Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Đánh giá kỹ thuật vn 94-2000.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.76 KB, 57 trang )

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
Đánh giá
Hợp tác Kỹ thuật tại Việt Nam
(1994-2000)
Báo cáo tư vấn độc lập
Chuẩn bị cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
Hà Nội, tháng 10 năm 2000
2
Lời tựa
Báo cáo này được chuẩn bị cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chương trình Phát triển Liên
hợp quốc, trong khuôn khổ của Nghiên cứu về Hiệu quả của Hợp tác kỹ thuật tại Việt Nam từ
năm 1994, với kinh phí từ Dự án VIE/98/012 Hỗ trợ Quản lý Chương trình của UNDP. Báo
cáo được chuẩn bị bởi một Đoàn chuyên gia tư vấn độc lập gồm Giáo sư Tiến sĩ Brian
VanArkadie làm Trưởng đoàn và các ông Vũ Tất Bội và Trần Dũng Tiến là Chuyên gia tư vấn
trong nước. Trong thời gian nghiên cứu, các tác giả đ nhận được sự giúp đỡ to lớn và những
ý kiến đóng góp quý báu của nhiều người tham gia trực tiếp vào các khía cạnh khác nhau của
công việc quản lý và thực hiện hợp tác kỹ thuật tại Việt Nam.
Các tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc vì sự hỗ trợ mạnh mẽ và những ý kiến
đóng góp bổ ích của tất cả những người mà họ đ có dịp gặp gỡ và phỏng vấn trong quá trình
tiến hành công trình nghiên cứu này.
Bản báo cáo phản ánh quan điểm cá nhân của các tác giả và không nhất thiết đại diện
cho quan điểm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Chương trình phát triển Liên hợp quốc,
hoặc của các tổ chức nơi họ làm việc. Báo cáo này chưa được chỉnh lý.
MụC LụC
Phần I: Tóm lược..................................................................................................................... 5
Phần II: Phạm vi báo cáo ....................................................................................................... 9
1. Giới thiệu......................................................................................................................9
3
2. Định nghĩa về hợp tác kỹ thuật................................................................................... 9.
3. Các mục tiêu bao quát của hợp tác kỹ thuật .............................................................. 10


4. Một số mục tiêu cụ thể của hợp tác kỹ thuật tại Việt Nam........................................ 11
5. Các mối quan tâm về hiệu quả của của Việt Nam và các nhà tài trợ về hiệu
quả của hợp tác kỹ thuật ............................................................................................ 12
6. Cách tiếp cận của báo cáo ......................................................................................... 14
Phần III: Tổng quan về quá trình hợp tác kỹ thuật tại Việt Nam.................................... 17
1. Giai đoạn trước 1994 ................................................................................................. 17
2. Hợp tác kỹ thuật và tiến trình Đổi Mới...................................................................... 18
3. Những xu hướng lớn trong hợp tác kỹ thuật và các nguồn viện trợ khác từ năm 1994
đến nay....................................................................................................................... 19
4. Phân tích hợp tác kỹ thuật theo ngành và theo vùng lnh thổ: .................................. 20
Phần IV: Những phát hiện ................................................................................................... 23
1. Thành công chung của chương trình hợp tác kỹ thuật............................................... 23
2. Quản lý hợp tác kỹ thuật: Hiệu quả, ý thức làm chủ quốc gia và
trách nhiệm giải trình................................................................................................. 23
1. Công tác quản lý viện trợ của Chính phủ ...............................................................28
2. Các phương thức hợp tác kỹ thuật ......................................................................... 28
3. Tăng cường năng lực để giảm bớt lệ thuộc vào hợp tác kỹ thật............................. 29
4. Quản lý viện trợ: Sự minh bạch về tài chính và các biện pháp khuyến khích 32
5. Chiều hướng mới trong quan hệ giữa Chính phủ và các nhà tài trợ: Điều phối,
quan hệ đối tác và ý thức làm chủ ......................................................................... 33
6. Hiệu quả của hợp tác kỹ thuật và nhu cầu tiếp cận thông tin ................................ 37
7. Bảo quản và sử dụng các kết quả hợp tác kỹ thuật ................................................ 38
3. Hiệu quả hoạt động trong một số lĩnh vực then chốt................................................. 38
1. Hỗ trợ cải cách trong lĩnh vực quản lý kinh tế .......................................................38
2. Cải cách luật pháp ................................................................................................. 43
3. Quản lý quốc gia và cải cách hành chính............................................................... 45
4. Đào tạo nâng cao năng lực ..................................................................................... 48
5. Hợp tác kỹ thuật ở cấp tỉnh và địa phương............................................................. 49
6. Sự tham gia của cấp cơ sở ......................................................................................51
Phần V: Các lĩnh vực cần đối thoại trong tương lai ...........................................................52

Các hộp và phụ lục
Hộp 1: Kinh nghiệm quốc tế: Những thất bại của trợ giúp kỹ thuật....................................... 16
Hộp 2: Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới về hiệu quả của viện trợ và Việt Nam................ 21
Hộp 3: Tăng cường năng lực quản lý: Đào tạo các nhà làm chính sách và các chuyên gia
kinh tế ........................................................................................................................ 42
Hộp 4: Dự án Viện Quản lý kinh tế trung ương "Cải thiện môi trường điều tiết để
phát triển kinh doanh.................................................................................................. 44
Phụ lục 1: Một số mốc quan trọng trong quá trình đổi mới ở Việt Nam: 1986-1998............ 53
Các từ viết tắt
4
ADB Ngân hàng Phát triển châu á
AFTA Khu vực tự do mậu dịch ASEAN
AID Hiệp hội Quốc tế về Phát triển
APEC Diễn đàn Kinh tế châu á - Thái Bình Dương
Bộ KHĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư
CEPT Hệ thống ưu đi thuế quan hiệu lực chung
CG Nhóm Tư vấn
CIDA Cơ quan Phát triển Quốc tế của Canada
CTA Cố vấn trưởng kỹ thuật
DAC Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (thuộc OECD)
DCAS Hệ thống phân tích hợp tác phát triển (của UNDP)
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
EC/EU Cộng đồng Châu Âu
EDI/WB Viện Phát triển Kinh tế (thuộc Ngân hàng Thế giới)
FAO Tổ chức Nông nghiệp & Lương thực Liên hợp quốc
GDP Tổng sản phẩm trong nước
HTKT Hợp tác kỹ thuật
JBIC Ngân hàng Nhật bản về Hợp tác Quốc tế
LHQ Liên hợp quốc
NEX Phương thức quốc gia điều hành dự án

NGO Tổ chức phi chính phủ
ODA Viện trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
SIDA Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thuỵ Điển
UNDP Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc
UNICEF Quỹ Nhi đồng của Liên Hợp Quốc
UNIDO Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hiệp Quốc
Viện QLKTTƯ Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
WB Ngân hàng Thế Giới
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
5
Phần I: Tóm lược
1.
Hợp tác kỹ thuật (HTKT) tại Việt Nam nhằm các mục đích phát triển nguồn nhân lực,
chuyển giao kiến thức và kỹ năng, xây dựng năng lực, phát triển thiết chế và tư vấn
chính sách ở các cấp. HTKT bao quát nhiều lĩnh vực như cải cách chính sách, khuyến
khích đầu tư, phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường, hỗ trợ Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế.
2.
Trong giai đoạn 1994-1998, khối lượng HTKT dao động từ 250-300 triệu USD mỗi
năm, chiếm 20-30% tổng mức giải ngân Viện trợ phát triển chính thức (ODA) hàng
năm.
3.
Để đảm bảo hiệu quả của HTKT, Chính phủ cần nỗ lực ở tất cả các cấp để khai thác tối
đa nguồn hỗ trợ này.
4.
Sự phân bổ HTKT theo vùng lnh thổ đang trở nên cân đối hơn, chuyển từ tập trung tại
các trung tâm lớn (đặc biệt là Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh) sang các tỉnh khác.
Điều này phản ánh mục tiêu chung của Chính phủ và các nhà tài trợ là mở rộng hơn nữa

tác động của các thành tựu phát triển. Tuy nhiên, sự phân bổ giữa các tỉnh có phần chưa
cân đối và còn bỏ sót một số khu vực.


Đoàn chuyên gia tư vấn đi đến kết luận rằng chương trình HTKT ở Việt Nam nhìn
chung là thành công, đặc biệt khi so sánh với những khó khăn gặp phải trong việc
thực hiện HTKT ở nhiều nước khác. Những lĩnh vực thu được thành công gồm:


Nguồn nhân lực phát triển mạnh thông qua nhiều hình thức đào tạo, gồm đào tạo tại
chức, các suất học bổng ngắn hạn, đào tạo giảng viên, đào tạo sau đại học tại Việt
Nam và ở nước ngoài
1
.


Tư vấn chính sách đ hỗ trợ cải cách trong nhiều lĩnh vực quan trọng, gồm tư vấn về
cải cách tài chính và ngân hàng, soạn thảo các luật thiết yếu cho nền kinh tế trong
quá trình chuyển đổi, hợp lý hoá các quy chế liên quan tới các cơ quan chủ chốt
(như Bộ KHĐT, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Văn phòng Quốc hội, Toà án Nhân dân
Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao v.v...), giúp soạn thảo các kế hoạch phát
triển và chương trình đầu tư công cộng, hỗ trợ Việt Nam hội nhập khu vực và quốc
tế, cải cách hành chính công.


