so với năm 2007 như:
Dầu thô tăng 23,1% nhưng lượng giảm 7,7%, than đá tăng 44,3% nhưng
lượng giảm 38,3%, cà phê tăng 5,8% nhưng lượng giảm 18,3%, cao su
tăng 14,6% nhưng lượng giảm 9,8%, chè tăng 12,2% nhưng lượng giảm
8,8%.
Sản phẩm tàu thuyền, sản phẩm từ gang thép, sản phẩm từ cao su có
mức tăng trưởng cao so với năm 2007, là những mặt hàng có triển vọng

tăng mạnh trong những năm tới.
Mức tăng trưởng của các khu vực thị trường có sự thay đổi, xuất
khẩu sang thị trường Châu Phi tăng 95,7%; Châu Á tăng 37,8%; Châu
Đại dương tăng 34,9%, nhưng tăng chậm lại đối với Châu Mỹ (21,9%);
Châu Âu (26,3%).
Cơ cấu thị trường hàng hoá có sự chuyển dịch, thị trường Châu Á
chiếm 44,5% (năm 2007 là 41,9%), Châu Âu chiếm 18,3% (năm 2007 là
18,7%), Châu Mỹ 20,6% (năm 2007 là 21,9%), Châu Đại dương 6,7%
(năm 2007 là 6,4%), Châu Phi 1,9% (năm 2007 là 1,27%).
Đến nay, hàng hoá xuất khẩu nước ta đã vươn tới hầu hết các quốc gia
và vùng lãnh thổ. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng đến xuất khẩu
của nước ta vào EU và Hoa Kỳ khiến tốc độ tăng xuất khẩu vào hai thị
trường này giảm so với năm 2007 nhưng năm qua chúng ta tiếp tục đẩy
mạnh việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, nhiều chủng loại hàng hoá đã
vào được các thị trường xuất khẩu mới, giảm dần xuất khẩu qua các thị
trường trung gian, đặc biệt xuất khẩu vào thị trường châu Phi tăng đột biến.
Nhận định chung về các kết quả đạt được
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu năm
2008, có thể rút ra một số nhận định cơ bản như sau:
Những thành tựu:
Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của biến động của kinh tế thế giới nên xuất khẩu diễn
biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, KNXK
đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục
giảm trong những tháng cuối năm. Nhìn chung cả năm 2008, xuất khẩu đã đạt được mức
tăng trưởng cao, phát triển cả về quy mô, tốc độ, thị trường và thành phần tham gia xuất
khẩu. Có thể nhìn nhận như sau:
Thứ nhất, qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục
được duy trì ở mức cao.
Thứ hai, các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn giữ được nhịp độ
tăng trưởng cao, nhất là các mặt hàng gạo, rau quả, hạt điều, than đá, hàng

điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm nhựa, túi xách và li và ô dù Xuất
khẩu hàng hoá tăng còn có sự đóng góp của nhiều mặt hàng mới ví dụ như
sản phẩm từ cao su, sản phẩm chế tạo từ gang, thép, máy biến thế, động cơ
điện, tàu thuyền các loại
Thứ ba, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch tích cực
theo hướng tăng tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng xuất
khẩu thô. Những hàng hoá có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và giá trị
xuất khẩu lớn là nhóm hàng công nghiệp và chế biến như: thuỷ sản, hàng
điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, túi xách va li, mũ và ô dù
Thứ tư, bên cạnh việc tập trung khai thác tối đa các thị trường trọng
điểm, năm qua chúng ta tiếp tục giữ vững thị trường truyền thống, đẩy mạnh
việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, nhiều chủng loại hàng hoá xuất khẩu
đã vào được các thị trường mới, điển hình là các thị trườn tại khu vựcChâu
Phi-Tây Nam Á, Châu Á, và Châu Đại Dương .
Những hạn chế :
Thứ nhất, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực gặp khó khăn do phải đối
mặt với những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo
hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn. Việc tăng giá trị xuất khẩu phụ
thuộc nhiều vào giá thế giới và những thị trường xuất khẩu lớn, khi những
thị trường này có biến động thì KNXK bị ảnh hưởng.
Thứ hai, nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn hàng
xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, một số nông sản vào Mỹ và EU đều giảm do ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu; Trong khi thị trường xuất
khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không giảm, thậm chí còn tăng
cao như lương công nhân, lãi suất ngân hàng, khiến nhiều doanh nghiệp dệt
may phải chuyển từ sản xuất mua nguyên liệu bán thành phẩm sang gia
công để bảo toàn vốn, vì vậy giá trị gia tăng trên sản phẩm dệt may ngày
càng thấp là lợi nhuận giảm.
Thứ ba, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản,
nông, lâm, thuỷ, hải sản; các mặt hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn

mang tính chất gia công; Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, phong phú,
số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng
nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn
có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các
ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi
giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Thứ tư, vẫn chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các
hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và
các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ,
EU, Trung Quốc.
Thứ năm, việc tiếp cận nguồn vốn vay bằng VNĐ cho sản xuất kinh
doanh vẫn còn bất cập, nhất là đối với các mặt hàng nông sản, thuỷ sản,
trong khi đó lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao , điều
này đã làm chi phí tăng cao ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá
xuất khẩu.
2. Nhập khẩu và cán cân thương mại
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2008 ước đạt 79,90 tỷ USD, tăng
27,5% so với năm 2007, trong đó doanh nghiệp có vốn trong nước nhập
khẩu khoảng 51,5 tỷ USD, tăng 25,6% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài nhập khẩu khoảng 28,5 tỷ USD, tăng 31%
Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có trị giá tăng cao so với năm
2007 gồm: ôtô nguyên chiếc các loại tăng 78,9% (so với cuối năm 2007 và
đầu năm 2008 thì đã giảm rất nhiều), linh kiện ôtô tăng 52,6%, thép tăng
22%, phôi thép tăng 42,9%, phân bón tăng 47%, xăng dầu tăng 41,2%, bông
tăng 75%, đá quý và kim loại tăng200,9%, thức ăn gia súc và nguyên liệu
tăng 47,2%
Các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch lớn thuộc nhóm thiết bị máy
móc, nguyên nhiên, vật liệu, phụ liệu (không kể xăng dầu). Trong đó có một
số mặt hàng chiếm tỷ trọng cao như: thép thành phẩm chiếm 6,1 %, máy
móc thiết bị chiếm 17%, vải chiếm 5,5%, điện tử linh kiện, máy tính chiếm

4,6%, nguyên phụ liệu dệt, may, da chiếm 2,9 %
Về thị trường nhập khẩu, KNNK từ Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất 75,6% và
ngày càng tăng (năm 2007 chiếm 72,2%) trong đó chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc
và ASEAN, trong khi đó nhập khẩu từ thị trường Châu Âu vẫn ở mức khiêm tốn chiếm
10,3%
Nhập siêu cả năm 2008 là 17 tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu là
27%, giảm so với năm 2007 (năm 2007 là 29,1%). So với mục tiêu ban đầu
là 20 tỷ USD đã phấn đấu giảm được 3 tỷ USD nhập siêu.
Ngoài các nước ASEAN, Việt Nam cũng nhập siêu lớn từ các nước
Châu Á khác. Các mặt hàng nhập siêu như nguyên phụ liệu dệt may, da
giầy, xăng dầu, hoá chất, phân bón, sắt thép, máy móc thiết bị phụ tùng đều
là nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu của ta sang các thị trường khác.

