Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.43 KB, 94 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ chương của Đảng, Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân đang được xây dựng. Hướng tới các yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền Việt Nam, giáo dục pháp luật cho toàn thể nhân
dân và đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương là hết sức cần thiết, bảo
đảm để pháp luật được tôn trọng và thực hiện.
Trên cơ sở nguyên tắc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, cùng với
việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ. Nhà nước đã tiến
hành nhiều biện pháp nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp
luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng. Một trong
những biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt là giáo dục pháp luật. Với tác
dụng hình thành một cách bền vững ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần nâng
cao văn hóa pháp lý của các chủ thể mà đặc biệt là cán bộ, công chức - những
người thay mặt Nhà nước giải quyết các công việc của nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ
là công việc gốc của Đảng “ [32; tr 269].
Xã là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt
Nam, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu
nối giữa Nhà nước với nhân dân.
Cán bộ là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng, củng cố chính quyền
cấp xã yêu cầu đặt ra là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ năng
lực phẩm chất đạo đức, nắm vững đường lối chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước. Giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc
đẩy hiệu quả hoạt động của cán bộ cấp xã, giúp họ vận dụng pháp luật trong
quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giáo dục pháp luật trong những năm qua:
“Chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật,



2
chưa được tiến hành thường xuyên liên tục, đồng bộ rộng khắp, chưa có trọng
tâm, trọng điểm, cịn thiếu cơ chế kế hoạch phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa
các cơ quan, tổ chức, giữa các cấp các ngành để huy động sức mạnh của cả hệ
thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội” [48; tr1].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
về đổi mới nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn đã xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận
động Nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công
tâm, thạo việc, tôn trọng với dân, biết phát huy sức dân, khơng tham nhũng ức
hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp
lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [26; Tr167-168].
Điện Biên là một tỉnh miền núi Tây bắc có 21 dân tộc anh, em (chiếm hơn
80% dân số). Mặc dù là tỉnh miền núi có điều kiện kinh tế xã hội cịn nhiều khó
khăn nhưng Đảng bộ, tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm đến công
tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân trong tỉnh nói chung và cho đội
ngũ cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã nói riêng. Song việc giáo dục pháp
luật cho cán bộ,công chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên hiện nay vẫn
còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập chưa phù hợp với đặc thù của một tỉnh miền
núi. Việc chấp hành và áp dụng pháp luật chưa nghiêm, do trình độ nhận thức
pháp luật của cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã còn thấp. Xuất phát từ yêu
cầu tăng cường đổi mới giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức pháp luật của
cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã. Học viên đã chọn đề tài: “Giáo dục
pháp luật cho cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên” làm
luận văn Thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành lý luận về Nhà nước và pháp
luật, mã số 60 38 01.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Vấn đề giáo dục pháp luật cho đến nay luân là mối quan tâm của các cơ
quan nghiên cứu khoa học, cơ quan xây dựng, bảo vệ và thực thi pháp luật.



3
Tất cả những cơng trình đã được nghiên cứu góp phần không nhỏ tạo nên bức
tranh hiện thực về sự hiểu biết pháp luật, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật và lối sống theo pháp luật của con người và xã hội Việt Nam thời kỳ
đổi mới. Các cơng trình đã được nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác
nhau về giáo dục pháp luật bao gồm:
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công
cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 1994.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi
mới, đề tài khoa học cấp Bộ, MS 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp.
- Bàn về giáo dục pháp luật của Trần Ngọc Đường và Dương Thị Thanh
Mai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nộ 1995.
- Tìm kiếm mơ hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số
dân tộc ít người, đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp 1995.
- Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, luận án PTS
của Dương Thị Thanh Mai 1996.
- Giáo dục pháp luật trong các trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
ở nước ta hiện nay, luận án PTS của Đinh Xuân Thảo 1996.
- Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khơ Me nam bộ, Luận văn Th.S
Luật học của Lê Văn Bền, 1998.
- Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật do TSKH Đào Trí Úc
chủ biên, năm 2/002.
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ Chính quyền cấp xã ở tỉnh Đắc Lắc hiện
nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Đỗ Văn Dương, 2002.
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức trên địa bàn tỉnh Bình Định Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Văn Trầm, 2002.
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện
nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Cao Thị Hà, 2003.