Hỗ trợ nhiều khía cạnh x hội của sự nghiệp phát triển, như phát triển nông thôn
gắn liền với xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, các
vấn đề về giới, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống ma tuý v.v



1
Nhiều nước đ xây dựng chương trình đào tạo Thạc sĩ theo yêu cầu của Việt Nam cho các lĩnh vực kinh tế thị
trường, quản trị kinh doanh, kế toán và kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm, công nghệ tin học...
6
Hỗ trợ tiến hành một số cuộc điều tra quan trọng và thu thập số liệu thống kê, như
điều tra dân số và nhà ở, điều tra mức sống dân cư của các hộ gia đình, điều tra về
thu nhập v.v , nhằm cải thiện số lượng và chất lượng số liệu thống kê phục vụ
công tác lập kế hoạch và xây dựng chính sách.
Với sự giúp đỡ của các chương trình HTKT, nhiều cơ quan ở các cấp (bộ, ngành,
tỉnh, địa phương) đ xây dựng và phát triển năng lực của mình, như nâng cao kỹ
năng, nghiệp vụ, củng cố tổ chức, hoàn thiện quy chế.
6.

Mặc dù đánh giá tổng thể là tích cực, nhưng với sự gia tăng nhanh chóng của nguồn vốn
ODA, do đó một số vấn đề đ nảy sinh trong xây dựng kế hoạch và thực hiện HTKT.
Theo kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia khác về những vấn đề liên quan tới hiệu
quả của viện trợ và sự phụ thuộc vào viện trợ, đã đến lúc Chính phủ Việt Nam và
cộng đồng tài trợ cần đánh giá một cách thận trọng các yêu cầu nhằm đảm bảo
chương trình HTKT sẽ tiếp tục thành công trong tương lai.
7.

HTKT phát huy hiệu quả tốt nhất khi Chính phủ có ý thức làm chủ quốc gia về
chương trình và cam kết sẽ sử dụng nguồn lực này một cách hiệu quả. Hiệu quả của
HTKT phụ thuộc rất nhiều vào khả năng hấp thụ của bên tiếp nhận và khả năng điều
chỉnh các phương thức thực hiện HTKT cho phù hợp với năng lực đó và với các điều
kiện thực tế của địa phương.
8.

Trong quá trình tiến hành công trình nghiên cứu này, nhóm chuyên gia tư vấn đ được
nghe các quan điểm khác nhau về ý thức làm chủ và tính minh bạch trong HTKT,

từ phía các nhà tài trợ cũng như các cơ quan nhận viện trợ. Những quan điểm khác nhau
này cần được thảo luận thẳng thắn giữa các cơ quan Chính phủ và các nhà tài trợ, trên
cơ sở các nguyên tắc của Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) về các quy định quản lý ODA
và HTKT. Về phía các nhà tài trợ, cần thấy rằng việc xây dựng ý thức làm chủ có thể
đòi hỏi nhà tài trợ phải nhường lại một số quyền kiểm soát mà họ đang có, còn về phía
Chính phủ cần tuyên bố rõ rang các ưu tiên của mình và đánh giá kỹ càng sự trợ giúp
được đề xuất xem có thể chấp nhận được hay không.


Các khuyến nghị

9.

Chương trình HTKT vẫn thực sự cần thiết cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh phức
tạp của việc tiếp tục quá trình cải cách và những vấn đề sẽ phải giải quyết để tạo điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập khu vực và quôc tế (ví dụ, tham gia AFTA, APEC
và WTO). Cần tiếp tục hỗ trợ để tăng cường khả năng hấp thụ ODA, xây dựng năng lực
và phát triển thiết chế.
Việt nam cần xây dựng một chiến lược có hệ thống hơn để sử dụng HTKT. Chiến lược
này phải nêu lên được những vấn đề sau:
Chính phủ cần xây dựng một quan điểm rõ ràng hơn về những gì có thể làm và
không thể làm trong lĩnh vực HTKT, cần xây dựng các hướng dẫn cho việc thiết kế
các dự án tương lai và cần định ra các tiêu chí để chấp nhận hoặc từ chối các đề nghị
HTKT;
7
Với sự hợp tác của các nhà tài trợ, chiến lược phải nêu lên một số nguyên tắc chung
về thiết kế dự án (ví dụ, khi nào nên sử dụng các chuyên gia dài hạn? Làm thế nào
để gắn kết chuyên gia quốc tế với các dự án? v.v....);
Cần có sự hướng dẫn rõ ràng về những ngành/lĩnh vực được ưu tiên để chuyển
HTKT tới những nơi còn bị bỏ sót, xác định những ngành/lĩnh vực mới cần có

HTKT và ngăn chặn tình trạng tập trung quá mức các nguồn HTKT vào những
ngành/lĩnh vực đang được ưa chuộng.
Chiến lược cần xác định mục tiêu của HTKT càng cụ thể càng tốt và xác định đúng
điểm vào để thực hiện các mục tiêu đó, ví dụ như các cơ quan nào là thích hợp
nhất để có thể sử dụng HTKT có hiệu quả để đạt được những mục tiêu đề ra.
Chiến lược phải có điểm ra cho từng hoạt động, tức là điểm đích cho sự thực hiện
thành công, giảm dần và đi đến chấm dứt HTKT.
Chiến lược phải bao gồm một kế hoạch phát triển năng lực tư vấn trong nước, để
từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào chuyên gia quốc tế.
11.

Việt Nam cần tránh sự lệ thuộc vào viện trợ: Việc hình thành năng lực bền vững trong
nước phải là ưu tiên số một của chương trình HTKT. Nhu cầu về các chương trình tài
trợ bằng HTKT phải được xem là có tính chất tạm thời, hoặc là một nhu cầu trong thời
kỳ quá độ.

12.

Các nhà tài trợ và đặc biệt là Chính phủ cần tăng cường hơn nữa việc theo dõi và đánh
giá các chương trình, dự án ODA và HTKT. Còn nhiều chương trình, dự án đ không
được đánh giá và tác động của chúng cũng không được đánh giá.

13.

Cần chú ý tới tính bền vững của các hoạt động được các chương trình, dự án HTKT tài
trợ. Các cơ quan tiếp nhận cần đảm bảo có vốn đối ứng và các nguồn lực cần thiết cho
những hoạt động tiếp theo. Cần tính toán đầy đủ chi phí thường xuyên của các dự án.
Cần chú ý sử dụng tốt các kết quả dự án (ví dụ, nghiên cứu và sử dụng các báo cáo của
dự án; sử dụng các kiến thức và kỹ năng được chuyển giao trong quá trình đào tạo theo
dự án).


14.

Hiệu quả của việc xây dựng năng lực liên quan chặt chẽ tới việc tăng cường thiết chế.
Nếu không có những thay đổi cần thiết về mặt tổ chức, những kiến thức và kỹ năng đ
tiếp thu được có thể sẽ không được sử dụng và sẽ nhanh chóng bị lng quên.
15.

Để đạt được những mục tiêu dài hạn của chương trình HTKT đòi hỏi phải xây dựng và
phát triển các công ty tư vấn độc lập, trong bối cảnh một nền công nghiệp tư vấn mang
tính cạnh tranh. Mục đích là tăng dần tỉ trọng cung cấp dịch vụ tư vấn trong nước, thông
qua việc tăng cường năng lực của các công ty tư vấn trong nước nhằm cung cấp tư vấn
độc lập và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
8
16.
Mục tiêu cơ bản của HTKT là xây dựng năng lực và củng cố tổ chức thông qua phát
triển nguồn nhân lực (ví dụ, đào tạo, giáo dục và các hoạt động nâng cao năng lực khác)
và hỗ trợ cho việc hoàn thiện nền hành chính công và môi trường thiết chế. Tăng cường
năng lực không phải là một nhiệm vụ dễ dàng và một số hoạt động tăng cường năng lực
đòi hỏi sự cam kết dài hạn, vượt ra ngoài chu kỳ của một dự án HTKT thông thường.
Trong một số lĩnh vực đặc biệt - như cải cách công chức, cải cách chính sách kinh tế và
cải cách ngành tài chính - đòi hỏi một trình tự các dự án, mà theo đó công việc của giai
đoạn sau phải được xây dựng trên nền tảng kết quả của những nỗ lực trước đó.
17.
Hơn nữa, một điều quan trọng là cả hai bên phải có đích rõ ràng cho việc hoàn thành
các nhiệm vụ cụ thể. Cần có chiến lược rút lui để khi kết thúc HTKT thì đ xây dựng
được một năng lực quốc gia thực sự và bền vững. Nếu thiếu chiến lược này thì sự phụ
thuộc vào viện trợ có thể sẽ tồn tại mi mi, sau dự án HTKT này lại đến một dự án
HTKT khác, với các mục tiêu về cơ bản là giống nhau.
18.