<! [if !supportLists] >B. <! [endif] >Kế
hoạch xuất nhập khẩu năm 2009

<! [if !supportLists] >1. <! [endif] >Xuất khẩu hàng hoá
Theo chỉ tiêu Quốc hội đề ra thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 là 13%
đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của toàn ngành và cũng rất nhiều khó khăn để có thể đạt
được vì:
- Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính mà tăng trưởng kinh tế
toàn cầu sẽ suy giảm
- Hàng hoá Việt Nam phải cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng hoá cùng
chủng loại của các nước châu Á như nông sản, thuỷ sản, dệt may, giầy dép,
điện tử trong khi nhu cầu nhập khẩu của các thị trường chủ lực (Hoa Kỳ,
EU) có xu hướng giảm. Các nhà nhập khẩu gặp khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn vay để nhập khẩu hàng hoá.
- Thuận lợi về giá như năm 2008 nhìn chung sẽ không còn, trong khi
khả năng tiêu thụ tại các thị trường giảm.
- Sản lượng một số mặt hàng nông sản, khoáng sản đã đến ngưỡng,

khó có khả năng tăng trưởng cao, đặc biệt lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm
khoảng 3,3-4 triệu tấn do làm nguyên liệu cho nhà máy lọc dầu Dung Quất.
- Nhiều hàng rào phi thuế và các biện pháp bảo hộ tinh vi được các
nước dựng lên có ảnh hưởng đến các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
Do vậy trong hoạt động xuất khẩu, cần phải tìm ra những yếu tố mới
như mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường xuất khẩu mới, đẩy nhanh các dự án
đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu mới đi vào hoạt động và tập trung chỉ đạo
quyết liệt tùng nhóm hàng chủ lực như sau:
a/ Nhóm hàng khoáng sản:
Nhóm này khó có khả năng tăng trưởng trong năm 2009 do sản
lượng dầu thô và than đá xuất khẩu giảm mạnh phục vụ nhu cầu sản xuất
và tiêu thụ trong nước, giá xuất khẩu sẽ không ở mức cao như năm 2008.
Dự báo, kim ngạch nhóm này đạt khoảng 5,92 tỷ USD, giảm 5,97 tỷ USD
tương đương với giảm 50,2% so với năm 2008 và chỉ chiếm tỷ trọng
8,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
Giá xuất khẩu dầu thô theo kế hoạch dự báo khoảng 50 USD/thùng,
lượng xuất khẩu khoảng 12 triệu tấn ( khoảng 4,61 tỷ USD), như vậy xuất
khẩu dầu thô năm 2009 sẽ giảm 55,9% về trị giá và 13,7% về lượng
Mặt hàng than đá do chủ trương kiểm soát xuất khẩu tài nguyên nên
lượng xuất khẩu dự kiến là 20 triệu tấn, thêm nữa giá xuất khẩu dự kiến sẽ
không ở mức cao như năm 2008 vì vậy KNXK cũng sẽ giảm sút.
b/ Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản
Nhóm này khó có khả năng tăng trưởng trong năm 2009 do hạn chế
về cơ cấu sản lượng và đặc biệt giá nhiều mặt hàng chủ lực sẽ ở mức
thấp so với năm 2008. Dự báo, kim ngạch nhóm này đạt khoảng 12,23 tỷ
USD, giảm 628 triệu USD, tương đương 4,8% so với năm 2008.
- Mặt hàng gạo sẽ không gặp khó khăn về thị trường do diện tích
canh tác trên toàn thế giới có xu hướng ngày càng bị thu hẹp. Dự kiến,
năm 2009 xuất khẩu 4,8 triệu tấn, tương đương trên 1,95 tỷ USD, tăng
1,7% so với năm 2008. Tuy nhiên giá xuất khẩu sẽ tiếp tục xu hướng

giảm, vì thế trị giá sẽ giảm khoảng 32,8% so với năm 2008, tương đương
952 triệu USD.
- Xuất khẩu cà phê cũng không gặp khó khăn về thị trường, nhưng
cần quan tâm đến nâng cao giá trị tăng thêm trên một đơn vị sản phẩm
xuất khẩu để nâng cao kim ngạch. Dự kiến, năm 2009 xuất khẩu đạt 2,1
tỷ USD với khối lượng xuất khẩu 1,1 triệu tấn, tăng 9,6% về lượng,
nhưng giảm 4,5% về trị giá.
- Đối với các mặt hàng cao su, hạt tiêu, nhân điều, chè, dự kiến số
lượng xuất khẩu sẽ có mức tăng nhẹ về lượng. Nhưng do hạn chế về năng
lực sản xuất, chế biến và giá xuất khẩu cũng sẽ không ở mức cao như
năm 2008 nên không có tăng đột biến về kim ngạch xuất khẩu (ước tăng
khoảng 10-15%).
- Mặt hàng thuỷ sản vẫn gặp khó khăn do các nước đang đặt ra hàng
rào kỹ thuật mới, kiểm dịch chặt chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu
chuẩn mới. Tuy nhiên, những thị trường truyền thống của Việt Nam vẫn
được duy trì và năng lực sản xuất được cải thiện nên dự kiến kim ngạch
ước tăng 11,8 % so năm 2008, chiếm tỷ trọng cao nhất trong nhóm hàng
nông lâm, thuỷ sản.
c/ Nhóm hàng công nghiệp chế biến:
Đây là nhóm quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Do kim ngạch xuất khẩu 2 nhóm hàng khoáng sản và nông lâm, thuỷ sản sẽ
giảm trong năm 2009 (giảm khoảng 6,6 tỷ USD). Vì vậy, tăng trưởng xuất khẩu
năm 2009 sẽ đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm này. Dự kiến kim
ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến cũng chỉ đạt khoảng 52,9 tỷ
USD, tăng 38,7% so với năm 2008, tương đương 14,7 tỷ USD. Cần đặc biệt quan
tâm chỉ đạo 2 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn là mặt hàng dệt may (11,5 tỷ
USD),da giày (5,1 tỷ USD), hàng điện tử và linh kiện máy tính (4,1 tỷ USD), sản
phẩm gỗ (3,0 tỷ USD).
- Năm 2009, Mỹ sẽ bỏ hoàn toàn hạn ngạch hàng dệt may đối với Trung
Quốc tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với hàng Việt Nam, nhưng hàng Việt Nam