4
- Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay,
luận văn thạc sỹ luật học của Hồng Trung Thành, 2004.
- Thực hiện chương trình giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức chính
quyền cấp xã ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện
nay, luận văn thạc sỹ luật học của Ngô Quốc Dụng, 2006.
- Giáo dục pháp luật trong các trường Trung cấp chuyên nghiệp từ thực tiễn
tại tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sỹ luật học của Lưu Quang Vũ, 2006.
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức tỉnh Thái Bình trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Thị Nụ, 2007.
- Giáo dục pháp luật cho cán bộ,công chức nghành thể dục thể thao ở Tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Xuân Thập, 2008.
- Giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn Tỉnh Hưng Yên, Luận
văn Th.S luật của Đinh Thị Hương, 2008.
- Giáo dục pháp luật về Quốc phòng cho cán bộ- chiến sỹ trong Quân đội
nhân dân Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Hoàng Huy, 2008.
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giáo dục pháp
luật, nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống,
tồn diện cả về lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện với mục đích nghiên cứu, đánh giá thực trạng, vấn
đề xuất phương hướng, giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên hiện nay.


5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Trên cơ sở khái qt những vấn đề có tính chất lý luận chung về giáo dục
pháp luật, phân tích những đặc thù về giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức
chính quyền cấp xã .
- Phân tích đánh, giá thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ cơng chức,
chính quyền của Tỉnh Điện Biên, từ đó rút ra những nguyên nhân của thực
trạng này.
- Nêu quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường giáo dục pháp
luật cho cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan nhà nước cấp xã
trên địa bàn tỉnh Điện Biên
- Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề giáo dục pháp luật cho đối tượng cán
bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên, thời gian nghiên cứu là 5 năm
(từ năm 2004 đến 2008).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận khoa học của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng
sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học
6. Đóng góp khoa học của luận văn:
- Luận văn là cơng trình chun khảo đầu tiên nghiên cứu một cách
tương đối có hệ thống, chuyên sâu về giáo dục pháp luật cho một nhóm đối
tượng cụ thể là cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên.


6
- Luận văn bước đầu làm rõ được tính đặc thù, mục đích chung, hình
thức và phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức chính quyền

cấp xã. Điều đó đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về giáo
dục pháp luật.
Luận văn đã phân, đánh giá khá toàn diện thực trạng giáo dục pháp luật
cho cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở đó,
nêu quan điểm và giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường giáo dục pháp
luật cho cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận:
Luận văn góp phần vào việc bổ sung những vấn đề mang tính lý luận chung
của khoa học pháp lý về giáo dục pháp luật cho một nhóm đối tượng cụ thể.
Về mặt thực tiễn:
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng,
hồn thiện các chương trình giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã miền núi Tây Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng.
Đồng thời, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ địa
phương và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Phần nội dung luận văn được trình bày thành 3 chương 7 tiết.


7
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1. 1. LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật:
Ở Việt Nam ta hiện nay vẫn còn những quan điểm khác nhau về giáo dục
pháp luật. Giáo dục pháp luật có thể được quan niệm như một hoạt động gắn

liền với việc triển khai thực tiễn áp dụng pháp luật. Có quan điểm lại coi giáo
dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức. Theo
đó chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tự khắc sẽ có được
“sản phẩm phụ” là một cơng dân với ý thức pháp luật cao. Có quan niệm đồng
nhất giáo dục pháp luật với hoạt động tuyên truyền phổ biến, giải thích pháp
luật. Quan niệm khác cho rằng, khơng có giáo dục pháp luật vì pháp luật là
quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, nên việc tn theo pháp luật là bắt buộc
đối với mọi người.
Sự nhận thức nhau về giáo dục pháp luật đã ảnh hưởng tới hiệu quả công
tác giáo dục pháp luật. Quan niệm về giáo dục pháp luật phải xuất phát từ
khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm. Thuật ngữ giáo dục được hiểu
theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng: Giáo dục là sự ảnh hưởng tác động của những điều
kiện khách quan như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường
sống… và của những nhân tố chủ quan như tác động tự giác, có chủ định và
định hướng của con người nhằm hình thành những phẩm chất kỹ năng nhất
định của đối tượng giáo dục.
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố
chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu
tranh sản xuất, những tri thức tự nhiên xã hội và tư duy để học có đầy đủ khả