Cầu khẩn trương tăng cường năng lực ở cấp tỉnh và địa phương để có thể tiếp thu HTKT
và viện trợ một cách có hiệu quả.
19.
Để đạt được một mối quan hệ đối tác có hiệu quả hơn trong hoạt động viện trợ, cả hai
bên đều cần có sự cam kết về tính minh bạch và cung cấp các nguồn lực cho việc thực
hiện các cuộc đối thoại về các vấn đề ngành/lĩnh vực và đổi mới trong thiết kế dự án.
9
phần II: phạm vi báo cáo
1. Giới thiệu
Là đầu mối quốc gia về điều phối viện trợ, Bộ KHĐT đ thay mặt Chính phủ yêu cầu
UNDP-Hà Nội hỗ trợ trong việc tiến hành Nghiên cứu về hiệu quả của HTKT cho Việt Nam
trong giai đoạn 1994-1999.
Đoàn chuyên gia tư vấn đ tiến hành hai đợt công tác tập trung ở Việt Nam trong tháng
3 và tháng 5 năm 2000. Đoàn đ có dịp gặp gỡ và phỏng vấn nhiều người tham gia trực tiếp
vào việc quản lý HTKT ở Hà Nội và đi thăm tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Đắc Lắc và Thành phố
Hồ Chí Minh. Đoàn đ thảo luận rộng ri với các quan chức của Văn phòng UNDP tại Việt
Nam, đại diện của các nhà tài trợ đa phương cũng như song phương, một số tổ chức NGO
quốc tế, các quan chức cao cấp của Bộ KHĐT cũng như của các Cơ quan chủ quản khác của
Chính phủ, và các Giám đốc của nhiều dự án do nước ngoài tài trợ. Tuy nhiên, do thời gian
hạn hẹp, Đoàn không thể gặp gỡ nhiều nhà tài trợ khác - trong đó một số có chương trình viện
trợ khá lớn, và không đi thăm các tỉnh được bao nhiêu. Nhưng, mặc dù phạm vi làm việc của
Đoàn nhất thiết phải hạn chế như vậy, Đoàn đ rút ra một số kết luận và khuyến nghị để
Chính phủ và các nhà tài trợ xem xét.
Dựa vào kết quả của các cuộc thảo luận, phỏng vấn và thăm viếng dự án, Đoàn chuyên
gia tư vấn đ chuẩn bị bản dự thảo báo cáo vào cuối tháng 5 năm 2000. Bản dự thảo này được
trình bày tại một một cuộc hội thảo trong tháng 8 năm 2000, với sự tham gia của các quan
chức Chính phủ, UNDP và một số tổ chức thuộc Liên hợp quốc. Đoàn đ tiếp thu ý kiến đóng
góp trước cũng như trong cuộc hội thảo để hoàn thiện bản báo cáo.
Đề cương làm việc yêu cầu Đoàn chuyên gia tư vấn nghiên cứu giai đoạn 1994-1999.
Tuy nhiên, cần đặt những diễn biến gần đây trong bối cảnh rộng lớn hơn, để hiểu được sự

diến tiến của HTKT trong tình hình nền kinh tế Việt Nam từng bước phát triển và quan hệ đối
ngoại của Việt Nam từng bước được mở rộng.
2. Định nghĩa về hợp tác kỹ thuật
HTKT là một thành phần của nguồn vốn ODA tập trung chủ yếu cho các đầu vào phần
mềm phục vụ phát triển, tức là sự hỗ trợ để phát triển nguồn nhân lực và thiết chế, chuyển
giao tri thức và tài trợ cho các đầu vào kỹ thuật mà các cơ quan quốc gia không có khả năng
đáp ứng. HTKT được phân biệt với hỗ trợ vốn để thực hiện các đầu vào phần cứng (như xây
dựng công trình, mua sắm thiết bị v.v...) cho các chương trình phát triển.
Trong thực tế sự phân biệt nói trên thường không rõ nét, vì hầu hết các dự án HTKT
đều có phần cứng (ví dụ, mua xe ôtô, một số thiết bị, nhất là thiết bị văn phòng, và đôi khi cả
nâng cấp trụ sở làm việc), đồng thời trong các dự án đầu tư cũng có một khối lượng đáng kể
hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp chuyên gia và các hoạt động tư vấn.
Trong báo cáo này, các dự án HTKT được phân biệt thành bốn loại chủ yếu:
10
a) Hỗ trợ cho việc chuẩn bị, xây dựng kế hoạch và quản lý các chương trình/dự án đầu
tư cụ thể (ví dụ, nghiên cứu khả thi cho các dự án xây dựng đường xá, cầu cống,
năng lượng bằng vốn vay v.v...). Loại này thường được gọi là HTKT hỗ trợ đầu
tư;
b) Tăng cường năng lực quốc gia để thực hiện các chương trình khu vực công cộng (ví
dụ, cung cấp cố vấn quốc tế và các đầu vào hỗ trợ khác cho các cơ quan quy hoạch,
dịch vụ y tế, chương trình nghiên cứu v.v...);

c) Phát triển nguồn nhân lực (ví dụ, các chương trình đào tạo theo học bổng, hôị thảo,
tham quan khảo sát v.v...), có thể dành riêng cho một cơ quan hoặc dành cho nhiều
cơ quan cùng thụ hưởng;

d) Cung cấp tư vấn (ví dụ, các hoạt động nghiên cứu kinh tế nói chung, hoặc nghiên
cứu theo ngành) về một vấn đề hoặc chính sách cụ thể mà mục tiêu chủ yếu là để
đưa ra những ý kiến tư vấn mang tính khả thi nhất. Trong trường hợp này, việc tăng
cường năng lực quốc gia là một sản phẩm phụ hơn là mục tiêu chính. Thành phần

quan trọng nhất của những ý kiến tư vấn như vậy chính là hỗ trợ cho việc thực hiện
quá trình Đổi Mới.
Ba loại (b), (c) and (d) thường được gọi là hợp tác kỹ thuật độc lập
2
.
3. Các mục tiêu bao quát của hợp tác kỹ thuật
Mục tiêu chủ yếu của các hoạt động HTKT là nhằm thay thế năng lực mà quốc gia
chưa có hoặc hỗ trợ việc xây dựng và phát triển năng lực quốc gia đang thiếu. Quan điểm này
được hầu hết các cơ quan tài trợ và tiếp nhận viện viện trợ chấp nhận. Tuy nhiên, cả hai phía
có thể còn có những mục tiêu khác nữa và không ít khó khăn đ nảy sinh trong mối quan hệ
viện trợ là do cách hiểu khác nhau về những mục tiêu nêu trên.
Ví dụ, HTKT có thể được sử dụng như một công cụ để xúc tiến quan điểm của nhà tài
trợ về một chính sách nào đó. Nhà tài trợ có thể cố gắng áp đặt các mục tiêu hoặc ưu tiên hiện
vẫn chưa nằm trong chính sách quốc gia. Người ta nghi ngờ HTKT có nên được sử dụng như
một công cụ để gây ảnh hưởng đến các ưu tiên quốc gia. Trong thực tế, việc thúc đẩy các mục
tiêu không nằm trong chính sách quốc gia có thể làm hỏng việc, khi lời khuyên không được
chấp nhận vì nó không phù hợp với quan điểm quốc gia. Tuy nhiên, trong việc đẩy mạnh
quá trình cải cách (ví dụ, hỗ trợ quá trình đổi mới), HTKT nên đặt ra những vấn đề mới để
Chính phủ xem xét.
Trong khi mục tiêu chủ yếu của HTKT hỗ trợ đầu tư là rõ ràng (tức là để bảo đảm chất
lượng của các dự án đầu tư được tài trợ), thì nó vẫn có thể bị các nhà tài trợ sử dụng để tác
động đến thiết kế dự án cho phù hợp với triết lý của họ hoặc, thậm chí trong một số trường
hợp, để đạt được lợi ích thương mại của họ.

2

Việt nam: Hợp tác Kỹ thuật trong giai đoạn chuyển đổi
, UNDP, 10/1994; trang 3.
11
Bên cạnh đó, cũng có mục tiêu dân vận ở những nơi sự hỗ trợ cho các hoạt động dễ

thu hút sự quan tâm của mọi người có thể được coi là phương tiện để củng cố vị thế của nhà
tài trợ. Điều này dẫn đến tình trạng viện trợ được đổ vào những lĩnh vực được coi là hợp
mốt hoặc thu hút được sự chú ý của dư luận, gây nên sự trùng lắp hoạt động hoặc bỏ quên
các khu vực ít hợp mốt hơn.
Về phía tiếp nhận viện trợ, đôi khi HTKT có thể được hoan nghênh vì qua đó cơ quan
đối tác được cung cấp kinh phí và các yếu tố vật chất (như phần kinh phí cho các khoản chi
tiêu tại chỗ hoặc chi phí hành chính) hơn là để chuyển giao tri thức của chuyên gia quốc tế
vốn là mục tiêu hiển nhiên của dự án. Điều này dẫn đến việc chấp nhận các dự án ngay cả khi
cơ quan đối tác không mấy quan tâm đến các kết quả dự kiến của dự án. Cơ quan này cũng
có thể phải miễn cưỡng chấp nhận HTKT hỗ trợ đầu tư như là một thủ tục cần thiết, mặc dù
không đáng hoan nghênh, để qua đó tiếp cận được dự án đầu tư của nhà tài trợ.
Trong khi cung cấp tư vấn, nhà tài trợ có thể hy vọng sẽ đóng vai trò quan trọng trong
quá trình ra quyết định chính sách, trong khi phía Việt Nam có thể coi một dự án HTKT cụ
thể sẽ cho phép tiếp cận một quan điểm quốc tế nhất định nhằm cân đối với các quan điểm
khác đang được giới thiệu.
4. Một số mục tiêu cụ thể của hợp tác kỹ thuật tại Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, HTKT có thể hỗ trợ các mục tiêu chính sau đây
của các nhà tài trợ:
a) Cải cách kinh tế
Đề tài xuyên suốt của HTKT trong thập niên qua là hố trợ tiến trình Đổi Mới. Báo cáo
này nhấn mạnh tác động của HTKT trong việc đưa ra các chính sách kinh tế mới, các thay đổi
trong thiết chế kinh tế, việc mở rộng quan hệ của Việt Nam với kinh tế khu vực và quốc tế và
sự hỗ trợ để phát triển một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện hơn.
b) Xây dựng năng lực
Một đề tài liên quan trong chương trình HTKT là hỗ trợ phát triển năng lực quản lý cần
thiết để thực hiện các chương trình phát triển trong bối cảnh mới.
Xây dựng năng lực là thuật ngữ dùng để mô tả quá trình qua đó các cá nhân được
cung cấp cơ hội để nâng cao kiến thức và kỹ năng và các cơ quan được tổ chức lại để sử dụng
hiệu quả những kiến thức và kỹ năng mà các cá nhân đ thu nhận được. Như vậy, xây dựng
năng lực vượt ra khỏi phạm vi cung cấp các hoạt động đào tạo và đề cập rộng hơn tới hệ thống