cũng sẽ được quan tâm hơn do thâm hụt thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc quá lớn.
Phấn đấu năm 2009 kim ngạch hàng dệt may tăng khoảng 25%.
- Đối với hàng giày dép, EU vẫn là thị trường trọng điểm, nhưng
năm 2009, giày của Việt Nam không được hưởng ưu đãi thuế quan của
EU, nhưng mặt hàng giầy dép vẫn có nhiều khả năng để gia tăng kim
ngạch xuất khẩu thông qua việc mở rộng sản xuất, đa dạng hoá thị trường
xuất khẩu và tăng cường hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất
khẩu bằng cách tập trung vào khâu thiết kế kiểu dáng, tạo mẫu sản
phẩm
- Sản phẩm gỗ là mặt hàng đã khẳng định được vị trí vững chắc
trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, ngoài các thị trường tiềm
năng như Nhật Bản, EU, đồ gỗ Việt Nam có khả năng thâm nhập thị
trường Mỹ do thuế suất nhập khẩu vào Mỹ thấp. Tuy nhiên năm 2009
cũng sẽ gặp khó khăn do Đạo luật Lacey được ban hành bắt đầu có hiệu
lực vào cuối năm nay trong đó sẽ thắt chặt hơn việc kiểm soát nguồn gốc
sản phẩm gỗ;. Vì vậy, dự kiến kim ngạch tăng khoảng 8% so với năm
2008.
- Sản phẩm nhựa là mặt hàng được đánh giá có khả năng cạnh tranh
cao do tiếp cận được với công nghệ hiện đại, có thị trường rộng lớn và
không quá khó để thâm nhập, đồng thời xuất khẩu mặt hàng này được
hưởng mức thuế thấp hoặc được đối xử ngang bằng như các nước xuất
khẩu khác ở hầu hết các thị trường. Vì vậy dự kiến kim ngạch sẽ vượt
ngưỡng trên 1 tỷ USD tăng 39,8% so với năm 2008.
- Dây điện và cáp điện là mặt hàng có khả năng gia tăng kim ngạch
xuất khẩu lớn do xu hướng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và
FĐI khá mạnh mẽ. Dự kiến kim ngạch đạt 1,4 tỷ USD, tăng 34% so năm
2008.
Ngoài những mặt hàng trên còn một số mặt hàng như túi xách, va li,
ô dù, sản phẩm từ cao su, sản phẩm từ gang thép hay tàu thuyền các loại
đều là những mặt hàng dự kiến tăng khá trong năm 2009, ở mức trên

30%, riêng mặt hàng tàu thuyền là nhân tố mới nổi được đánh giá là mặt
hàng có tốc độ tăng nhanh trong thời gian tới.

<! [if !supportLists] >2. <! [endif] >Về thị trường xuất khẩu
Tiếp tục quán triệt phương châm đa phương hóa và đa dạng hóa thị
trường. Các thị trường chủ lực của ta trong năm 2009 vẫn là thị trường
châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông), châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada) và châu Đại
dương (Australia). Tiếp tục khai thác và thâm nhập một số thị trường
truyền thống như Nga, Đông Âu hoặc thị trường mới như Trung Đông,
Mỹ La tinh, châu Phi. Các thị trường lớn như châu Á, châu Âu, châu Mỹ
cần phấn đấu tăng trưởng cao hơn mức tăng bình quân chung là 13%.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu 2009, Bộ Công Thương dự kiến
như sau :
(Đơn vị tính triệu USD)
Khu vực thị
trường
Năm 2008 Năm 2009
Kim
ngạch
% so với
2007
Tỷ
trọng
(%)
Kim
ngạch
% so với
2008
Tỷ trọng

(%)
Tổng KN 62.906 129,5 100 71.084 113,0 100

- Châu Á: 28.000 137,8 44,5 31.640 113,0 45,5
Nhật bản
8.000 132,0 9.200 115,0 12,9
Trung Quốc 4.500 134,0 5.300 118,0 7,4
ASEAN 10.220 131,0 11.200 110,0 15,7
Hàn Quốc 1.980 158,0 2.300 121,0 3,2
Đài Loan 1.230 108,0 1.470 120,0 2,0
- Châu Âu : 11.511 118,3 18,3 13.300 115,0 18,7
EU
10.649 118,0 12.200 115,0 17,1
- Châu Mỹ 12.983 121,9 20,6 14.670 113,0 20,6
Hoa kỳ 11.600 115,0 12.760 110,0 17,9
- Châu Đại Dương 4.248 134,9 6,7 3.900 91,8 5,4
- Châu Phi 1.213 195,7 1,9 2.300 189,0 3,2
a. Khu vực thị trường Châu Á và Châu Đại Dương: Dự báo xuất
khẩu vào các thị trường chính như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan sẽ
giảm so vớI năm 2008, đặc biệt là thị trường ASEAN do xuất khẩu xăng
dầu sang thị trường này giảm. Kế hoạch năm 2009 xuất khẩu hàng hóa
vào thị trường Châu Á đạt 31,6 tỷ USD, tăng 13 % so với năm 2008; Khu
vực thị trường Châu Đại Dương dự kiến giảm còn bằng 91,8% so với
năm 2008 đạt 3,9 tỷ USD cũng bởi nguyên nhân trên.
Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA đã và đang tạo điều kiện
cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước này, song do kim
ngạch xuất khẩu vào ASEAN tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân, trong
khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu
vực này tiếp tục tăng
b. Khu vực thị trường Châu Âu: Năm 2009, xuất khẩu những hàng