8
năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. Theo từ điển tiếng Việt năm
2005 của Viện Ngôn ngữ học “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu
đề ra” (61.tr. 394).
Không thể phủ nhận được tác động của các điều kiện khách quan đến sự
hình thành ý thức cá nhân của con người. Tuy vậy, lý luận khoa học sư phạm

nhấn mạnh tác động hàng đầu và quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo
dục. Vì vậy, khái niệm giáo dục thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
Giáo dục pháp luật là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của
giáo dục, đồng thời có những nét đặc thù riêng.
Giáo dục pháp luật được nhiều nhà khoa học tiếp cận theo nghĩa hẹp của
khái niệm giáo dục. Hướng tiếp cận này xuất phát từ:
Thứ nhất: Mặc dù sự hình thành ý thức con người là quá trình chụi ảnh
hưởng, tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ
quan, nhưng coi giáo dục pháp luật như là một nhân tố tác động thì mới xác
định rõ được các yếu tố của quá trình giáo dục pháp luật như chủ thể giáo dục
pháp luật, đối tượng giáo dục pháp luật, nội dung hình thức giáo dục pháp
luật…. để từ đó giữ vững định hướng và nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật
khi gặp những trở ngại khách quan.
Thứ hai: Tiếp cận giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp cịn có ý nghĩa trong
việc phân biệt 2 phạm trù giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật.. Hoạt động
giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch, về nội dung chương
trình. Cịn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của cả điều kiện khách
quan lẫn sự tác động có định hướng của nhân tố chủ quan. Giáo dục pháp luật
là nhân tố tác động đối với sự hình thành ý thức pháp luật.


9
Thứ ba: Tiếp cận giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của giáo dục pháp
luật trong khoa học sư phạm cho thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái
đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. Tính
đặc thù của giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục thể hiện ở mục đích
riêng, đó là hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với các
quy định của pháp luật.
Từ sự phân tích như trên, có thể xác định khái niệm giáo dục pháp luật

như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động, có tổ chức, có mục đích của chủ thể
giáo dục được thể hiện để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và
định hướng hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý
thức, tình cảm pháp luật đúng đắn, thói quen tuân thủ pháp luật và tham gia
tích cực vào các hoạt động pháp lý.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật:
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố cấu trúc
thuộc bên trong của giáo dục pháp luật và giúp phân biệt giáo dục pháp luật
với các dạng giáo dục khác. Đồng thời, là cơ sở cho việc xác định nội dung,
hình thức, phương pháp của giáo dục pháp luật phù hợp với từng chủ thể và
đối tượng giáo dục pháp luật. Trong khoa học pháp lý, mục đích của giáo dục
pháp luật được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Mục đích nhận thức: Nhằm cung cấp và từng bước mở rộng tri thức pháp
luật, nâng cao văn hóa pháp lý của chủ thể được giáo dục. Đây là mục đích
hàng đầu, bởi chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng về giá trị xã hội
và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình
cảm và lịng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn
giúp cho mỗi con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự
đánh giá, kiểm tra, đối chiếu với các chuẩn mực của pháp luật. Mục đích này
đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà sự hiểu biết pháp


