Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tìm hiểu nguồn gốc ra đời, giáo lý, giáo luật và hệ thống tín đồ của đạo tin lành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.14 KB, 22 trang )

Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
TÌM HIỂU NGUỒN GỐC
RA ĐỜI, GIÁO LÝ,
GIÁO LUẬT VÀ HỆ
THỐNG TÍN ĐỒ CỦA
ĐẠO TIN LÀNH
1/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
MỤC LỤC
2/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO C$I CÁCH TÔN GIÁO VÀ
S' RA ĐỜI ĐẠO TIN LÀNH
I. VỀ TÊN GỌI ĐẠO TIN LÀNH
Tên gọi của mỗi tôn giáo đều mang một ý nghĩa riêng, có khi nó liên quan
đến một địa danh, một nhân vật sáng lập, một điển tích lịch sử hay mỗi xu hướng
giáo lý, thần học. Cũng có khi tên gọi của một tôn giáo xác định mối quan hệ mang
tính lịch sử Tên gọi của đạo Tin lành, có một ý nghĩa riêng và chỉ rõ mối quan hệ
giữa đạo Tin lành với các tôn giáo trong Kitô giáo.
Vào đầu Công nguyên, ở vùng Trung Cận Đông thuộc vùng đất của đế quốc
La Mã xuất hiện một tôn giáo mới thờ Đấng Cứu thế - ngôi hai Thiên Chúa, tiếng
Hy Lạp là Jésus Christ. Danh xưng Jésus Christ dịch qua tiếng Việt là Giê-su Ki-ri-
xi-tô, gọi tắt là Giêsu Kitô; chữ Jesus dịch qua âm Hán là Gia tô; chữ Christ là Cơ
đốc. Như vậy, đạo thờ Đấng Cứu thế có những tên gọi theo cách dịch khác nhau:
đạo Kitô, đạo Giatô, đạo Cơ đốc. Từ tôn giáo địa phương thế kỷ IV đạo Kitô trở
thành tôn giáo của đế quốc La Mã rộng lớn và thường được gọi là Catholic. Thực
ra tên gọi Catholic có từ rất sớm để chỉ những cộng đồng Kitô giáo ban đầu và nó
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: Katholikos có nghĩa là chung (General), là thông


thường (Common) hay toàn bộ (Universal). Sau này, khi Kitô giáo phân rẽ thành
Công giáo Rôma, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo thì trong nhiều trường hợp
Catholic (Công giáo) vẫn chỉ toàn bộ truyền thống Kitô giáo. Ở Việt Nam,
Catholic gọi là Công giáo, có một thời kỳ người Việt Nam gọi Công giáo là Thiên
Chúa giáo. Gọi như vậy không đúng vì cả Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo
đều thờ Thiên Chúa. Thấy thế, có người bổ sung thêm từ Rôma và gọi là đạo Thiên
Chúa hệ Rôma. Cách gọi này có vẻ rõ hơn nhưng xem ra cũng không chuẩn xác,
nên đã trở lại tên gọi chính thức của nó là: đạo Công giáo.
Đến thế kỷ XI, cụ thể là năm 1054 Ki-tô giáo diễn ra cuộc đại phân liệt lần
thức nhất, một bên theo văn hoá Hy Lạp, một bên theo văn hoá La tinh, gọi là phân
liệt Đông - Tây, hình thành tôn giáo mới ở phương Đông: Chính thống giáo
3/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
(Orthodoxism). Tên gọi này biểu lộ quan điểm (Dox) thẳng thắn và đúng đắn
(Ortho) của một "giáo thuyết về niềm tin chân thật". Đôi khi người ta gọi Chính
thống giáo là Kitô giáo phương Đông. Thậm chí trong một số văn cảnh, người ta
dùng các từ Đông phương, Hy Lạp, Constantinople để chỉ Chính thống giáo, các
từ: Tây phương, La tinh, Rôma để chỉ Công giáo.
Thế kỷ XVI, cuộc đại phân liệt lần thứ hai diễn ra trong Công giáo, hình
thành một tôn giáo mới - đạo Tin lành. Giáo hội Công giáo và phong kiến châu Âu
gọi là đạo chống đối - Protestantism, khi sang Trung Quốc, Protestantism dịch qua
Hán gọi là "đạo Thệ phản". Cuộc đại phân liệt lần thứ hai thực chất là cuộc cải
cách tôn giáo, cho nên trong nhiều trường hợp người ta còn gọi đạo Tin lành là
"đạo Cải cách" (Reformism). Đạo Tin lành truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ XX, ở
miền Bắc được gọi theo cách của người Trung Quốc là "đạo Thệ phản", ở miền
Trung gọi là "đạo Giatô", ở miền Nam gọi là "đạo Huê Kỳ". Đầu những năm 20,
30 của thế kỷ XX giáo sĩ Cadman người Canada thuộc Hội Truyền giáo Cơ đốc -
CMA, cùng với văn sĩ Phan Khôi dịch Kinh thánh ra tiếng Việt Nam, hai ông
không dịch Phúc âm (Evangelical) là "Tin mừng" như đạo Công giáo, mà dịch là