hóa chủ yếu vào thị trường EU dự báo sẽ giảm như dệt may, giầy dép vì
nhu cầu tiêu dùng giảm do khủng hoảng kinh tế các mặt hàng có khả
năng tăng là sản phẩm nhựa, hàng điện tử, hàng thủy sản. Tổng kim
ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 13,3 tỷ USD, tăng 15%.
c. Khu vực thị trường Châu Mỹ: Do cuộc khủng hoảng tài chính ở
Mỹ nên tăng trưởng nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2009 dự báo sẽ giảm (trừ
những nhóm hàng nhiên liệu và một số nông sản có thể vẫn tăng do vẫn
có nhu cầu tiêu dùng và tăng giá) nhất là đối với các nhóm hàng xuất
khẩu chính của Việt Nam như may mặc, giầy dép, vali, túi xách, đồ gỗ,
đồ điện tử, cáp điện, sản phẩm nhựa, hạt điều, cà phê. Dự kiến kim ngạch
xuất khẩu năm 2009 đạt 14,6 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2008, trong
đó Hoa Kỳ đạt 12,7 tỷ USD, tăng 10%. Các mặt hàng như sản phẩm gỗ,
dệt may, giầy dép, cà phê, thủy sản vẫn là những mặt hàng đóng góp lớn
vào tăng trưởng.
d. Khu vực thị trường Châu Phi: Dự báo tình hình phát triển kinh tế
tại khu vực này có thuận lợi ở một số thị trường và không có đột biến
trong chính sách thương mại, đòi hỏi ở thị trường này không quá khắt
khe, vì vậy đây là thị trường rất tiềm năng cho Việt Nam, năm 2009 phấn
đấu xuất khẩu đạt 2,3 tỷ USD, tăng 89% so với năm 2008.

3. Nhập khẩu
Dự kiến nhập khẩu năm 2009 sẽ không tăng đột biến như 6 tháng
đầu năm 2008 vì:
-Tiếp tục thực hiện các biện pháp của Chính phủ đã ban hành nhằm kiềm
chế lạm phát, thực hiện tiết kiệm trong chi phí công, cắt giảm đầu tư các công
trình không hiệu quả hoặc chưa cần thiết, xử lý linh hoạt việc tăng thuế nhập
khẩu, nộp thuế trước khi thông quan, quản lý nhập khẩu bằng giấy phép tự động
- Giá nhiều loại nguyên nhiên vật liệu đầu vào giảm mạnh 30-50% so với
năm 2008 như sắt thép, phôi thép, phân bón, xăng dầu làm cho trị giá nhập khẩu
giảm nhiều mặc dù lượng có thể tăng nhẹ so với năm 2008 (chỉ tính riêng 4 mặt

hàng này ước giảm do giá khoảng 6 tỷ USD).
- Lượng xăng dầu nhập khẩu giảm do nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào
hoạt động. Lượng nhập khẩu năm 2009 ước khoảng 11 triệu tấn với kim ngạch
khoảng 6 tỷ USD (giá bình quân 545 USD/tấn), giảm trên 5 tỷ USD so với năm
2008.
- Nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu giảm do khó
khăn về thị trường, vốn, lãi suất… Doanh nghiệp và người dân cũng sẽ tiết kiệm
hơn trong sản xuất, tiêu dùng.
- Việc nhập khẩu với số lượng lớn để đầu cơ giá lên như trong năm 2008
đối với mặt hàng sắt thép, phôi thép nhiều khả năng không còn. Ngoài ra, việc
nhập khẩu vàng tiếp tục được kiểm soát và hạn chế.
Với những biện pháp và tình hình như đã phân tích ở trên, dự kiến
kim ngạch nhập khẩu năm 2009, ở mức 90,3 tỷ USD, tăng 13% so với
năm 2008. Như vậy, nhập siêu sẽ ở mức khoảng 19,2 tỷ USD bằng 27%
xuất khẩu KNXK.

<! [if !supportLists] >C. <! [endif] >Kế
hoạch xuất nhập khẩu năm 2009

1. Về xuất khẩu
a. Các giải pháp trước mắt
<! [if !supportLists] >- <! [endif] > Theo dõi sát, có biện pháp
tích cực để đẩy mạnh xuất khẩu trước các diễn biến của thị trường. Nâng
cao hiệu quả công tác thông tin dự báo phục vụ cho hoạt động điều hành
và hoạt động kinh doanh.
<! [if !supportLists] >- <! [endif] > Phối hợp với các Bộ, ngành,
Hiệp hội triển khai thực hiện Đề án phát triển xuất khẩu, hạn chế nhập
siêu giai đoạn 2009-2010 sau khi được Chính phủ phê duyệt. Đồng thời
trình Chính phủ phê duyệt Đề án tổ chức và triển khai hình thức Bảo
hiểm xuất khẩu tại Việt Nam.

<! [if !supportLists] >- <! [endif] >Tăng cường hoạt động xúc
tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các khu vực ít bị tác
động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế theo từng ngành hàng,
từng hợp đồng XK lớn. Tăng cường tiếp xúc cấp cao để mở rộng thị
trường, quan hệ buôn bán; chủ động ứng phó với chính sách bảo hộ mậu
dịch; vận động dỡ bỏ các rào cản thuế và phi thuế để tăng xuất khẩu. Tập
trung chương trình kêu gọi các tập đoàn lớn nước ngoài đầu tư sản xuất
hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
<! [if !supportLists] >- <! [endif] > Khuyến khích các doanh
nghiệp đa dạng hóa đồng tiền thanh toán, bảo hiểm tỷ giá và phòng ngừa
rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu.
- Phối hợp với các Bộ, ngành tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu; đáp ứng đầy đủ, kịp thời kinh phí
hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại.
- Thúc đẩy sớm ký Hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản, Hiệp
định FTA giữa ASEAN với Ôxtrâylia – NewZenland - Ấn Độ để tạo
thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
b. Các giải pháp trung và dài hạn
- Tăng cường công tác điều hành hoạt động xuất nhập khẩu để bảo
đảm mục tiêu giảm tỷ lệ nhập siêu thấp hơn năm 2008; chú trọng các mặt
hàng chiến lược, có tỷ trọng kim ngạch xuất lớn;
- Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm công nghiệp xuất khẩu trên tất cả các mặt: năng lực
sản xuất, cơ cấu mặt hàng, giá cả, chất lượng, phương thức phân
phối Từng bước đưa doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất của các
Tập đoàn đa quốc gia
- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và thúc đẩy mối quan hệ hỗ
trợ liên ngành giữa các ngành công nghiệp, trước hết tập trung cho 2 nhóm hàng dệt
may và giày dép.
- Phối hợp các Bộ, ngành giải quyết kịp thời các vấn đề về cơ chế tài chính, tiền