1
0
luật của nhân dân và cán bộ còn ở mức thấp. Đặc biệt là những vùng cao,
vùng biên giới vùng đồng bào dân tộc ít người chiếm đa số cịn chịu ảnh
hưởng nặng nề của các tập quán cổ hủ, lạc hậu, cán bộ chính quyền cấp xã xử
lý cơng việc phần lớn dựa vào kinh nghiệm và tình cảm mà không phải căn cứ
vào pháp luật. Mặt khác, công tác giáo dục pháp luật chưa được coi trọng dẫn
đến tình trạng kỷ cương phép nước chưa nghiêm, hiệu quả hoạt động của bộ

máy nhà nước chưa cao, làm giảm hiệu lực của pháp luật.
- Mục đích cảm xúc: Nhằm hình thành tình cảm và lịng tin đối với pháp
luật. Mục đích này hết sức quan trọng vì nếu có tri thức pháp luật mà khơng
có tình cảm tơn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ
pháp luật thì thường dẫn đến con người dễ hành động lệch khỏi các chuẩn
mực của pháp luật mà Nhà nước đã đề ra. Mục đích xúc cảm của pháp luật
bao gồm việc giáo dục tình cảm cơng bằng và trách nhiệm, tình cảm khơng
khoan nhượng với hành vi vi phạm pháp luật và tinh thần pháp chế. Tất cả
những tình cảm này có quan hệ và phụ thuộc vào nhau.
- Giáo dục tình cảm cơng bằng đó là giáo dục cho con người biết đánh
giá hành vi đúng, sai, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với cái sai, điều chỉnh hành
vi của chính mình theo các quy phạm pháp luật.
Giáo dục tình cảm trách nhiệm đó là quá trình làm cho một người ý thức
được những nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình, thực hiện những hành vi theo
yêu cầu của pháp luật.
Giáo dục tình cảm không khoan nhượng được những hành vi vi phạm
pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật của
cá nhân
Giáo dục tình cảm pháp chế hướng vào việc hình thành ý thức tn thủ
pháp luật. Điều đó có nghĩa là người được giáo dục phải ý thức được rằng
mọi quyết định của mình phải dựa vào cơ sở của pháp luật. Tình cảm pháp


1
1
chế phát triển sẽ giúp con người chống lại được những vi phạm pháp luật
bằng sự lên án các vi phạm ấy.
- Mục đích giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ hành vi và thói
quen xử sự hợp pháp. Trong các mục đích giáo dục pháp luật động cơ và hành
vi tích cực pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi suy cho cùng cái

đích của giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành vi xử sự theo pháp luật
của con người. Những mục đích về nhận thức và tình cảm nói trên là để phục
vụ cho mục đích hình thành động cơ. Do vậy, cung cấp tri thức, giáo dục lòng
tin sâu sắc và sự cần thiết tuôn theo một cách tự nguyện các quy định của
pháp luật là những yếu tố rất quan trọng nhằm hình thành động cơ và hành vi
hợp pháp. Những tình cảm cơng bằng, bình đẳng ý thức trách nhiệm, và
không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật là những yếu tố tâm
lý, tư tưởng khơng tách rời với việc hình thành động cơ và hành vi hợp pháp
và tích cực. Nhờ vào những thơi thúc nội tâm, những tình cảm lịng tin vững
chắc vào pháp luật ở con người mới hình thành động cơ, hành vi hợp pháp,
tích cực…
Để đạt được mục đích hình thành động cơ và hành vi hợp pháp tích cực
chỉ có thể nhờ vào q trình giáo dục pháp luật một cách kiên trì, bằng nhiều
hình thức, phương pháp để mọi người hiểu biết một cách sâu sắc về sự cần
thiết, hợp lý và lợi ích của mệnh lệnh pháp luật đối với xã hội nói chung cũng
như đối với tất cả các thành viên xã hội. Sự tuân thủ và tơn trọng pháp luật trở
thành thói quen trong đại bộ phận các bộ phận các trường hợp là kết quả của
sự ý thức sâu sắc và lập dị lặp lại nhiều lần trong những hoàn cảnh pháp luật
tương tự nhau.
Như vậy, giáo dục pháp luật có ba mục đích cụ thể, giữa các mục đích có
sự đan xen quan hệ qua lại thống nhất chặt chẽ từ nhận thức đến tự giác, từ tự
giác đến tích cực, từ tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Vì vậy khi
tiến hành giáo dục pháp luật phải hướng hoạt động giáo dục pháp luật vào cả


1
2
ba mục đích trên. Tuy nhiên để đạt được những mục đích đó cần phải cân
nhắc, tính tốn, lựa chọn từng mục đích để có các hình thức và phương pháp
giáo dục pháp luật thích hợp cho từng đối tượng cụ thể.