"Tin lành". Cách gọi Phúc âm là Tin lành của những người theo đạo Cải cách (Thệ
phản) dần dần thành thói quen và nhất là nó phân biệt được với đạo Công giáo nên
người ta gọi luôn đạo Cải cách là đạo Tin lành cho đến ngày nay.
Cùng thời gian với việc ra đời đạo Tin lành, xuất hiện một trào lưu cải cách
theo cách riêng ở nước Anh hình thành Anh giáo - Angelicalsm.
Như vậy, Kitô giáo hay Cơ đốc giáo bao gồm: Công giáo (Catholic), Chính
thống giáo (Orthodoxsm), Tin lành (Protestantism), Anh giáo (Angelicalism), hay
nói cách khác, đạo Tin lành là "anh em" cùng một gốc với đạo Công giáo, đạo
Chính thống và Anh giáo.
II. VỀ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Nguyên nhân:
1.1 Thời kì trung đại, giáo hội Thiên chúa là một thế lực thống trị về mặt tư
tưởng đầy quyền uy. Giáo hội còn được sự ủng hộ của các lãnh chúa Phong kiến.
4/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Sang thế kỉ XVI giai cấp tư sản muốn loại bỏ những điều trong giáo lý không phù
hợp với cuộc sống kinh doanh của mình, họ muốn những giáo lý phải phù hợp với
trào lưu kinh doanh và lối sống của những người giàu có mới nổi lên. Đó là nguyên
nhân sâu xa làm bùng nổ lên phong trào cải cách tôn giáo ở Tây âu thế kỉ XVI.
1.2. Đạo Tin lành ra đời thể hiện sự khủng hoảng nghiêm trọng về vai trò
ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo do những tham vọng quyền lực trần thế và sự
sa sút về đạo đức của hàng giáo phẩm, nhất là sau cuộc "lưu đày Babylon" (1387 -
1417). Cùng với sự khủng hoảng, uy tín ảnh hưởng của Giáo hội là sự bế tắc của
nền thần học Kinh viện (hình thành từ thế kỷ XII) - cơ sở quyền lực của Giáo hội
Công giáo.
1.3. Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hoá, tư tưởng được thúc đẩy bằng
phong trào Văn hóa phục hưng - chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu
thế kỷ XV, XVI. Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền
đối lại việc đề cao thần tính, thần quyền, đề cao tự do cá nhân, dân chủ và sự

hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm dục vọng và sự ràng buộc của chế độ phong kiến và
luật lệ Công giáo, đề cao lòng yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng yêu Thiên Chúa
và một nước Chúa chung chung diệu vợi Văn hoá phục hưng - chủ nghĩa nhân
văn đã tạo ra chiều kích mới về văn hoá, tư tưởng, cách nhìn mới về con người và
tôn giáo, làm cơ sở cho việc nảy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo.
1.4. Đạo Tin lành ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các phong trào chống lại
quyền lực Giáo hoàng và Giáo triều Rôma từ nhiều thế kỷ trước, mà tiêu biểu là
một số phong trào từ thế kỷ XII trở đi, như: phong trào Albigeois (thế kỷ XII) ở
Pháp, phong trào Waldensians (thế kỷ XII) ở Pháp, phong trào John Wycilff (thế
kỷ XIV) ở Anh, phong trào Jerome Savararola (thế kỷ XV) ở Ý, và nhất là phong
trào Jean Huss (thế kỷ XV) ở Tiệp…
1.5. Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là
đời sống xa hoa hưởng lạc của hang giáo phẩm trong giáo triều Rooma và nhất là
việc giáo hoàng Leon X ra lệnh ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng tiền của
cho giáo hội bằng cách cho bán “Bùa xá tội”. Những người đề xướng cải cách
không ai khác chính là những giáo sĩ công giáo: linh mục, tiến sĩ thần học Martin
5/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Luther (1483 – 1546), linh mục Thomas Munzer (1490 - 1525), linh mục Jean
Calvin (1509 - 1564), linh mục Ubric Zwinghi (1484 - 1531)
2 Phong trào cải cách tôn giáo và sự ra đời đạo Tin lành:
Đầu thế kỉ XVI phong trào cải cách tôn giáo diễn ra ở ba nơi: Đức, Thụy Sĩ
và Anh.
2.1. Cải cách tôn giáo ở Đức
Người khởi xướng là Martin Luther (1483 – 1546), ông là con 1 thợ mỏ
nghèo ở Thirighen được học trở thành luật sư.
Năm 1517 ông đã viết “Luận văn 95 điều” dán trước cửa nhà thờ ở trường
đại học Vitenbec tố cáo việc mua bán thẻ miễn tội hồi đó. Trong “Luận văn 95”
điều ông cho rằng việc mua bán thẻ miễn tội là giả dối, chỉ làm lợi cho những

người lợi dụng nó. Ông cho rằng chỉ cần lòng tin vào Đức Chúa là sẽ được cứu
vớt, ngay cả những nghi lễ tốn kém, phức tạp cũng không cần thiết.
Phong trào đòi cải cách tôn giáo ở Đức diễn ra rất quyết liệt, rất nhiều người
dân đã ủng hộ tư tưởng của Martin Luther và sảy ra xung đột với giáo hội. Đến
1555 tư tưởng của ông được công nhận, tôn giáo cải cách của Martin Luther đã từ
Đức lan sang nhiều nước khác.
2.2Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ
Đại biểu cho phong trào cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ là Canvanh (Jean
Calvin). Năm 1536 Canvanh cho xuất bản cuốn “Thiết chế Cơ Đốc”, trong tác
phẩm này ông thừa nhận có Thượng đế và thuyết tam vị nhất thể nhưng chỉ chấp
nhận có kinh Phúc Âm. Ông phê phán việc tu hành khổ hạnh và cho rằng cái quan
trọng nhất là long tin, ông cũng chủ trương khuyến khích việc làm giàu, chủ trương
giảm bớt những nghi lễ phiền phức, tốn kém.
Điểm quan trọng của thuyết Canvanh là thuyết định mệnh. Ông cho rằng số
phận của con người là do Chúa trời định trước, việc bỏ tiền ra mua thẻ miễn tội
không giải quyết được gì. Như vậy là ông chống lại việc mua bán thẻ miễn tội, cho
đó là một trò lừa bịp.
Cải cách tôn giáo ở Thụy Sĩ được đông đảo mọi người ủng hộ. Giơnevơ
(Genève) trở thành trung tâm phong trào cải cách tôn giáo ở Tây âu.
6/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
2.3Cải cách tôn giáo ở Anh
Từ đầu thế kỉ XVI, kinh tế TBCN phát triển khá mạnh ở Anh, GCTS lớn
mạnh muốn có một tôn giáo phù hợp với cuộc sống và công việc kinh doanh của
họ.
Lúc đó nhà thờ ở Anh còn chiếm khá nhiều ruộng đất, vua Anh cũng muốn
chiếm một phần ruộng đất của nhà thờ và loại bỏ ảnh hưởng của giáo hội Rôma đối
với vương quyền.
Nhân việc giáo hoàng phản đối việc bỏ vợ của vua Anh lúc đó là Henri VIII,