tệ, tỷ giá, thủ tục hải quan để tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển sản xuất
và xuất khẩu; xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm
và hệ thống kiểm dịch phù hợp tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, đồng thời thúc đẩy, vận
động tiêu chuẩn hoá và công nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác thương mại
nước ngoài, đặc biệt đối với những bạn hàng lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản
- Tăng cường và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, xây dựng thương
hiệu để đạt hiệu quả cao; phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu cao hơn mức tăng
nhập khẩu, từng bước giảm tỷ lệ nhập siêu.
- Tiếp tục chủ động mở rộng thị trường; đa phương hoá và đa dạng hoá quan
hệ với các đối tác trong và ngoài khu vực; tích cực tìm hiểu, tìm cơ hội xuất khẩu
vào các thị trường mới, có tiềm năng nhằm hạn chế rủi ro biến động thị trường.
- Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất
hàng xuất khẩu. Cần xã hội hoá công tác đào tạo, theo đó những doanh nghiệp
lớn cũng được xem xét cấp kinh phí đào tạo công nhân cho mình và cung cấp cho
những doanh nghiệp khác. Tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế
để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm phù hợp
với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước.
- Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng và tăng cường sự
phối hợp với các Bộ, ngành quản lý để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo
điều hành. Các Hiệp hội cần tổ chức tốt mạng lưới thông tin dự báo tình
hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá để cung cấp cho các hội viên
và doanh nghiệp. Phối hợp với các Thương vụ của Việt Nam ở nước
ngoài trong việc thông tin về tình trạng pháp lý và khả năng thanh toán
của đối tác, nhằm giảm thiểu rủi ro trong giao kết hợp đồng xuất khẩu,
nhất là ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang chịu tác động ảnh hưởng mạnh
của khủng hoảng tài chính.
- Tiếp tục minh bạch hóa quy trình cấp phép nhập khẩu và tiêu chuẩn kỹ
thuật áp dụng cho hàng nhập khẩu, thực hiện bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu trí
tuệ, trong đó có cả vấn đề bản quyền.
- Tích cực phát huy vai trò của thương nhân Việt Nam ở nước ngoài để đẩy

mạnh việc đưa hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường, nhất là những khu vực
có cộng đồng người Việt sinh sống.
- Thúc đẩy và tăng cường đàm phán mở cửa thị trường với những
thị trường tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu như Nga, EU, Hoa Kỳ, Trung
Đông, châu Phi.

2. Đối với nhập khẩu và hạn chế nhập siêu
a. Các giải pháp cần làm ngay
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp hạn chế nhập khẩu đã triển
khai trong năm 2008 như kiểm soát việc tiếp cận ngoại tệ theo 3 nhóm
hàng: nhóm cần nhập khẩu, nhóm cần kiểm soát và nhóm hạn chế nhập
khẩu; Quản lý nhập khẩu bằng giấy phép tự động đối với các mặt hàng
tiêu dùng. Mở rộng danh mục mặt hàng nhập khẩu phải nộp thuế ngay
trước khi thông quan; Hạn chế nhập khẩu qua việc quy định thời hạn nộp
thuế.
- Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu và
sử dụng hàng rào kỹ thuật phù hợp WTO để hạn chế nhập khẩu; Xây
dựng lộ trình bắt buộc dán nhãn tiết kiệm năng lượng đối với nhóm sản
phẩm gia dụng để áp dụng từ tháng 01/2010; Rà soát, ban hành các quy
định về hóa chất, chất phụ gia, chất hỗ trợ chế biến dùng trong bảo quản
hàng thực phẩm…
- Tập trung điều hành xuất khẩu những mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu lớn, trong đó cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động giao dịch, đấu thầu
để đảm bảo xuất khẩu dầu thô, than đá và các khoáng sản khác có giá
xuất khẩu hiệu quả nhất.
- Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước thực hiện chế độ tỷ giá linh
hoạt để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động người dân và doanh
nghiệp sử dụng hàng Việt Nam và tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu trong
sản xuất và tiêu dùng.

b. Các giải pháp trung và dài hạn
- Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu tiến tới đưa tăng trưởng xuất khẩu
cao hơn tăng trưởng nhập khẩu để sớm cân bằng cán cân thương mại,
trong đó cần tiếp tục trao đổi với các đối tác thương mại mà Việt Nam
nhập siêu để phối hợp tìm giải pháp giảm nhập vào Việt Nam và tăng
xuất từ Việt Nam. Đây được coi là giải pháp chủ yếu, lâu dài để hạn chế
nhập siêu
- Kiểm soát chặt chẽ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng có khối lượng
lớn .
- Nghiên cứu và triển khai đồng bộ các chương trình nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ để giảm nhập khẩu bằng các chính sách khuyến khích khu
vực tư nhân và khu vực FDI đầu tư.
- Tiếp tục duy trì một số công cụ quản lý phù hợp quy định của
WTO như hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối và mở rộng diện mặt hàng
áp dụng; hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu theo phương thức giao hàng tại
kho ngoại quan.
- Nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo xu hướng giá cả
và thị trường thế giới. Định hướng nhập khẩu sát yêu cầu sản xuất cả về
số lượng và thời điểm nhập khẩu.

Nguồn: Bộ CT
10 ấn tượng xuất nhập khẩu năm 2008
Thứ hai, 29.12.2008, 01:27pm (GMT+7)
Ban biên tập Ngoại Thương tổng hợp, bình chọn 10 điểm ấn tượng trong hoạt động xuất nhập
khẩu năm 2008, đây là những sự kiện, con số được chúng tôi coi là gây ấn tượng năm qua
1. 2008: năm đầu tiên xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu
Năm 2008 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 63 tỷ USD, tăng
trên 29,5% so với năm 2007. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm nay đạt
79,91 tỷ USD, tăng 27,5% so với năm ngoái. Đây là năm đầu tiên Việt

Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. Đáng chú ý là
nhập siêu giảm 3 tỷ USD xuống còn 17 tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu/xuất
khẩu đạt khoảng 27%, giảm so với năm 2007.

2. Tăng mức trần của khung thuế xuất khẩu
Cuối tháng 11, UBTVQH đã thảo luận và cho ý kiến đối với Dự thảo
Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Biểu khung thuế xuất khẩu. Biểu khung thuế
xuất khẩu được điều chỉnh theo hướng tăng mức trần của khung thuế xuất
khẩu hiện nay.Nghị quyết này ban hành sẽ góp phần hạn chế tối đa việc
xuất khẩu nguyên liệu thô, tài nguyên khoáng sản cũng như để Chính phủ
điều hành linh hoạt hoạt động xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế đang
có nhiều biến động.