tổ chức và chế độ khuyến khích, những yếu tố quyết định kiến thức và kỹ năng của con người
được sử dụng một cách có hiệu quả. Việc đào tạo, ngay cả khi được thực hiện tốt, cũng sẽ
kém tác dụng nếu các cá nhân không được yêu cầu sử dụng các kiến thức và kỹ năng đ học
(tức là, quên bởi không làm hơn là học thông qua làm) và không được cung cấp một môi
trường lao động kích thích cách làm việc hiệu quả (ví dụ, công nhận thành tích, khuyến khích
vật chất, cung cấp các phương tiện hỗ trợ).
12
Hỗ trợ xây dựng năng lực bao gồm các hoạt động nhằm tăng cường khả năng quản lý
ODA, cải cách hành chính công, phát triển năng lực để làm việc trong môi trường phân cấp
quản lý, và năng lực quản lý và xây dựng chính sách kinh tế. Đánh giá xây dựng năng lực là
một việc làm đặc biệt khó khăn, vì nó đòi hỏi những nhận xét liên quan đến sự thay đổi về
hiệu quả của các tổ chức cũng như các cá nhân có liên quan.
c) Thúc đẩy các mục tiêu chính sách (liên ngành) then chốt
Những lĩnh vực quan tâm chung, tác động đến sự lựa chọn mục tiêu HTKT của các nhà
tài trợ, bao gồm:
Sự phân bổ HTKT (cho xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, hỗ trợ các nhóm
dân tộc thiểu số v.v...);
Các vấn đề về giới;
Quản lý quốc gia;
Bảo vệ môi trường.
Nhìn chung, Chính phủ Việt Nam chia xẻ mối quan tâm của các nhà tài trợ và, trong
một số lĩnh vực chính sách Việt Nam thậm chí đ đi trước các nhà tài trợ trong việc hướng
trọng tâm vào một số nhiệm vụ then chốt (ví dụ, xoá đói giảm nghèo, bình đẳng x hội; giới
v.v...). Tuy nhiên, điều không thể tránh khỏi là có những khác biệt chính đáng trong cách
hiểu và xắp xếp thứ tự ưu tiên, và các quan điểm khác nhau về phương pháp nào là hiệu quả
nhất để đạt được các mục tiêu đ thoả thuận.
d) Chuẩn bị dự án: Hợp tác kỹ thuật hỗ trợ đầu tư
HTKT hỗ trợ đầu tư là một bộ phận gắn bó hữu cơ của hầu hết các dự án ODA và trong
một số trường hợp đ chứng tỏ là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của dự án. Đầu tư
vốn chỉ phát huy tác dụng trong môi trường chính sách phù hợp, hội đủ các kỹ năng cần

thiết, và dự án được xác định rõ và thiết kế phù hợp. Mặc dầu kinh phí HTKT thường nhỏ hơn
rất nhiều so với các khoản đầu tư, nhưng đôi khi HTKT có tác động rất lớn đến kết quả thực
hiện.
Loại hình HTKT này làm nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến tác động của HTKT đối
với đầu tư, gồm vai trò, tác động và chi phí của các nghiên cứu tiền đầu tư (nghiên cứu tiền
khả thi, nghiên cứu khả thi, thiết kế dự án, quy hoạch tổng thể), việc sử dụng chuyên gia tư
vấn trong nước và quốc tế. Loại hình HTKT này cũng làm cho các những khoản đầu tư có
hiệu quả hơn.
5. Các mối quan tâm của Việt Nam và các nhà tài trợ về hiệu quả của hợp tác kỹ
thuật
Hiện đang có những câu hỏi được nêu lên, từ phía Việt Nam cũng như các nhà tài trợ,
về hiệu quả của chương trình HTKT. Những câu hỏi đó là:
13
Tại kỳ họp của Quốc hội tổ chức tháng 11-12/1999 tại Hà Nội, một số Đại biểu
Quốc hội đ chất vấn về hiệu quả của viện trợ nước ngoài trong các dự án xây dựng
năng lực do một số Bộ thực hiện. Họ cũng đặt câu hỏi về việc giải ngân ODA, hiệu
quả của HTKT trong cải cách hành chính công, trong các công trình xây dựng hạ
tầng (ví dụ, xây dựng đường xá, cầu cống, các công trình thuỷ lợi nông thôn).
Có một số câu hỏi về chi phí của một số dự án, đặc biệt tại những dự án ở đó chi
phí đ bị bóp méo do các qui định của nhà tài trợ (ví dụ về mua thiết vị với các điều
kiện ràng buộc). Đồng thời, cũng có những ý kiến băn khoăn về các khoản nợ đến
hạn phải trả của chương trình ODA.
Một số nhà tài trợ cũng đ thể hiện sự dè dặt về hiệu quả của các hoạt động xây
dựng năng lực.
Tại Hội nghị Nhóm tư vấn cho Việt Nam lần thứ 7 tổ chức tại Hà Nội tháng
12/1999, các đại biểu đ nêu lên sự cần thiết phải tránh bẫy nợ và sự lệ thuộc quá
nhiều vào viện trợ, thể hiện sự chú ý ngày càng tăng đến việc sử dụng hiệu quả các
nguồn viện trợ. Cũng tại Hội nghị Nhóm tư vấn nói trên, Chính phủ đ công nhận
rằng hiệu quả sử dụng ODA cần được nâng cao và chất lượng của các khoản giải
ngân ODA cũng quan trọng như số lượng giải ngân.

Trong các cuộc phỏng vấn do Đoàn chuyên gia tư vấn tiến hành, cả các quan chức
Chính phủ và đại diện của các nhà tài trợ đều quan tâm đến sự thiếu minh bạch
trong một số khía cạnh của quá trình HTKT. Kết luận của Hội nghị về quản lý dự án
đầu tư sử dụng vốn ODA do Bộ KHĐT, JBIC, ADB và WB phối hợp tổ chức tại Hải
Phòng, tháng 4/2000, cũng nêu:
Bộ Tài chính đ chỉ ra rằng cần có sự minh bạch hơn về phía các cơ quan tài trợ,
đặc biệt trong các lĩnh vực như tuyển chuyên gia và thực hiện hợp đồng. Chính phủ
Việt Nam đang thực hiện các biện pháp sau đây để chống lại nạn tham nhũng: (i)
cải cách luật pháp và thay đổi các quy chế để tăng cường sự minh bạch và giảm tệ
trì trệ và quan liêu, (ii) cải cách quy chế hành chính, gồm các yêu cầu để khuyến
khích tính hiệu quả, củng cố các chuẩn mực đạo đức của công chức v.v...
Cả phía Chính phủ và các nhà tài trợ đều lo ngại rằng việc xác định nội dung và
thiết kế dự án thường bị chi phối quá nhiều bởi các nhà tài trợ, điều đó đ làm giảm
ý thức làm chủ quốc gia và cam kết của phía Chính phủ đối với dự án.
Các cán bộ Việt Nam tham gia vào chương trình HTKT nêu một số câu hỏi về vấn
đề thiết kế và quản lý dự án, đặc biệt là sự hoài của họ nghi về việc phân bổ ngân
sách dự án (quá nhiều cho các chuyên gia nước ngoài; quá ít cho chuyên gia trong
nước và chi phí hành chính, tác nghiệp).
Vấn đề lựa chọn và quản lý cố vấn/chuyên gia trong các dự án HTKT cũng được
nêu lên.
14
Chính phủ và các nhà tài trợ đều quan tâm đến tính bền vững của các dự án (có
nghĩa là khả năng tiếp tục vận hành các phương tiện/thiết bị và phát huy tác dụng
của dự án sau khi dự án đ hoàn thành và tài trợ nước ngoài chấm dứt ).
Những mối quan tâm nói trên cho thấy một số khía cạnh trong việc sử dụng ODA nói
chung và HTKT nói riêng ở Việt Nam cần được giải quyết một cách cấp bách. Nêu lên những
câu hỏi về hiệu quả và tác động của các dự án HTKT phải được coi là một việc làm bình
thường và lành mạnh. Sau một thập kỷ phát triển nhanh, với sự xuất hiện của nhiều nhà tài trợ
mới ở Việt Nam và với nhiều cơ quan nhận viện trợ đang thực hiện các chương trình lớn hơn
rất nhiều so với các dự án từng có trước đây, thì việc xuất hiện một số vấn đề cần giải quyết là