Henri VIII đã ban “Sắc luật về quyền tối cao” năm 1534, tuyên bố cắt đứt quan hệ
với giáo hội Rooma và thành lập một tôn giáo riêng gọi là Anh giáo.
Anh giáo do vua Anh làm giáo chủ nhưng mọi giáo lí, nghi lễ, phẩm hàm thì
vẫn giống như Thiên chúa. Các giáo phẩm thì do vua Anh bổ nhiệm, mọi ruộng đất
của giáo hội Rooma bị chính quyền tịch thu. Anh giáo như vậy chưa đáp ứng được
yêu cầu của GCTS. TS Anh cần có cải cách triệt để hơn, điều đó đã dẫn tới sự
thành lập Thanh giáo (tô giáo trong sạch). Thanh giáo xóa bỏ hết tàn dư của đạo
Thiên chúa, đơn giản hóa các nghi lễ, cắt đứt liên hệ với Anh giáo. Họ thành lập
một hội đồng riêng, đứng đầu là các Trưởng lão do các tín đồ bầu ra.
Như vậy thế kỉ XVI ở Tây âu đã có nhiều giáo phái mới ra đời. Các giáo
phái này tuy ở các nước khác nhau, giáo lí cụ thể có điểm không giống nhau nhưng
đều giống nhau một điểm là đơn giản hóa các nghi lễ, cắt đứt liên hệ với giáo
hoàng và tòa thánh Rôma. Họ chỉ tin vào kinh Phúc Âm. Chữ Phúc Âm dịch ra
Tiếng Việt là Tin Lành nên về sau người ta quen gọi là đạo Tin Lành.
7/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG GIÁO LÍ VÀ GIÁO LUẬT
CỦA ĐẠO TIN LÀNH
Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái. Mặc dù có những điểm khác nhau về nghi
thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội giữa các hệ phái, nhưng nhìn chung đều
thống nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. Có thể khái quát giáo lý, luật lệ, lễ
nghi, tổ chức của đạo Tin lành để so sánh với đạo Công giáo như sau:
1. Kinh thánh và giáo lý
1.1 Trước hết về Kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều lấy
Kinh thánh (gồm Cựu ước và Tân ước) làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành đề cao
vị trí của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và sự
hành đạo. Đạo Công giáo lại cho rằng ngoài Kinh thánh còn có những văn bản
khác như nghị quyết các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp của Giáo
hoàng, về nguyên tắc cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao Kinh thánh

một cách tuyệt đối, tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo đều sử dụng Kinh
thánh, nói và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh thánh có vị trí cực
kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh giữ vai trò như một giáo sĩ trên
cả hai phương diện mục vụ và truyền giáo.
1.2 Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn
giáo đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết "Thiên Chúa ba ngôi" (Ngôi Một: Cha,
Ngôi Hai: Con, Ngôi Ba: Thánh thần; Ngôi Hai được "lưu xuất" từ Ngôi Một, Ngôi
Ba được "lưu xuất" từ Ngôi Một và Ngôi Hai); tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên
Chúa tạo dựng và có điều khiển; tin con người do Thiên Chúa tạo dựng theo cách
riêng và có phần hồn và phần xác; tin con người có tội lỗi; tin có Ngôi Hai Thiên
Chúa là Giêsu Kitô xuống trần chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho loài người; tin có
Thiên thần và Ma quỷ, có Thiên đàng và Địa ngục; tin có ngày Phục sinh, Tận thế
và Phán xét cuối cùng.
8/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền thống của đạo Công giáo
được đạo Tin lành sửa đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định giữa đạo Tin
lành và Công giáo.
1.3 Đạo Tin lành tin có sự hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà
Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau
đó không còn đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng Kinh thánh
nói Bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con
khác một cách bình thường. Một số phái Tin lành đã trích dẫn những câu Kinh
thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse, như trong sách Matheu ở
chương 13 câu 54, 55 có nói: " Anh em Ngài (Chúa Giêsu) có phải là Giacô,
Giosep, Simson, Giuđa ?" (Matheu 13; 55,56); hoặc sách Giăng chương 2, câu 12
còn nói rõ hơn: "Sau việc đó, anh em và môn đệ Ngài (Chúa Giêsu) đều xuống
thành Ca-bê-na-um" (Giăng 2; 12). Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính trọng chứ không
tôn sùng thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có công sinh và nuôi

dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ của Thiên Chúa.
1.4 Đạo Tin lành tin có Thiên sứ, có các thánh Tông đồ, các Thánh tử đạo và
các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và
thờ lạy họ như đạo Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hình tượng
cũng như các di vật. Không tôn sùng và thực hiện hành hương đến các Thánh địa,
kể cả Giêrusalem, núi Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.
1.5 Đặc biệt, đạo Tin lành không thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng Kinh
thánh đã dạy: "Hình tượng là công việc do tay người làm ra, hình tượng có miệng
mà không nói, có tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay nhưng
không rờ rẫm, có chân nào biết bước đi phàm kẻ nào làm hình tượng mà nhờ cậy
nơi đó, đều giống nó" (Thi thiên 115; 4-8).
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng các tranh ảnh, hình
tượng trong sinh hoạt tôn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải, truyền
thụ.
1.6 Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hoả ngục nhưng không quá coi trọng tới
mức dùng nó làm công cụ khuyên thưởng răn đe, trừng phạt đối với con người.
9/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Đạo Tin lành không có Luyện ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ đang
chờ cứu vớt như đạo Công giáo. Họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến Thiên đường,
Hoả ngục, không nói đến Luyện ngục.
2. Luật lệ, lễ nghi:
Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin lành là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý
trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin chứ không phải vì những
"hình thức ngoại tại" (tức là không phải vì các luật lệ, lễ nghi). Do đó luật lệ, lễ
nghi, cách thức hành đạo của đạo Tin lành đơn giản không cầu kỳ, rườm rà như
đạo Công giáo. Hội thánh Tin lành chỉ công nhận 2 thánh lễ là Baptem và Tiệc
thánh, còn các lễ khác được gọi là giáo lễ như: Kỉ niệm chúa giáng sinh, Chúa chịu
thương khó, Chúa phục sinh, Chúa thăng thiên, Đức thánh linh giáng lâm, thành

hôn, Dâng con trẻ, lễ tang, xức dầu cầu nguyện cho người bệnh, tấn phong mục sư,
bổ nhiệm, cung hiến nhà thờ và cảm tạ. Vì họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến
những phép đó mà thôi. Một số phái Tin lành có thêm lễ Dâng con trẻ cho Thiên
Chúa, dựa theo tích trong Cựu ước rằng A-bra-ham đã dâng con trai là Y-Sác cho
đức Giê-hô-va.
2.1 Lễ Baptem:
2.1.1 Ý nghĩa:
Chữ “Baptem” có nghĩa là dìm xuống nước, không có nghĩa rửa tội hay tẩy
uế. Baptem là sự biểu hiện bên ngoài của sự thay đổi đời sống bên trong. Baptem
không làm cho người nào đó được sạch tội, cũng không có quyền làm thay đổi tâm
linh con người, nhưng tất cả tùy thuộc vào long tin của người ấy nơi cứu ân của
Chúa cứu thế.
Vậy Baptem nghĩa là một hành động xác nhận đức tin của người ấy, chứng
tỏ người quyết tâm sống cuộc đời mới trong Chúa cứu thế Giexu.
2.1.2 Điều kiện nhận Baptem
Người chịu Baptem là người đã tin chúa ít nhất sau ba tháng, từ 15 tuổi trở
lên, đã học giáo lý Baptem và được quản nhiệm cùng ban trị sự chi hội xem xét.
10/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Trưởng hội chi hội có tín hữu đủ điều kiện nhận Baptem song không thể tổ chức lễ
có thể gửi ứng viên đến nhận Baptem nơi chi hội khác tổ chức lễ.
2.1.3 Nơi nhận Baptem
Theo kinh thánh ghi lại thì sông Giodanh là nơi chúa Giexxu đã chịu
Baptem (Kinh thánh Mathio 3:16, trang 3 trong Tân ước). Nếu chọn địa điểm thiên
nhiên như song, suối, nên chon chỗ thích hợp, rộng rãi, sạch sẽ, quang cảnh yên
tĩnh, tạo sự trang nghiêm cho buổi lễ.
Nơi tốt nhất để cử hành nghi lễ Baptem là hồ nước đã xây sẵn trong nhà thờ
với kích cỡ thích hợp.
2.1.4 Cách thực hiện lễ Baptem