3. CLB 1 tỷ USD đón thành viên mới
Ngoài 10 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã được thực hiện từ năm
2007 trở về trước là dầu thô, than đá, dệt may, giầy dép, điện tử và linh
kiện máy tính, sản phẩm gỗ, thủy sản, gạo, cà phê, cao su, trong năm
2008 xuất hiện thêm 1 mặt hàng có khả năng đạt trên 1 tỷ USD là dây và
cáp điện. (ước đạt 1,014 tỷ USD). Đáng chú ý là sự bứt phá của mặt hàng
này lại tập trung ở những tháng khó khăn nhất cuối năm của tình hình
xuất khẩu chung
4. Cá tra, basa tự làm khó mình
Suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm tình hình xuất khẩu cá tra, basa Việt
Nam gặp thêm nhiều khó khăn, do sự giảm sút sức mua từ các thị trường
EU, Mỹ. vào những ngày cuối năm ngành thủy sản nhận thêm tin xấu khi
Nga, thị trường được xem là dễ tính, đã tuyên bố ngừng nhập khẩu cá tra,
basa Việt Nam, khiến cho người nuôi cá ở Đồng bằng sông Cửu Long
thêm lao đao.
Nguyên nhân của vụ việc này là do sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam bị
nhiễm vi sinh, lẫn tạp chất và lớp mạ băng dày hơn yêu cầu. Thật đáng

tiếc vì đây là sự kiện đã biết trước khi xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
vào Nga liên tục bị cảnh báo có dấu hiệu không tốt về chất lượng chứng
tỏ các doanh nghiệp đã ngày càng xem thường chất lượng khi xuất khẩu
vào Nga, dù thị trường này hiện chiếm đến 14,4% lượng phi lê cá tra,
basa xuất khẩu (chỉ sau EU là 39,2%).
<! [if !supportLineBreakNewLine] >
<! [endif] >
5. Thị trường truyền thống giảm dần
Các thị trường xuất khẩu truyền thống châu Mỹ, châu Âu, nếu như những
năm trước có mức tăng trưởng hàng đầu thì năm nay, mức tăng trưởng đã
chậm lại: châu Mỹ tăng 21,9%, châu Âu là 26,3%. Trong khi đó, khu vực
thị trường châu Phi đã tăng tới 95,7%, châu Á tăng 37,8% và châu Đại
Dương tăng 34,9%. Chuyển động đó cũng đã bắt đầu thể hiện trong cơ
cấu tổng kim ngạch. Cụ thể, thị trường châu Á chiếm 44,5% (tăng 2,6%
so với năm 2007), châu Âu là 18,3% (tăng 0,4%), châu Mỹ là 20,6%
(giảm 1,3%), châu Đại Dương chiếm 6,7% (tăng 0,3%) và châu Phi là
1,9% (tăng 0,63%).
<! [if !supportLineBreakNewLine] >
<! [endif] >
6. Bài học xuất khẩu gạo
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu gạo ước vẫn đạt hơn 2,8 tỉ USD với giá xuất bình
quân hơn 620 USD/tấn, nhưng có thể nói đây là năm “tức anh ách” với nông dân và
nhiều thương nhân. Cơ hội để người nông dân và nền kinh tế thu lợi khi giá lương
thực tăng cao, đến 1.200 USD/tấn gạo, đã bị bỏ qua vì lệnh tạm ngưng xuất khẩu gạo
vào đầu tháng 4 để đảm bảo an ninh lương thực. Sau đó 3 tháng, dù được xuất khẩu
lại, nhưng giá gạo chỉ còn hơn 600 đô la Mỹ/tấn và đến tháng 12 giảm còn khoảng
350 đô la/tấn. Chính Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khi trả lời
chất vấn đại biểu Quốc hội đã nhìn nhận do dự báo kém dẫn đến lúng túng trong điều
hành


7. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh
Với mức điều chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng, thêm
3% từ ngày 25.12, năm 2008 chứng kiến tới 2 lần tăng tỷ giá bình quân
liên ngân hàng (lần trước là vào 11.6) và 3 lần nới rộng biên độ tỷ giá. So
với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của các ngân
hàng thương mại cuối năm nay đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột
biến so với các năm trước. Thị trường cũng biến đổi nhanh chóng từ chỗ
ứ đọng ngoại tệ sang khan hiếm, thậm chí sốt ngoại tệ, có lúc doanh
nghiệp không thể mua USD để thanh toán hợp đồng. Với sự can thiệp của
Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại hối lần đầu tiên
được công khai một cách chính thức, về cuối năm tỷ giá dần được ổn
định.
8. Các liên doanh ô tô nhập khẩu xe nguyên chiếc
Một trong những câu chuyện gây bất ngờ nhất của ngành ôtô Việt Nam
2008 chính là việc các liên doanh ôtô thuộc Hiệp hội Các nhà sản xuất
ôtô Việt Nam (VAMA) tham gia thị trường xe hơi nhập khẩu nguyên
chiếc sớm hơn lộ trình. Đầu tiên là Công ty Liên doanh Mercedes-Benz
Việt Nam (MBV) đột phá thị trường nhập khẩu của các khối các liên
doanh trong nước bằng lô 4 chiếc E200K Avantgarde và một chiếc
crossover R350L; tiếp bước nhiều liên doanh khác cũng đã tham gia thị
trường xe nhập khẩu nguyên chiếc như Toyota với Land Cruiser, Ford
với Mondeo 2008, Suzuki với Swift hay gần đây nhất là Vinastar
(Mitsubishi) với mẫu pick-up Triton. Sự kiện này đặt ra nhiều câu hỏi về
chiến lược nội địa hóa ngành ô tô của Việt nam ?
9. Kinh hoàng thuốc lá nhập lậu
Con số hơn 700 triệu bao thuốc lá nhập lậu vào Việt Nam trong năm
2008, tăng 10% so với năm 2007 được Hiệp hội thuốc lá Việt Nam công
bố tại hội nghị tổng kết công tác chống buôn lậu thuốc lá điếu và thực
hiện thông tư số 75/2007/TT-BTC tại TPHCM làm không ít người sửng
sốt. Thuốc lá lậu chiếm thị phần tiêu thụ rất lớn. Cụ thể, TP Cần Thơ