1.1.3. Chủ thể của giáo dục pháp luật:
Trong khoa học pháp lý chủ thể giáo dục pháp luật được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: là tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quá
trình giáo dục pháp luật.
Nghĩa hẹp: là con người cụ thể có năng lực pháp luật, có trình độ chun
mơn, có lập trường chính trị vững vàng, đạo đức nhân cách.
Theo nghĩa hẹp thì chủ thể giáo dục pháp luật có hai loại, đó là:
Chủ thể chuyên nghiệp: là những người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu
là giáo dục pháp luật, trực tiếp thực hiện giáo dục pháp luật như các báo cáo
viên, tuyên truyền viên pháp luật, giảng viên pháp luật trong các nhà trường,
cán bộ chỉ đạo ở hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội… Đây
là những chủ thể quan trọng và chủ yếu của giáo dục pháp luật.
Chủ thể không chuyên nghiệp: là những cá nhân và tổ chức tuy chức
năng chính khơng phải là giáo dục pháp luật nhưng thông qua các hoạt động
chun mơn, nghiệp vụ của mình đã tham gia tích cực vào việc thực hiện các
mục tiêu, nội dung của giáo dục pháp luật. Những người này bao gồm: đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, các cán bộ của các cơ quan hành
pháp, tư pháp, những người làm cơng tác trợ giúp tư vấn pháp luật….
Ngồi hai chủ thể trên chủ thể của giáo dục pháp luật cịn là các cơng
dân, bằng sự tơn trọng giáo dục, bằng ý thức trách nhiệm và gương mẫu thực
hiện pháp luật mà có ảnh hưởng đến các cơng dân khác trong xã hội.
1.1.4. Đối tượng của giáo dục pháp luật:
Đối tượng của giáo dục pháp luật là các cá nhân, cơng dân hay nhóm
cộng đồng cơng dân, tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp tác động của các hoạt
động giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt được mục đích đề ra.


1
3
Ở Việt Nam hiện nay, đối tượng giáo dục pháp luật nói chung là mọi

cơng dân, tuy nhiên cần phải phân loại đối tượng giáo dục để có các nội dung,
hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp để đạt được các mục tiêu của
hoạt động giáo dục pháp luật. Có thể chia đối tượng giáo dục pháp luật thành
những loại như sau:
Đối tượng giáo dục pháp luật là cán bộ, cơng chức nhà nước. Loại đối
tượng này có đặc điểm là theo chức năng, nhiệm vụ của mình họ vừa là đối
tượng cần được giáo dục pháp luật tức là cần được trang bị những kiến thức
cơ bản về hệ thống pháp luật các ngành luật, các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, về quy chế hoạt động, trình tự thủ tục, chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan nhà nước mà họ đang làm việc, bồi dưỡng về phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp và thái độ tôn trọng pháp luật, đảm bảo pháp chế
khi thi hành công vụ… Đồng thời, họ vừa là chủ thể giáo dục pháp luật trong
mối quan hệ với nhân dân thơng qua việc họ giải thích và áp dụng điều luật để
giải quyết các công việc cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ
đó tác động đến tình cảm, lịng tin và cách ứng xử của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động nơi họ sinh sống và làm việc.
Đối tượng giáo dục pháp luật là các chủ Doanh nghiệp, người quản lý
kinh tế ở các thành phần kinh tế khác nhau.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt là trong phát triển kinh tế,
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành
phần kinh tế bình đẳng với nhau.
Hệ thống pháp luật kinh doanh, thương mại, dân sự đã và đang từng
bước được hoàn thiện nhằm tạo ra những khung pháp lý phù hợp, tạo môi