Mục sư chủ lễ giúp ứng viên (người nhận lễ) dìm mình trong nước rồi lên
khỏi nước trong vài giây theo đúng nghĩa thuộc linh: dìm mình xuống là đồng chết,
đồng chôn với Chúa và lên khỏi nước là đồng sống đời mới với Chúa cứu thế
Giexu.
Trường hợp đặc biệt (già yếu, tật nguyền, đau ốm…) mục sư chủ lễ thực
hiện bằng cách đổ nước (một lượng nhỏ) trên đầu ứng viên.
Mục sư chủ lễ và mỗi ứng viên cần phải mặc áo lễ. Áo lễ của mục sư màu
huyết dụ, có hình thập tự trắng nhỏ trước ngực. Áo của ứng viên màu xanh dương
đậm. Hội thánh có thể hát Thánh ca trong khi các ứng viên lần lượt nhận Baptem.
Hành lễ xong, mục sư chủ lễ vẫn đứng trong nước để cầu nguyện chúc phước. Lễ
Baptem có thể được tổ chức dựa vào điều kiện của từng chi hội.
2.2 Lễ tiệc thánh
Tiệc thánh là lễ do chúa Giexu lập ra đúng vào kì lễ Vượt Qua mà người Do
Thái dự lễ nhớ lại biến cố ra khỏi Ai Cập do chính Đức chúa trời tỏ quyền năng
cứu dân Y sơ ra ên khỏi ách nô lệ được ghi lại trong Kinh thánh Xuất Êdipto
12:40-49 trang 77,78 Cựu ước hoặc Cô rinh tô nhất 5:6-8 trang 203 Tân ước.
2.2.1 Sự quan trọng của lễ Tiệc thánh
* Chúa Giexu thiết lập
11/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Chúa ghi nhớ sự khổ nạn sự đổ huyết và sự chết của Ngài trên thập tự giá
được ghi lại trong Chúa Giexu chính là Chiên con của lễ Vượt qua, Ngài thiết lập
Tiệc thánh để hội thánh Cô ninh tô thứ nhất 11:23 trang 210 Tân ước.
Lễ Vượt qua là lễ được tổ chức để kỉ niệm sự giải cứu của Đức chúa trời đối
với dân Y sơ ra ên khi họ làm nô lệ trong xứ Êdipto. Có thể hiểu lễ Vượt qua là lễ
mà con dân chúa phải giết con chiên nhà mình rồi lấy máu quyet lên cửa nhà rồi họ
làm bánh không bỏ men vì không đủ thời gian. Khi xong rồi thì đêm đến là lúc
Chúa đi qua sẽ cứu những ai mà ở trong ngôi nhà có vệt máu của Chiên con. Hình
ảnh chiên con của lễ Vượt qua được ví sánh như là Chúa cứu thế Giexu con Đức

chúa trời hằng sống, ngài là chiên con, đã đến thế gian và hi sinh trên thánh giá để
cứu con người. Máu của chiên con được sánh cho dòng huyết của Chúa đổ ra để
cứu nhân loại.
* Hội thánh tuân giữ
Hội thánh đầu tiên cho đến nay vấn giữ dự lễ Tiệc thánh vào chủ nhật tuần
đầu tiên của tháng để kỉ niệm sự chết của Chúa và hứa nguyện sống xứng đáng với
lời Ngài đã dạy.
* Hình bóng
Nếu huyết Chiên con của lễ Vượt qua đã giải cứu dân Y sơ ra ên khỏi tai vạ
cuối cùng và khỏi ách nô lệ tại Ai cập thì lễ Tiệc thánh đánh dấu biến cố hi sinh
của Chúa Giexu tại thập tự giá, có năng quyền tha tội và giải phóng nhân loại khỏi
quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
2.2.2 Tinh thần của lễ Tiệc thánh
*Để nhớ đến chúa
Chúa Giexu phán: “Nầy là than thể ta đã vì các ngươi mà phó cho; hãy làm
điều này để nhớ đến ta”. Hội thánh Tin lành Việt Nam thong tin thuyết Biến thế
(bánh và nước biến thành thịt và huyết thật của chúa). Tuy nhiên, sự kỉ niệm này
có giá trị thiêng liêng và được chúa hiện diện để ban phước cho hội thánh.
* Thi hành mạng lệnh chúa
12/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Khi dự tiệc thánh, hành động này nhắc nhở mỗi con cái chúa phải sống đạo,
tức là sống xứng đáng với sự hi sinh của chúa vì tội lỗi mỗi người, và để thực hiện
mạng lệnh giảng Tin lành.
* Phải dự tiệc thánh cách xứng đáng
Trước khi dự tiệc, các tín hữu phải tự xét long mình, cầu nguyện xưng tội
trước mặt chúa và cam kết với chúa để từ bỏ và mặc lấy con người mới.
Người dự tiệc thánh phải nhận thức được đặc ân cũng như trách nhiệm cần
làm cho chúa.