lẽ đương nhiên.
Nhiều vấn đề nêu lên về hiệu quả viện trợ cho Việt Nam cũng đ được đề cập trên quy
mô quốc tế về viện trợ cung cấp cho các nước khác. Là nước xuất phát sau trong lĩnh vực tiếp
nhận viện trợ, Việt Nam có nhiều điều có thể học hỏi để tránh vấp phải những sai lầm mà các
nước khác đ mắc phải, làm cho họ bị lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ nước ngoài trong ba
thập kỷ vừa qua (xem Hộp 1 dưới đây).
6. Cách tiếp cận của báo cáo
Một phần những mối nghi ngờ về HTKT đ nảy sinh do khó khăn gặp phải trong việc
lượng hoá các kết quả của HTKT. Nhìn chung, đánh giá kết quả của HTKT so với chi tiêu bỏ
ra là một công việc khó khăn, bởi vì chuyển giao kiến thức khó quan sát hơn nhiều so với kết
quả của các dự án đầu tư. Hiệu quả của HTKT thường tuỳ thuộc vào chất lượng thay đổi kiến
thức và kỹ năng của con người, những cái đó không dễ đo lường. Hơn nữa, như đ đề cập ở
trên, mục tiêu của HTKT cũng được các nhà tài trợ, các cơ quan Chính phủ và những người
thụ hưởng hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Tuy nhiên, HTKT có thể mang lại những lợi ích rất to lớn. Khi được thiết kế và thực
hiện tốt, những khoản chi tiêu khiêm tốn về HTKT có thể mang lại tác động hết sức to lớn đối
với hoạt động kinh tế. Hơn nữa, HTKT có hiệu quả thường là điều kiện tiên quyết bảo đảm
thành công của các dự án đầu tư, góp phần làm cho các khoản đầu tư được lựa chọn, thiết kế
và quản lý tốt
3
.
Khi đánh giá tác động của chương trình HTKT, Đoàn chuyên gia tư vấn không thể
không đưa ra những kết luận được dựa vào sự suy xét định tính. Đoàn đ cố gắng đánh giá
hiệu quả của chương trình chủ yếu thông qua phân tích các đóng góp của nó cho việc hỗ trợ
quá trình Đổi Mới do Việt Nam tự xây dựng và phát động, cho tăng nhịp độ phát triển kinh tế,
xoá đói giảm nghèo và nâng cao năng lực quốc gia một cách bền vững.
Đoàn chuyên gia tư vấn đi đến kết luận rằng phần lớn nguồn HTKT Việt Nam tiếp nhận
chắc chắn đ mang lại hiệu quả cao. Đặc biệt trong những năm đầu của tiến trình Đổi Mới,
những khoản chi tiêu khiêm tốn về HTKT đ tạo nên tác động mạnh mẽ hỗ trợ cho nỗ lực cải
cách của đất nước.


3

Hội nghị do Bộ KHĐT, ADB, JBIC, WB và hơn 60 Ban quản lý dự án tổ chức tại Hải Phòng tháng 4//2000
khuyến nghị rằng cần bao gồm HTKT xây dựng năng lực trong các dự án sử dụng vốn vay nhằm nâng cao năng
lực thực hiện và báo đảm tính bền vững của dự án.
15
Đoàn chuyên gia tư vấn cảm thấy tự tin khi đưa ra nhận xét chung tích cực như vậy, trên
cơ sở quan sát tác động của HTKT, đặc biệt đối với nỗ lực cải cách kinh tế và việc cung cấp
kinh nghiệm quốc tế. So với kinh nghiệm về HTKT đ được ghi nhận ở các nước khác, Đoàn
cho rằng HTKT ở Việt Nam là một trong những chương trình thành công nhất (Xem Hộp 1).
Nhận xét này được nhận được sự đồng tình của nhiều nhà tài trợ mà Đoàn có dịp tiếp xúc.
Tuy nhiên, khó có thể hỗ trợ nhận định tích cực này bằng những dẫn chứng cụ thể. Chỉ một
phần nhỏ của chương trình HTKT đ được đánh giá sâu và hầu hết các nhà tài trợ thậm chí
không thể đưa ra nhận xét bao nhiêu phần trăm các dự án của họ được coi là thành công.
16
17
Hộp 1
kinh nghiệm quốc tế: những thất bại của trợ giúp kỹ thuật
Là người đi sau trong việc tiếp nhận viện trợ, Việt Nam có lợi thế do có thể học hỏi kinh
nghiệm của các nước khác đ từng tiếp nhận viện trợ nhiều thập kỷ qua. Đối với HTKT, nên
quan tâm đến một báo cáo quan trọng về HTKT ở Châu Phi. Mặc dù điều kiện của Châu Phi
rất khác biệt, nhiều tổ chức hiện đang cung cấp viện trợ ở Việt Nam cũng có các chương trình
quy mô lớn tại Châu Phi và, trong một số trường hợp họ đ xây dựng chính sách viện trợ của
mình theo kinh nghiệm ở Châu Phi. Những thất bại về viện trợ ở Châu Phi nên được xem là lời
cảnh báo về nguy cơ của việc chấp nhận các chương trình viện trợ mà không phê phán. Do đó,
Hộp này nêu lại một số điểm nổi bật của bản báo cáo trên.
Trong năm 1990, 3,5 tỷ USD viện trợ KTKT được chi tiêu cho các nước vùng Cận Xa-ha-ra,
tức là 1/4 tổng khối lượng viện trợ cho Châu Phi. Cũng trong năm đó, toàn thế giới đ chi tiêu
15 tỷ USD viện trợ.

Bản báo cáo nhìn nhận rằng HTKT có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển, tức là
xây dựng những nền kinh tế có hiệu quả cao hơn và tự lực cánh sinh nhiều hơn, thông qua
công tác đào tạo con người và xây dựng các thiết chế vững mạnh hơn. Tuy nhiên, báo cáo cũng
là câu trả lời đối với ý kiến phê phán của nhiều người. Các nhà quan sát cho rằng HTKT đ
không thực hiện được mục tiêu ở vùng Cận Xa-ha-ra và cần phải có những đổi mới cơ bản, và
báo cáo đồng tình với nhận định trên. Các nhà tài trợ và các chính phủ trong vùng đ tiến hành
nhiều hoạt động nghiên cứu để từ đó rút ra những kết luận và khuyến nghị như sau:
I) Nguyên nhân làm cho HTKT trở nên kém hiệu quả: Các nhà tài trợ, các nước tiếp nhận
viện trợ và các nhà quan sát đều nhất trí ở bốn lĩnh vực có vấn đề như sau:
a) Những yếu kém trong công tác thiết kế, thực hiện và theo dõi các dự án HTKT;
b) Lệ thuộc quá mức vào một mô hình thực hiện HTKT: Mô hình chuyên gia nước ngoài
thường trú kết hợp với nhân viên đối tác, và mô hình này đ chứng tỏ là một công cụ
kém hiệu quả trong việc tăng cường năng lực;
c) Tính chất trọng cung, hoặc do nhà tài trợ chi phối, của HTKT đ dẫn đến tình trạng
sử dụng quá mức và phân bổ không hiệu quả HTKT, ý thức làm chủ quốc gia yếu
kém và do đó sự cam kết quốc gia hạn chế; và
d) Chế độ đi ngộ và điều kiện làm việc yếu kém trong khu vực công cộng, dẫn đến thiếu
động cơ làm việc, thay đổi nhân viên thường xuyên và một môi trường làm việc trong
đó những nỗ lực tăng cường năng lực và phát triển thiết chế không thể phát huy hiệu
quả của mình.
I) Đ ề xuất nhằm cải thiện tình hình: Dựa trên việc xác định những vấn đề chủ yếu, một số đề
xuất như sau đ được đưa ra nhằm cải thiện tình hình:
a) Thực hiện các chương trình hiện nay một cách có hiệu quả hơn;
b) Thay đổi cơ cấu các mô hình thực hiện, chuyển từ cố vấn dài hạn sang cố vấn ngắn hạn,
sử dụng nhiều hơn chuyên gia tư vấn trong nước và áp dụng nhiều hơn phương thức
liên kết giữa các tổ chức ở nước cung cấp viện trợ và nước tiếp nhận viện trợ;
c) Tăng cường công tác quản lý HTKT ở nước tiếp nhận viện trợ, thông qua:
Nhà tài trợ tự nguyện chuyển giao thẩm quyền quản lý;
Nâng cao năng lực quản lý tại chỗ với việc đánh giá và quy hoạch HTKT ở nước
tiếp nhận;