1
4

trường kinh doanh phù hợp cho những loại doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế. Thực tế đã chứng minh nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Bên cạnh những kết
quả đạt được vẫn còn những hạn chế, đáng kể như hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp cịn mang tính tự phát, thiếu trật tự kỷ cương, nhiều mặt trái
của nền kinh tế thị trường không ngừng phát sinh như: nạn tham ô buôn lậu,
làm hàng giả, hàng kém chất lượng, ô nhiễm môi trường chưa được ngăn
chặn, khắc phục một cách triệt để gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, Nhà nước phải không ngừng xây dựng
mới, bổ sung, loại bỏ những văn bản khơng cịn phù hợp để có một hệ thống
pháp luật kinh doanh hoàn chỉnh cả về nội dung và hình thức, đồng thời,
thường xuyên giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp nắm vững các quy định
của pháp luật chuyên ngành, pháp luật về kinh tế, tài chính, thương mại, đầu
tư, hội nhập kinh tế quốc tế….
Đối tượng giáo dục pháp luật là học sinh, sinh viên: Học sinh, sinh viên
là thế hệ tương lai của đất nước, ngồi việc đào tạo các ngành nghề chun
mơn thì việc giáo dục ý thức pháp luật đây là việc rất quan trọng đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa
cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội thì các tệ nạn xã hội cũng
xâm nhập và gia tăng như lối sống thực dụng, sống gấp, các trò chơi bạo lực,
sex, ma túy, mại dâm…. Do đặc điểm về tâm sinh lý học sinh, sinh viên là đối
tượng dễ chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội. Vì thế, giáo dục
pháp luật cho học sinh, sinh viên cần dựa theo lứa tuổi, giới tính, ngành nghề
đào tạo, bằng nhiều hình thức, trong đó chú ý giảng dạy pháp luật ở các
trường học.


1
5

Đối tượng giáo dục pháp luật là các tầng lớp nhân dân. Đây là đối tượng
đông đảo nhất trong xã hội. Khi giáo dục pháp luật cho đối tượng này cần dựa
vào đặc điểm lứa tuổi giới tính, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống. Đặc biệt là
nhóm người cần được Nhà nước quan tâm bảo vệ như phụ nữ và trẻ em.
1.1.5. Nội dung của giáo dục pháp luật:
Một trong những yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật là
nội dung giáo dục pháp luật. Nội dung của giáo dục pháp luật được xác định
trên cơ sở mục đích, đối tượng giáo dục pháp luật nhằm hình thành họ hệ
thống tri thức pháp luật, tình cảm lịng tin và thói quen hành động phù hợp
với yêu cầu của pháp luật.
Nội dung của giáo dục pháp luật là sự cụ thể hóa mục đích, nhiệm vụ và
đồng thời xuất phát từ nhu cầu đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật
chúng ta có thể chia giáo dục pháp luật theo ba mức độ sau:
Thứ nhất: Mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật, phổ cập cho mọi công
dân: Trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
hiện các quyền, lợi ích của mình cũng như thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà
thì mỗi cơng dân phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật. Vì vậy, giáo
dục pháp luật phổ cập cho cơng dân nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về
pháp luật, giúp họ hình thành những tri thức cơ bản về pháp luật và thói quen
xử sự theo pháp luật.
Thứ hai: Mức độ giáo dục theo yêu cầu của ngành nghề là giáo dục pháp
luật cho những người hoạt động ở trong những lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
khác nhau. Ngoài việc giáo dục những khái niệm pháp lý cơ bản, cần giáo dục
pháp luật có nội dung liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng,
các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt động của họ và trình tự
giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp.