chiếm gần 70% thị phần, TPHCM khoảng 46% thị phần và các tỉnh Nam
Bộ nói chung thuốc lá lậu chiếm khoảng 41% thị phần. Năm 2008, theo
thống kê riêng cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) mỗi ngày có khoảng
500.000 bao thuốc lá nhập lậu vào Việt Nam. Các ngành chức năng cho
biết, với tình hình thuốc lá nhập lậu như trên đã làm thất thoát ngoại tệ
khoảng 200 triệu USD/năm và thất thu thuế cho nhà nước khoảng 2.500-
3.000 tỉ đồng/năm.
10. Ngành giày da gặp hạn nhưng vẫn về đích
Năm 2008 là năm ngành da giày nhận được nhiều “hung tin”, Ngày 2/10,
tức là 5 ngày trước thời điểm hiệu lực áp thuế chống bán phá giá giày mũ
da của Việt Nam và Trung Quốc từ 2006-2008 chấm dứt, Uỷ ban châu
Âu (EC) đã ban hành quyết định tiến hành rà soát chống bán phá giá cho
giày mũ da nhập từ Việt Nam và Trung Quốc. Ngày 31/10/2008, EC
chính thức công bố việc khởi kiện rà soát cuối kỳ đối với vụ kiện chống
bán phá giá giày mũ da Việt Nam. Giai đoạn rà soát sẽ tiến hành trong
vòng từ 12-15 tháng như thông lệ. Trong thời gian tiến hành rà soát mức
thức bán phá giá 10% vẫn tiếp tục duy trì áp cho mặt hàng giày mũ da
Việt Nam cho đến khi EC có kết luận cuối cùng về kết quả giai đoạn rà
soát. Trước đó, EU thông báo đã đưa sản phẩm giày Việt Nam ra khỏi
danh sách được hưởng GSP giai đoạn 2009 -2011. Từ 2009, sản phẩm
giày Việt Nam xuất khẩu vào EU sẽ phải chịu thêm mức thuế xuất 5%.

Mặc dù vậy, với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 12 ước đạt 450 triệu
USD, ngành da giày đã vượt chỉ tiêu xuất khẩu cả năm 2008 trên 200
triệu USD, giữ mức 4,69 tỉ USD.
Kinh tế Việt Nam: Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2008
[07/01/2009]
Đã xuất hiện nhiều dấu hiệu đáng lo ngại khi nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất
những tháng cuối năm giảm, sức ép từ hàng tiêu dùng nước ngoài.
Kim ngạch xuất khẩu tăng 29,5%

Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 4,9 tỷ
USD, tăng 16,2% so với tháng trước chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác tăng, mức tiêu
thụ hàng dệt may mạnh hơn vào tháng cuối năm và lượng gạo xuất khẩu đã tăng trở lại.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng
29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9
tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt
28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%.
Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và
khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của các loại hàng hoá đều tăng so với năm
2007, chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng.
Loại trừ yếu tố giá chỉ tăng 13,5%
Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng
khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá
của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim
ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.
Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất, ước tính
đạt 11,6 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2007 với 5 mặt hàng chủ yếu (chiếm tỷ trọng 76%
tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này) gồm: Hàng dệt may,
dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy sản.
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu sang thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối
năm, nhưng ước tính cả năm vẫn đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2007 với các mặt
hàng chính là: Dầu thô, gạo, thủy sản, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện.
Thị trường EU ước tính đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước gồm các mặt hàng truyền
thống như: Hàng dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản. Thị trường Nhật Bản ước tính đạt
8,8 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2007, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng: Dầu thô, giày
dép, thủy sản, máy tính và linh kiện, dây và cáp điện.
Kim ngạch nhập khẩu tăng 28,3%
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 16,1% so với
tháng trước do một số mặt hàng nhập khẩu tháng này tăng mạnh là: Máy móc thiết bị tăng

272 triệu USD; xăng dầu tăng 78 triệu USD; thức ăn gia súc tăng 53 triệu USD; sắt, thép tăng
182 triệu USD. So với tháng 12/2007, kim ngạch nhập khẩu tháng 12 năm nay giảm 25%.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3%
so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng
21,4% so với năm 2007.
Nhập khẩu nguyên liệu
giảm
Nhìn chung, các mặt hàng
nhập khẩu chủ lực nhằm
đáp ứng nhu cầu phát
triển sản xuất trong nước
đều tăng so với năm 2007.
Tuy nhiên, nhập khẩu
nguyên liệu cho sản xuất
những tháng cuối năm có
xu hướng giảm nhiều, đây
là một trong những dấu
hiệu của sự chững lại
trong đầu tư và sản xuất.
Trong khi đó, kim ngạch
nhập khẩu hàng tiêu dùng
đang có xu hướng tăng
vào các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng
tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước.
Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt
1 tỷ USD với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dưới 12 chỗ ngồi 27,5 nghìn chiếc, tương đương 380
triệu USD).
Nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy tính, điện tử) ước tính đạt 13,7 tỷ

USD, tăng 23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu xăng dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so với
năm trước, tương ứng với kim ngạch 10,9 tỷ USD, tăng 41,2%. Sắt thép đạt 6,6 tỷ USD, tăng
28,5%.
Vải và nguyên phụ liệu dệt may là những mặt hàng phục vụ chủ yếu cho sản xuất hàng xuất
khẩu vẫn đạt kim ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2007.
Hàng điện tử máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm trước, đây là nhóm
hàng không chỉ gắn với tiêu dùng trong nước mà còn liên quan tới gia công, lắp ráp để xuất
khẩu.
Sức ép từ hàng tiêu dùng nước ngoài
Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất những tháng cuối năm có xu hướng giảm
nhiều, đây là một trong những dấu hiệu của sự chững lại trong đầu tư và sản xuất.
Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng đang có xu hướng tăng vào các tháng
cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng của
Việt Nam ngay tại thị trường trong nước
Nhập khẩu từ Trung Quốc lên tới 15,4 tỷ, tăng 23,2%
Trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ
khu vực ASEAN, ước tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007; Trung Quốc 15,4 tỷ
USD, tăng 23,2%; thị trường EU 5,2 tỷ USD, tăng 1,7%; Đài Loan 8,4 tỷ USD, tăng 21,8 %;
Nhật Bản 8,3 tỷ USD, tăng 37,7%.
Nhập siêu năm 2008 ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng trước đây
nhưng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập siêu lớn nhất,
đứng đầu là thị trường Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm 2007.
Những điểm nổi bật của xuất nhập khẩu 2008
Theo số liệu ước tính của Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam
ước đạt gần 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất
trong nhiều năm trở lại đây.
Một năm có những kết quả ấn tượng, nhưng những khó khăn cũng đã lộ diện và
chuyển tiếp cho năm 2009.
Năm 2008, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua nhiều biến