18
Lập quy hoạch HTKT một cách toàn diện;
Cải thiện môi trường làm việc và khuyến khích nhân viên quốc gia (nhưng không
khuyến khích nhân viên của các ban quản lý dự án bằng nguồn kinh phí của nhà
tài trợ, vì điều đó làm sai lệch chế độ khuyến khích của chính phủ).
Tuy nhiên, mặc dù nhiều người công nhận tình trạng kém hiệu quả của các phương thức HTKT
được sử dụng như báo cáo này và các công trình nghiên cứu khác đ cho thấy, nhưng đến nay
các nhà tài trợ chỉ thay đổi rất ít trong các tập quán của mình.
Nguồn: Suy nghĩ lại về Hợp tác kỹ thuật: Cải cách để tăng cường năng lực ở Châu Phi;
UNDP and Development Alternatives Inc., 1993.
phần iii: tổng quan về quá trình
hợp tác kỹ thuật tại việt nam
1. Giai đoạn trước 1994
Trước năm 1989, các nước thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Liên Xô cũ và các nước
Đông Âu) và Trung Quốc (1954-1970) là những nhà tài trợ quan trọng nhất. HTKT trong giai
đoạn này tập trung hỗ trợ các dự án xây dựng cơ bản ở những lĩnh vực như phát điện, xây
dựng cầu đường, cấp nước và sản xuất công nghiệp, và liên quan chủ yếu đến đầu tư cơ bản và
chuyển giao công nghệ cho những nhu cầu kỹ thuật cụ thể.
Trong suốt những năm đầu của thập kỷ 60 cho đến giữa thập kỷ 80, hàng ngàn người
Việt Nam đ được gửi sang Liên Xô cũ, Đông Âu và Trung Quốc học tập qua các hiệp định
hợp tác khoa học - kỹ thuật song phương. Những kiến thức và kỹ năng kỹ thuật họ tiếp thu
được cũng như năng lực về mặt thể chế xây dựng được trong giai đoạn này đ đóng vai trò
quan trọng trong việc thành lập hầu hết các viện nghiên cứu và triển khai tại Việt Nam và vẫn
còn tác động đến ngày hôm nay.
Những kỹ năng tiếp thu được thời đó cũng phản ánh những điểm mạnh và điểm yếu của
các nước tham gia hợp tác. Nhiều chuyên gia Việt Nam đ đạt được trình độ chuyên môn cao,
nhưng thường được đào tạo rất ít về kiến thức quản lý và tài chính phù hợp với một nền kinh
tế đ được cải tổ. Do đó, về một số khía cạnh quan trọng, Việt Nam có nguồn nhân lực mạnh
hơn rất nhiều so với các nước có mức GDP tương đương, thì đồng thời Việt Nam cũng có
những lỗ hổng nghiêm trọng về những kiến thức và kỹ năng cần có để vận hành một cách có

hiệu quả nền kinh tế đ được cải tổ. Cơ cấu tổ chức cũng không được điều chỉnh kịp thời để
thích ứng với môi trường kinh tế mới.
Từ năm 1977 về sau, UNDP và các tổ chức khác thuộc Hệ thống LHQ - như UNICEF,
UNIDO, FAO, WHO v.v - đ góp phần quan trọng trong việc cung cấp HTKT cho Việt
Nam. Việt Nam đ tiếp nhận các dự án HTKT trên nhiều lĩnh vực (nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, phục hồi công nghiệp, cấp nước, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tiêm chủng, kế
hoạch hoá gia đình v.v). Phần lớn các dự án này được coi là thành công và kết quả của
chúng được các tổ chức thuộc Hệ thống LHQ cũng như Chính phủ coi là rất có giá trị. Nhiều
dự án đến nay vẫn còn có tác động đến nhiều mặt của sự nghiệp phát triển ở Việt Nam, đặc
biệt là trong ngành nông nghiệp, các lĩnh vực x hội và xoá đói giảm nghèo. Trong thời gian
19
này, LHQ nhận được sự trợ giúp về tài chính của các nhà tài trợ song phương (thông qua các
Quỹ uỷ thác) nhiều hơn hiện nay. Cũng trong giai đoạn này, một số NGO đ bắt đầu hoạt
động tại Việt Nam.
Trong giai đoạn ngay sau khi Liên Xô tan r, HTKT được cung cấp chủ yếu từ Hệ thống
LHQ và một số ít các nhà tài trợ song phương như ốt-xtrây-lia, Thuỵ Điển và Phần Lan là
những nước đ liên tục giúp đỡ Việt Nam từ những năm 70.
Một thành tựu quan trọng của các hoạt động HTKT trong Chương trình quốc gia lần thứ
III của LHQ (1987-1991) là việc chuẩn bị và ấn hành Báo cáo về tình hình kinh tế của Việt
Nam, đánh giá quốc tế đầu tiên được xuất bản lúc đó về triển vọng của nền kinh tế Việt
Nam trong thời kỳ Đổi Mới. Một loạt các Nghiên cứu tổng quan ngành và Quy hoạch tổng
thể
4
cũng đ được chuẩn bị, với sự hỗ trợ của các chuyên gia quốc tế dài hạn và ngắn hạn.
Những tài liệu này đ đóng góp có hiệu quả vào việc soạn thảo các kế hoạch phát triển kinh tế
dài hạn của Việt Nam và cho việc tổ chức Hội nghị lần thứ nhất các nhà tài trợ cho Việt Nam
được triệu tập tại Pa-ri tháng 11 năm 1993.
2. Hợp tác kỹ thuật và tiến trình Đổi Mới
Việc thực hiện chủ trương Đổi Mới và hội nhập quốc tế đối với nền kinh tế Việt Nam đ
đặt đất nước trước những đòi hỏi to lớn là phải hiểu biết và điều chỉnh cho phù hợp với những

điều kiện mới. Những đòi hỏi nảy sinh từ tiến trình Đổi Mới và được HTKT đáp ứng bao
gồm:
a) Nhu cầu chung cần hiểu biết cơ chế kinh tế mới, bao gồm kiến thức và kinh nghiệm
quốc tế có liên quan đến việc quản lý một nền kinh tế theo định hướng thị trường;

b) Nhu cầu điều chỉnh các thể chế cho phù hợp với nền kinh tế mới;

c) Nhu cầu xây dựng các bộ luật cơ bản nhằm hỗ trợ cho nền kinh tế mới;

d) Nhu cầu đào tạo nhằm nâng cao năng lực cho các bộ và cơ quan chủ yếu;

e) Nhu cầu nghiên cứu tác động của Chính sách mở cửa, vị trí mới của Việt Nam trong
nền kinh tế quốc tế, thâm nhập vào các lĩnh vực mới trong các cơ cấu và các hình
thức liên kết mới ở cấp toàn cầu, vùng và tiểu vùng;

f) Nhu cầu điều chỉnh không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà ở cả các lĩnh vực x hội.
Đối với hầu hết những hoạt động như vậy, rõ ràng đ có sự chuyển giao khá nhiều kiến
thức. Mặc dù rất khó định lượng các kết quả, nhưng qua quan sát nền kinh tế Việt Nam vào
thời điểm năm 1989 và một thập kỷ sau đó cho thấy đ có những thay đổi sâu sắc trong chính
sách, luật pháp và các thiết chế khác. Trong khi tiến trình Đổi Mới này được các nhà chức
trách Việt Nam khởi xướng và kiểm soát, thì trong quá trình thực hiện cụ thể người Việt Nam
đ tiếp thu được nhiều điều bổ ích từ những cơ hội được nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm
của các nước khác trên thế giới.

4
Nghiên cứu tổng thể ngành Nông nghiệp, Năng lượng, Giao thông vận tải, Lâm nghiệp, Ngư nghiệp , và Giáo
dục. Quy hoạch tổng thể cho Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, ngành Du lịch, Hàng không
20
Một bài học rút ra từ kinh nghiệm của những năm đầu về hiệu quả của HTKT là một
mức độ hỗ trợ HTKT rất khiêm tốn có thể mang lại hiệu quả to lớn, nếu hoạt động HTKT hỗ

trợ trực tiếp cho một chương trình đổi mới được quốc gia đề ra và rõ ràng do quốc gia làm
chủ. Những thành tựu đầy ấn tượng của tiến trình Đổi Mới đ đạt được trong những năm
1989-1993 khi nguồn trợ giúp từ bên ngoài cho Việt Nam là rất khiêm tốn.
Việt Nam cũng đứng trước một nhu cầu hết sức thiết thực là phải làm quen với các thủ
tục rất đa dạng và thường rất phức tạp, nhưng lại rất cần thiết cho việc thực hiện các chương
trình viện trợ của nhiều nhà tài trợ mới đến Việt Nam. Đ có sự gia tăng nhanh chóng các dự
án HTKT độc lập nhằm chuyển giao kiến thức về các tập quán kinh tế và luật pháp, nghiên
cứu những vấn đề then chốt về chính sách kinh tế, tăng cường năng lực quốc gia trong quá
trình thực hiện các chương trình viện trợ.
Cùng với việc tăng thêm số lượng các nhà tài trợ, thay đổi tính chất và mở rộng quy mô
các hoạt động của họ, đ xuất hiện nhu cầu tăng cường năng lực điều phối và quản lý viện trợ.
Tốc độ tăng viện trợ, cả về con số tuyệt đối và số lượng các nhà tài trợ, đ làm cho khả năng
quản lý của Chính phủ khó mà đáp ứng được yêu cầu điều phối viện trợ một cách hiệu quả.
Điều đó cũng đặt chính cộng đồng các nhà tài trợ trước sức ép phải điều phối những hoạt
động của mình.
3. Những xu hướng lớn trong hợp tác kỹ thuật và các nguồn viện trợ khác từ năm
1994 đến nay
Nguồn vốn ODA cung cấp cho Việt Nam đ tăng lên nhanh chóng từ sau năm 1993. Tại
6 Hội nghị CG tổ chức từ năm 1993 đến năm 1998, cam kết viện trợ đ đạt mức trung bình
khoảng 2,2 tỷ USD mỗi năm và đạt tổng số là 15,14 tỷ USD. Cho đến nay, đ có khoảng 10,6
tỷ USD trong tổng số cam kết trên đ được đưa vào các chương trình và dự án đ ký kết,
chiếm khoảng 70% tổng mức viện trợ cam kết. Tổng mức giải ngân ODA đ tăng lên một
cách vững chắc, từ dưới 600 triệu USD năm 1994 lên gần 1,2 tỷ USD năm 1998. Năm 1999,
mức giải ngân ước tính đạt 1,25 - 1,3 tỷ USD. Số liệu của UNDP cho thấy trong vòng 6 năm
đến cuối năm 1999 thì con số đó ước tính đạt khoảng 5,8 tỷ USD
5
. Bộ KHĐT ước tính mức
giải ngân ODA giai đoạn 1993-1999 đạt khoảng 6,3 tỷ USD, chiếm 40% tổng số vốn ODA
cam kết
6