1

6
Thứ ba: Giáo dục luật chuyên ngành cho những người hành nghề pháp
luật. Đây là mức độ cao nhất, được thực hiện nhằm mục đích đào tạo các
chuyên gia pháp luật cho bộ máy nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội… Sự hiểu biết của đối tượng này bao gồm những tri thức pháp luật mang
tính chuyên sâu về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
1.1.6. Hình thức của giáo dục pháp luật:
Nếu như chỉ có nội dung giáo dục tốt mà khơng có một hình thức giáo
dục pháp luật phù hợp thì mục đích của giáo dục pháp luật khơng đạt được
như mong muốn.
Trên cơ sở khái niệm này cho thấy hình thức giáo dục pháp luật chính là
hình thức tổ chức hoạt động phù hợp giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo
dục pháp luật, được quy định bởi nội dung và mục đích giáo dục pháp luật.
Hình thức giáo dục pháp luật được chia làm hai loại: Hình thức giáo dục
pháp luật mang tính phổ biến truyền thống, được thực hiện trực tiếp giữa chủ
thể giáo dục pháp luật với đối tượng như: nói chuyện pháp luật tại các cơ quan
nhà nước, địa bàn dân cư, hội nghị, hội thảo pháp luật hoặc thông qua các
phương tiện thông tin như báo chí, đài phát thanh, các cuộc thi tìm hiểu pháp
luật, thơng tin cổ động. Hình thức giáo dục pháp luật mang tính đặc thù là gắn
hoạt động giáo dục pháp luật thơng qua hoạt động lập pháp, hình pháp, tư pháp
của các cơ quan của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tịa án,
Viện kiểm sát. Hình thức này được thực hiện bởi các chủ thể là công chức nhà
nước, các luật gia, hoặc các luật sư đang công tác tại các tổ chức nghề nghiệp.
1.1.7. Phương pháp giáo dục pháp luật.
Phương pháp giáo dục nói chung dưới góc độ lý luận học giáo dục được
hiểu là cách thức, biện pháp sử dụng để truyền đạt và lĩnh hội của nhà giáo
dục nhằm đạt đến mục đích giáo dục.


1

7
Trên cơ sở quan niệm này phương pháp giáo dục pháp luật được hiểu là
tổng thể cách thức, biện pháp mà chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật sử
dụng để nhằm thỏa mãn mục đích truyền đạt và lĩnh hội nội dung giáo dục
pháp luật.
Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào nội
dung mà còn phụ thuộc vào phương pháp giáo dục pháp luật. Bởi vì, để
chuyển tải được nội dung giáo dục pháp luật đòi hỏi chủ thể giáo dục pháp
luật phải có cách thức, biện pháp tác động phù hợp với khả năng tiếp nhận
của đối tượng. Có phương pháp giáo dục pháp luật tốt là một trong những yếu
tố quyết định chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật.
1.2. Lý luận và giáo dục pháp luật cho cán bộ, các cấp chính quyền cấp xã:
1.2.1. Khái niệm cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã:
Pháp lệnh sửa đổi, bổ xung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức
ngày 29/04/2003 đã xác định rõ đối tượng cán bộ công chức: Cán bộ công
chức được quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế,
làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp, tổ chức chính trị xã hội. Tại khoản 1 điều 1 đã đưa ra quan niệm mới
về cán bộ công chức. Trong đó mở rộng phạm vi điều chỉnh thêm các đối
tượng ở mục (g) và (h). Như vậy, cán bộ, công chức được quy định tại pháp
lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế bao gồm:
a, Những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương,
ở Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp Tỉnh) ở
huyện, quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện).
b, Những người tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện.



1
8
c, Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan Nhà nước ở
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
d, Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp hoặc giao
giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ
chức chính trị; tổ chức chính trị - xã hội.
đ, Thẩm phán tòa án nhân dân, kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân.
e, Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà
không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp cơng nhân quốc phịng, làm
việc trong các cơ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp.
g, Những người do bầu cử để đảm nhiệm, chức vụ theo nhiệm kỳ trong
thường trực hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân, Bí thư, phó bí thư Đảng ủy,
người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội, xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là
cấp xã).
h, Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã.
Ngồi cơng chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện cịn một số bộ phận
cơng chức xã. Việc điều chỉnh pháp luật đối với cán bộ, công chức cấp xã là
một bước đột phá, thể hiện sự thay đổi nhận thức có tính căn bản của các cơ
quan Nhà nước trong tiến trình cải cách nền hành chính Nhà nước ở Việt
Nam. Đây là lần đầu tiên cán bộ, cơng chức cấp xã có chế độ làm việc và
hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, cơng chức Nhà nước.
Trên cơ sở của pháp lệnh cán bộ công chức được sửa đổi, bổ xung năm
2003, Nghị định số 114/2003/NĐ- CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ
cơng chức xã, phường, thị trấn đã quy định cán bộ công chức cấp xã bao gồm:



1
9
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ, theo nhiệm kỳ (gọi
chung là cán bộ chuyên trách cấp xã) gồm các chức vụ sau: Bí thư, phó bí thư
Đảng ủy, thường trực Đảng ủy (nơi khơng có bí thư chun trách cơng tác
Đảng); Bí thư, phó bí thư chi bộ (nơi chưa thành lập Đảng ủy cấp xã); Chủ
tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó chủ UBND; Chủ tịch
UBMTTQ; Bí thư đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội liên
hiệp phụ nữ, Chủ tịch – Hội nông dân và Chủ tịch – Hội Cựu Chiến binh.
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã) gồm các chức
danh; Trưởng Cơng an (nơi chưa bố trí được lực lượng cơng an chính quy);
Chỉ huy trưởng qn sự; Văn phịng thống kê; Địa chính - xây dựng; Tài
chính - Kế tốn; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội.
Bên cạnh đó, Nghị định số 121/2003/ NĐ - CP ngày 21 tháng 10 năm
2003 của Chính phủ về chế độ chính sách đối với cán bộ, cơng chức xã,
phường, thị trấn cịn quy định thêm một số đối tượng làm việc ở cấp xã, gọi là
cán bộ không chuyên trách cấp xã gồm:
- Trưởng ban Tổ chức Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng, Trưởng
ban tuyên giáo và một cán bộ văn phòng Đảng ủy;
- Phó trưởng cơng an (nơi chưa bố trí được lực lượng cơng an chính quy);
- Phó chỉ huy qn sự;
- Cán bộ kế hoạch - giao thông, thủy lợi - nông, lâm, diêm nghiệp, ngư nghiệp;
- Cán bộ lao động, thương binh xã hội;
- Cán bộ dân số - gia đình trẻ em;
- Thủ quỹ- vă thư- lưu trữ;
- Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;
- Cán bộ quản lý văn hóa;



2
0
- Phó chủ tịch Ủy ban mặt trận tổ quốc, phó các đồn thể cấp xã: Đồn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội Nơng dân, Hội
Cựu chiến binh;
- Chủ tịch hội người cao tuổi; Chủ tịch hội chữ thập đỏ Việt Nam
Để cụ thể hóa những quy định của pháp lệnh, cán bộ cơng chức sửa đổi,
bổ sung năm 2003, Nghị định số 114/2003/NĐ - CP ngày 10/10/2003 và Nghị
định số 121/2003/ NĐ - CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ đã
quy định rõ về đối tượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã. Tuy nhiên,
trong q trình thực hiện, đã bộc lộ một số hạn chế như, việc quy định số
lượng cán bộ, công chức cấp xã chưa phù hợp với đơn vị hành chính cấp xã
có số dân đơng, địa dư hành chính rộng. Đối với cán bộ không chuyên trách
cấp xã số lượng và mức phụ cấp do HĐND cấp tỉnh quyết định nên có sự
chênh lệch, không thống nhất trong đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã giữa các địa phương. Đây là điều bất hợp lý trong quy định của pháp
luật, làm cho hoạt động của chính quyền cấp xã lâu nay kém ổn định, hiệu lực
và hiệu quả còn thấp.
Luật Cán bộ, cơng chức năm được Quốc hội nước cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua ngày 13 tháng 11 năm
2008 đã quy định: Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã)
là công dân Việt Nam được bầu cử giữ các chức vụ theo nhiệm kỳ trong
thường trực Hội đồng nhân dân, UBND, Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cụ thể tại Điều 61
chương V quy định cán bộ, công chức cấp xã bao gồm:
* Cán bộ cấp xã gồm có:
- Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy;




×