động về thị trường, giá cả, khó khăn của những rào cản thương mại, tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu… Đi cùng với đó là nhiều thay đổi trong cơ chế điều hành,
hoạch định chính sách.
VnEconomy xin điểm lại những nét nổi bật của hoạt động xuất nhập khẩu trong năm đầy biến
động này.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng
Theo số liệu ước tính của Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam
ước đạt gần 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất
trong nhiều năm trở lại đây.
Những mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD những năm trước tiếp tục duy trì
ở mức cao như dầu thô (10,5 tỷ USD), dệt may (9,1 tỷ, giày dép (4,7 tỷ USD), thủy sản (4,56
tỷ USD), gạo (2,9 tỷ USD), sản phẩm gỗ (2,78 tỷ USD), cà phê (2 tỷ USD), cao su (1,6 tỷ
USD), than đá (1,44 tỷ USD). Đặc biệt trong năm nay có thêm mặt hàng dây điện và cáp điện
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (ước đạt 1,04 tỷ).
Nhập siêu được kiềm chế
Năm 2008, mục tiêu kiềm chế nhập siêu đặt ra từ đầu năm là dưới 20 tỷ USD. Kết thúc năm,
theo Bộ Công Thương, nhập siêu ước chỉ ở khoảng 17 tỷ USD (theo Tổng cục Thống kê
khoảng 17,5 tỷ USD).
Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2007,
lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng cuối năm, nhập siêu được kiềm chế ở mức
thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng nhập khẩu trên thị trường thế giới
giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
Điểm đáng chú ý là trong năm 2008, lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vượt tốc độ
tăng trưởng nhập khẩu (29,5% so với 27,5%); năm 2007 tốc độ tăng trưởng nhập khẩu tăng
25,6%, trong khi xuất khẩu là 12,7%. Đây là một thuận lợi góp phần ổn định cán cân thương
mại, hỗ trợ kiềm chế nhập siêu.
Trong cơ cấu nhập siêu lớn nhất là từ châu Á, đứng đầu là từ Trung Quốc với 10,8 tỷ USD,
cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm 2007.
Xuất khẩu chịu tác động mạnh của khủng hoảng
Từ tháng 9, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toán cầu đã bắt

đầu thể hiện trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Hầu hết các mặt
hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh, đặc biệt ở mặt hàng dầu thô, nông sản, thủy sản…
Trong hai tháng cuối năm, lượng đơn hàng từ đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị
hủy bỏ hoặc sụt giảm, tiêu biểu như dệt may giảm khoảng 20% - 30% về số đơn hàng và giá,
thủy sản giảm khoảng 30% đơn hàng và giá…
Theo dự báo của Bộ Công thương, những khó khăn trên sẽ tiếp tục thể hiện trong năm 2009.
Đây cũng là lý do mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 chỉ đặt ở mức thấp là
13%.
Giá hàng xuất nhập khẩu biến động mạnh
Liên quan đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, năm
2008 chứng kiến những biến động chưa từng có về giá hàng xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến
kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.
Trong nửa đầu năm, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang, gây áp lực tăng chi phí
nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao; lạm phát trong nước cũng có một phần nguyên nhân từ
diễn biến này. Ngược lại, giá tăng cao cũng là yếu tố thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu, đặc
biệt là xuất khẩu dầu thô, nông sản; trong 7 tháng đầu năm, giá dầu thô tăng khoảng 60%,
giá gạo tăng hơn 50%, than đá tăng 55%, cao su và cà phê tăng hơn 30% so với cùng kỳ
năm 2007.
Từ cuối tháng 7, giá hàng trên thị trường thế giới bắt đầu bước vào một đợt thoái trào mạnh,
đặc biệt từ tháng 9. Theo đó, lạm phát, nhập siêu có thêm yếu tố thuận lợi để kiềm chế, trong
khi xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng.
Điểm lại, những biến động của giá hàng xuất nhập khẩu trong năm 2008 hầu hết đều đánh
đổ các dự báo và lường tính của doanh nghiệp, cũng như hoạch định dự kiến của nhà điều
hành chính sách.
Khó khăn từ biến động tỷ giá
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND đã tăng khoảng 9%, vượt xa mức thay đổi quanh 1%
những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế
(khoảng 70%).
Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành
hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là

năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột
biến.
Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm
mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất
kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.
“Sống chung” với nguy cơ chống bán phá giá
Trở thành “thông lệ” của hội nhập những năm gần đây, năm 2008, nhiều mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam tiếp tục đứng trước nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá, nhất là sản phẩm
dệt may và giày da.
Giữa tháng 5, Ấn Độ chính thức điều tra bán phá giá đối với mặt hàng sợi vải của Việt Nam;
tháng 12, Hiệp hội Công nghiệp Giày Brazil cũng chính thức nộp đơn khởi kiện giày dép Việt
Nam bán phá giá… Nổi bật nhất là trường hợp Ủy ban châu Âu (EC) lên kế hoạch rà soát
chống bán phá giá đối với sản phẩm giày da của Việt Nam; các doanh nghiệp xuất khẩu giày
sẽ phải tiếp tục chịu mức áp thuế chống bán phá giá 10%.
Tính đến cuối năm 2008, ước tính đã có tổng cộng hơn 30 vụ kiện về chống bán phá giá đối
với hàng Việt Nam xuất khẩu. Trước những khó khăn này, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam đã thành lập Hội đồng Tư vấn Chống bán phá giá để hỗ trợ các hiệp hội,
doanh nghiệp ứng phó với nguy cơ bị kiện chống bán phá giá của nước ngoài.
Điều chỉnh thuế nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu
Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối với
nhiều mặt hàng. Một mặt, những điều chỉnh này được thực hiện theo các cam kết thuế quan
giữa các nước thành viên khối ASEAN và theo lộ trình gia nhập WTO; mặt khác, đây cũng là
ứng xử của nhà điều hành chính sách trước những biến động mạnh và bất thường trên thị
trường thế giới nhằm hỗ trợ cho sản xuất, bình ổn thị trường trong nước, cũng như hỗ trợ
các ngành hàng xuất khẩu.
Thuế một loạt các mặt hàng nông sản, đồ gỗ, sắt thép, xăng dầu, gas, ôtô, giấy, nguyên vật
liệu cho sản xuất… liên tục được điều chỉnh; điển hình như thuế xuất khẩu thép, thuế nhập
khẩu xăng dầu.
Một điểm đáng chú ý là tần suất điều chỉnh chính sách thuế xuất nhập khẩu tập trung từ
tháng 9 về cuối năm, giảm phổ biến ở nhiều mặt hàng (riêng thuế nhập khẩu xăng dầu liên

tục tăng), như một giải pháp để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, ngành hàng trong bối cảnh suy
giảm kinh tế trong và ngoài nước.
Chuyển động mới trong mở rộng thị trường xuất khẩu
Trước khó khăn của những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản…, hoạt động xuất
khẩu của nhiều doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh sang khai thác và mở rộng những thị
trường mới, hoặc đã thâm nhập trước đó.
Theo báo cáo của Bộ Công thương, mức tăng trưởng của các khu vực thị trường có sự thay
đổi, xuất khẩu sang thị trường châu Phi đã tăng tới 95,7%, châu Á tăng 37,8%; châu Đại

×