. Mức giải ngân HTKT, cả HTKT độc lập và hỗ trợ đầu tư, tăng từ 210 triệu USD
năm 1995 lên đến 297 triệu USD năm 1998. Ước tính tổng mức giải ngân HTKT như sau:
Mức giải ngân HTKT, cả HTKT độc lập và hỗ trợ đầu tư, đ tăng lên nhanh chóng,
từ 76,7 triệu USD (12,9% tổng ODA) năm 1992 lên 209,4 triệu USD (34,2% tổng
ODA) năm 1995, giảm xuống còn 24,4% trong năm 1998 với 287 triệu USD được
giải ngân.
Tỷ trọng HTKT trong tổng số vốn ODA đạt mức 25-30%, tức là tương đương với
con số do OECD thu thập được từ các nước đang phát triển khác trên khắp thế giới.
Phần vốn vay trong HTKT chỉ chiếm khoảng 4% tổng nguồn HTKT (1996-1998);

5
Ước tính dựa theo năm lịch - Tổng quan về ODA tại Việt Nam, UNDP, 11/1999.
6
Báo cáo của Bộ KHĐT tại Hội nghị về Quản lý các dự án đầu tư tài trợ bằng ODA, Đồ Sơn, 12-13/4/2000.
21
Đến năm 1996, cơ sở dữ liệu trong Hệ thống DCAS của UNDP cho thấy có 899 dự
án HTKT với ngân sách từ 100.000 USD trở lên
7
.
Giải ngân HTKT độc lập đạt mức ổn định trong năm 1997. Tuy nhiên, với mức giải
ngân 285 triệu USD, HTKT độc lập vẫn còn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng
mức giải ngân ODA.
Y tế và phát triển nguồn nhân lực tiếp tục nhận được một phần khá lớn HTKT, mỗi
lĩnh vực chiếm 18% tổng mức chi tiêu HTKT.
Các dự án HTKT đ góp phần đáng kể vào tiến trình Đổi Mới, tăng cường các dự án
đầu tư và nâng cao năng lực tiếp nhận viện trợ. Tuy nhiên, cần thấy rằng giai đoạn cải cách
mạnh mẽ nhất ở Việt Nam là vào các năm 1989-1993, khi viện trợ từ bên ngoài đang giảm
xuống và chính sách của Chính phủ là thực hiện nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mà
không có sức ép của các nhà tài trợ (Xem Hộp 2).
4. Phân tích hợp tác kỹ thuật theo ngành và theo vùng lãnh thổ

Phân bổ hợp tác kỹ thuật theo ngành:
Sử dụng số liệu của UNDP phân chia HTKT thành 16 ngành/lĩnh vực khác nhau, phát
triển nguồn nhân lực đ nhận được tỷ trọng cao nhất với 21,4%, sau đó là y tế với 17,3%,
nông nghiệp với 12,1%, phát triển kinh tế với 7,8%, phát triển kinh tế vùng với 7,7%, quản trị
phát triển với 6,6%, và quản lý tài nguyên thiên nhiên với 6,2%. Do cách phân loại này dựa
theo quan niệm của các nhà tài trợ, nó có thể không được vận dụng một cách nhất quán nhưng
vẫn cho thấy bức tranh tổng thể.
Những con số trên đây cho thấy HTKT hỗ trợ quá trình cải cách và phát triển thể thế
(phát triển nguồn nhân lực, quản lý kinh tế, quản trị phát triển) và phát triển x hội (y tế, phát
triển x hội, nông nghiệp và phát triển kinh tế vùng) đ được Chính phủ cũng như cộng đồng
tài trợ dành ưu tiên cao.
Phân bổ hợp tác kỹ thuật theo vùng lnh thổ:
Số liệu hiện có về phân bổ HTKT theo vùng lnh thổ cần được xử lý một cách thận
trọng. Nhiều Dự án phục vụ toàn quốc có thể được thực hiện ở một số tỉnh/thành nên khó có
thể dựa vào số liệu hiện có để phân tích sự phân bổ chi tiêu theo vùng lnh thổ của các dự án
này. Thậm chí cả các Dự án phục vụ trung ương mà chi tiêu chủ yếu được thực hiện tại Hà
Nội, cũng mang lại lợi ích gián tiếp cho cấp tỉnh, do đó không thể đo lường tác động của
chúng theo vùng lnh thổ.
Tỷ trọng HTKT trực tiếp cung cấp cho các tỉnh đ tăng lên đáng kể trong năm 1998 với
48% tổng mức HTKT (so với 38% trong năm 1995). Sau đây là sự phân bổ HTKT tính theo
đầu người (1994-1998) cung cấp cho 7 vùng lnh thổ của Việt Nam và hai thành phố lớn:


7

Lấy số liệu từ DCAS từ 1994 đến 1999.
22
Vùng núi phía Bắc 10,27 USD
Đồng bằng sông Hồng 5,62 USD
Duyên hải Bắc Trung bộ 9,89 USD

Duyên hải Nam Trung bộ 5,45 USD
Tây Nguyên 7,58 USD
Miền Đông Nam bộ 4,79 USD
Đồng bằng sông Cửu Long 2,88 USD
Hà Nội 20,08 USD
Thành phố Hồ Chí Minh 7,05 USD
hộp 2
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới
về hiệu quả của viện trợ và Việt Nam
WB vừa tiến hành nghiên cứu về hiệu quả viện trợ. Báo cáo nghiên cứu Đánh giá viện trợ
(1998)* tập trung chủ yếu vào tầm quan trọng trung tâm của môi trường chính sách và thể chế
trong việc quyết định viện trợ có hiệu quả hay không. Những nội dung chủ yếu của báo cáo là
hiệu quả viện trợ đòi hỏi phải đúng thời cơ và phải có sự kết hợp hài hoà giữa tiền bạc và ý
tưởng. Đôi khi ý tưởng còn quan trọng hơn cả tiền bạc. Một số kết luận của công trình nghiên
cứu là:
Viện trợ phát huy hiệu quả trong một môi trường chính sách tốt.
Các thể chế và chính sách kinh tế có hiệu quả là điều kiện then chốt để xoá đói giảm
nghèo nhanh chóng và các dự án phát triển nên tăng cường các thể chế và chính sách để
có thể cung cấp các dịch vụ một cách hiệu quả.
Đóng góp quan trọng nhất của các dự án không phải là tăng thêm kinh phí cho một
ngành nào đó mà là góp phần cải thiện việc cung cấp dịch vụ thông qua tăng cường các
thể chế của ngành và địa phương.
Có thể khuyến khích cải cách ngay cả trong những môi trường khó khăn - nhưng điều
đó đòi hỏi phải kiên nhẫn và tập trung vào ý tưởng, không phải là tiền bạc - khả năng
làm việc của các nhà tài trợ trong những môi trường như vậy bị hạn chế bởi nền văn
hoá duyệt và chi vốn không coi trọng các hoạt động có quy mô nhỏ và cần nhiều nhân
lực.
Sự hỗ trợ từ bên ngoài cho cải cách chính sách và thể chế đòi hỏi nhiều nhân lực của
các cơ quan tài trợ, dẫn đến mức giải ngân thấp. Sự hỗ trợ thành công giúp các nước
đang cải cách phát triển và thử nghiệm các ý tưởng của mình.

Công trình nghiên cứu nhìn nhận rằng hoạt động viện trợ cần được điều chỉnh cho phù hợp với
điều kiện của đất nước và của ngành. Sự phân bổ chi tiêu không thôi không bảo đảm sự thành
công, bởi vì chất lượng chi tiêu công cộng cũng quan trọng như số lượng. ở những nước có sự
quản lý kinh tế đúng đắn (cả về chính sách kinh tế vĩ mô và cung cấp dịch vụ công cộng), có
thể cung cấp thêm viện trợ dưới hình thức hỗ trợ ngân sách, góp phần đơn giản hoá thủ tục
23
hành chính và giảm bớt chi phí hành chính.
Báo cáo này cũng nêu một ví dụ điển hình về kinh nghiệm ở Việt Nam. Báo cáo ghi nhận
những thành tựu của công cuộc Đổi Mới trong việc khuyến khích tăng trưởng và xoá đói
giảm nghèo, nhưng cũng cho rằng trong giai đoạn cải cách quan trọng 1989-1993, Việt
Nam chỉ được tiếp nhận một khối lượng viện trợ ít ỏi. Trong giai đoạn đó, ý tưởng quan
trọng hơn tiền bạc. Một vai trò chủ chốt của các nhà tài trợ là chia sẻ với người Việt Nam
những kinh nghiệm về chính sách kinh tế của các nước trên thế giới cũng như trong khu
vực.
(*) Tác giả chính của công trình nghiên cứu này là ông David Dollar , người rất quen biết với
nhiều quan chức Việt Nam. Ông là Chuyên viên kinh tế của Ngân hàng Thế giới phụ trách
theo dõi Việt Nam trong những năm đầu của thập kỷ 90.
Có thể giải thích sự chênh lệch giữa Hà Nội và các vùng khác là do các hoạt động phục
vụ trung ương mà nhất thiết phải diễn ra ở Thủ đô. Tuy nhiên, khó có thể giải thích sự chênh
lệch giữa các vùng khác trong nước. ở phía Nam, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh được
cung cấp nguồn HTKT tương đối nhiều thì đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ
dường như đ bị lng quên.
Mức độ HTKT tính theo đầu người tương đối cao ở Tây Nguyên, duyên hải Bắc Trung
bộ và Tây Nguyên phản ánh thực tế là các nhà tài trợ cũng như Chính phủ đặc biệt quan tâm
đến những vùng gặp khó khăn và còn lạc hậu này.
Đoàn chuyên gia tư vấn cảm thấy sẽ rất bổ ích nếu có thể phân tích HTKT theo các hợp
phần của dự án (ví dụ: chi tiêu cho chuyên gia nước ngoài, chuyên gia trong nước, thiết bị,
đào tạo, tham quan khảo sát v.v). Rất tiếc, không có số liệu để phân tích như vậy, do đó rất
khó đánh giá về mặt định lượng những băn khoăn của phía Việt Nam về tình trạng mất cân
đối trong chi tiêu HTKT (tức là dành quá nhiều vốn cho các chuyên gia nước ngoài với giá

đắt đỏ).
24
phần iv: những phát hiện
1. Thành công chung của chương trình hợp tác kỹ thuật
Mặc dù Báo cáo này có nêu một số câu hỏi về việc thiết kế và quản lý chương trình
HTKT, nhưng qua thảo luận chi tiết với các nhà tài trợ cũng như các cơ quan tiếp nhận viện
trợ cho thấy một bức tranh rõ ràng rằng phần lớn các dự án HTKT ở Việt Nam đ được thực
hiện thành công.
Dẫn chứng cho thành công này, nhìn một cách tổng thể, như sau: Trong hơn một thập
kỷ qua, Việt Nam đ quản lý thành công một quá trình đổi mới kinh tế sâu sắc và đạt được đà
tăng trưởng đầy ấn tượng. HTKT đ góp phần có ý nghĩa vào những thành tựu này. Một đóng
góp quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách là HTKT đ tạo cơ hội cho các
quan chức cao cấp của Việt Nam được tiếp cận với kinh nghiệm quốc tế, để họ có thể xây
dựng các biện pháp cải cách phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Điều đó cho phép các quan
chức Việt Nam tiếp thu được một sự hiểu biết căn bản về cơ chế thị trường và những đòi hỏi
về mặt chính sách để cơ chế đó có thể vận hành có hiệu quả. Sau đó, HTKT đ cung cấp
những ý kiến tư vấn cụ thể về những đòi hỏi của công cuộc đổi mới ở những lĩnh vực như lập
pháp, cải cách tài chính và ngân hàng, cải cách doanh nghiệp Nhà nước và cải cách hành
chính công.
2. Quản lý hợp tác kỹ thuật: Hiệu quả, ý thức làm chủ quốc gia và trách nhiệm giải
trình
1. Công tác quản lý viện trợ của Chính phủ:
Mặc dù phần lớn nguồn lực là viện trợ không hoàn lại, nhưng đây cần được coi là một
nguồn lực khan hiếm. Bất cứ sự lng phí nào cũng là một cơ hội bị mất đi và phần lớn các dự
án đều có nguồn đóng góp vốn đối ứng đáng kể về các yêu cầu quản lý và nhu cầu tài trợ cho
các đầu vào hỗ trợ. Điều này cho thấy Chính phủ cần quan tâm đầy đủ đến việc quản lý và
theo dõi các hoạt động HTKT. Bởi vì phần lớn HTKT đều được cung cấp dưới dạng viện trợ
không hoàn lại, nên có nguy cơ là một số cơ quan Chính phủ không coi đó là nguồn lực khan
hiếm cần được sử dụng một cách tằn tiện và có hiệu quả nhằm mang lại những lợi ích tối đa
cho Việt Nam.

Mặc dù theo nghĩa rộng, nguồn vốn HTKT cung cấp cho Việt Nam đ tác động tích
cực, mạnh mẽ và phần lớn đ đáp ứng các ưu tiên quốc gia, nhưng do chương trình ngày càng
được mở rộng, nên Chính phủ thấy khó có thể đảm bảo đáp ứng nhịp độ gia tăng của các đòi
hỏi trong việc quản lý quá trình này một cách hiệu quả.
Chính phủ đ đạt được nhiều tiến bộ trong việc tăng cường năng lực quản lý viện trợ
của mình và xác định rõ ràng hơn vai trò của các cơ quan có liên quan. Chính phủ đ hiểu biết
nhiều hơn về các thủ tục chi tiết trong việc thực hiện dự án, tăng cường đáng kể năng lực tiếp
thụ viện trợ của Việt Nam và đẩy nhanh hơn tiến độ thực hiện dự án. Nhưng giờ đây cần phải
tăng cường năng lực nhiều hơn nữa nếu muốn phát huy tiềm năng của chương trình viện trợ to
lớn này. Kinh nghiệm của các nước khác (ví dụ Thái Lan và các nước khác trong khu vực)
25
cho thấy, để tiếp nhận được một chương trình viện trợ lớn như vậy thì cần có một cơ cấu hành
chính lớn hơn nhiều so với hiện nay, và cần phải giải quyết một số vấn đề về công tác lập kế
hoạch và chính sách.
Những yêu cầu cụ thể để cải thiện hơn nữa công tác quản lý HTKT bao gồm:
(i) Cần có một chiến lược về hợp t ác kỹ thuật: Bộ KHĐT đ cố gắng tăng cường năng
lực của mình để quản lý chương trình viện trợ và hiện nay Bộ đ có được một đội ngũ cán bộ
có kinh nghiệm và năng lực. Tuy nhiên, bộ phận quản lý viện trợ vẫn còn thiếu nhân lực và,
do đó, cán bộ phải bỏ ra một tỷ lệ thời gian rất lớn để tham dự họp hành với các nhà tài trợ,
giải quyết đòi hỏi của các đoàn khách đến thăm và những hoạt động khác theo yêu cầu của
các nhà tài trợ. Họ có quá ít thời gian để thực hiện vai trò sáng tạo trong việc xác định các ưu
tiên quốc gia và để làm nhiều việc có ý nghĩa về quy hoạch chiến lược - hầu như tất cả các
cán bộ đều được phân công theo dõi các nhà tài trợ cụ thể. Một chiến lược như vậy cần xử lý
những vấn đề sau:
a) Dựa vào bài học kinh nghiệm thành công và thất bại của các dự án, chiến lược cần
xây dựng một quan điểm rõ ràng về những gì có thể làm và những gì không thể làm
trong lĩnh vực HTKT, để từ đó đưa ra những hướng dẫn cho việc thiết kế các dự án
trong tương lai.
b) Cùng với các nhà tài trợ, chiến lược cần xác lập một số nguyên lý chung cho việc
thiết kế dự án (ví dụ: khi nào cần sử dụng cố vấn dài hạn? Cần lồng ghép chuyên gia

tư vấn trong nước vào các dự án như thế nào? Cần xử lý các biện pháp khuyến khích
ra sao để có thể đảm bảo hiệu quả hoạt động của các dự án?).

c) Cần có sự chỉ đạo rõ ràng hơn cho các nhà tài trợ về những thay đổi trong ưu tiên
cấp ngành đối với việc sử dụng HTKT nhằm hướng họ đến những lĩnh vực đang bị
lng quên, xác định các lĩnh vực mới cần có dự án HTKT và ngăn chặn tình trạng
tập trung quá nhiều nguồn lực vào những lĩnh vực được coi là hợp mốt.

d) Chiến lược nên xác định càng cụ thể càng tốt các mục tiêu dài hạn của HTKT và
vạch ra điểm xuất phát đúng đắn để thực hiện những mục tiêu đó, đặc biệt là xác
định chính xác các cơ quan có khả năng sử dụng HTKT có hiêu quả nhằm đạt được
những mục tiêu đ vạch ra.

e) Chiến lược cần đặc biệt quan tâm đến những lĩnh vực mới cần được ưu tiên và cần
có các biện pháp tăng cường năng lực đặc biệt và các nỗ lực thiết kế dự án nhằm
nâng cao năng lực tiếp nhận (ví dụ: hiện nay, nhu cầu đó là năng lực quản lý dự án ở
cấp tỉnh và địa phương).

f) Chiến lược cần kèm theo một kế hoạch rút lui cho mỗi hoạt động và mỗi cơ quan
- tức là một cái đích cho việc hoàn thành thắng lợi, giảm dần và đi đến chấm dứt
HTKT.

g) Chiến lược cũng cần bao hàm một kế hoạch cho việc phát triển năng lực tư vấn
trong nước, nhằm từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào chuyên gia tư vấn nước
ngoài.

×