2.2.3 Cách dự tiệc thánh
* Chủ lễ và phụ lễ
Quản nhiệm hội thánh có trách nhiệm chuẩn bị lễ cho thật chu đáo hoặc có
thể hiệp với các nam chấp sự phụ lễ mà chuẩn bị bánh và nước đầy đủ theo số
lượng người tham dự.
Bánh có thể dung bánh tròn trắng hoặc bánh mì cắt nhỏ. Nước có thể dung
nước nho hoặc nước có màu đỏ thắm. Bàn tiệc thánh phải đủ rộng cho việc sắp đặt
những khay chén và bánh thứ tự. Khăn bàn màu trắng có thể trang trí hình thập tự
và mãn triều thiên với câu “hãy làm điều này để nhớ ta”.
Các nam chấp sự phụ lễ phải ăn mặc chỉnh tề, giúp lễ cách trang trọng, kính
kiền khi đưa bánh và chén xuống hội chúng. Các phụ lễ đứng đối nhau hai bên bàn
tiệc thánh, hkoong nên đứng ngang hàng với chủ lễ.
Sau khi lễ xong, bánh và nước còn lại, chủ lễ hoặc những phụ lễ phải ăn và
uống hết. Không được cho các em nhỏ ăn, uống hoặc bỏ đi.
* Hội chúng
Hội thánh giữ lễ tiệc thánh vào mỗi chủ nhật đầu tháng, trong dịp lễ kỉ niệm
chúa chịu thương chịu khó hoặc trong những kì hội đồng. Người nhận tiệc thánh
phải là người đã chịu Baptem. Nếu là người vi phạm giáo luật phải chờ đến khi
mãn hạn kỉ luật.
2.3 Các lễ nghi khác:
13/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Ngoài hai phép Bắptem và Tiệc thánh, đạo Tin lành duy trì các lễ như lễ
Nôel, lễ Phục sinh, lễ Dâng con trẻ cho Chúa, lễ Hôn phối và các nghi lễ khác cho
người quá cố
Đạo Công giáo cho rằng con người không những phải làm việc thiện mà còn
phải hãm mình để chuộc tội. Đạo Tin lành lại quan niệm rằng việc chuộc tội cho
loài người đã có Chúa Giêsu làm trọn rồi. Con người làm việc thiện để tỏ ra xứng
đáng với Thiên Chúa. Con người phải có đức tin mới được cứu vớt.

Tín đồ đạo Công giáo xưng tội trong toà kín với linh mục là hình thức chủ
yếu nhất, còn tín đồ đạo Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa. Đạo Công
giáo đặt ra nhiều bài kinh để cho mọi người cầu nguyện hàng ngày (quen gọi là
Kinh nguyện). Đạo Tin lành chỉ tin có Kinh thánh, dùng Kinh thánh trong tất cả
các sinh hoạt tôn giáo. Khi xưng tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành
có thể đứng giữa nhà thờ, trước đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của
mình một cách công khai.
Nhà thờ (thánh đường) của đạo Công giáo được xây dựng tốn kém, kiến trúc
đồ sộ theo lối cổ, bài trí công phu cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa - nơi Chúa
ngự một cách linh thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo nhiều ảnh tượng.
Nhưng trái lại, nhà thờ đạo Tin lành thường kiến trúc hiện đại, đơn giản, trong nhà
thờ không có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu tượng Chúa Giêsu chịu nạn.
Trong nhiều trường hợp đạo Tin lành chỉ sử dụng những phòng họp hoặc hội
trường đôi khi một nhà tạm của tín đồ dùng để làm điểm nhóm lễ, chia sẻ lời Chúa
trong Kinh thánh.
3. Chức sắc và tổ chức Giáo hội
Chức sắc của đạo Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi theo Kinh
thánh) và dưới mục sư là truyền đạo (còn gọi là giảng sư). Hiện nay, Hội thánh
Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đều thống nhất
gọi truyền đạo là mục sư nhiệm chức. Một số phái Tin lành vẫn duy trì chức giám
mục, nhất là những hệ phái chịu ảnh hưởng của Anh giáo. Chức sắc đạo Tin lành
14/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
chủ yếu là nam, nhưng cũng có một số phái có tuyển chọn cả phụ nữ và nhìn chung
họ không giữ chế độ độc thân. Chức sắc đạo Tin lành tuy được coi là "người chăn
bày" nhưng không có thần quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban
phúc, tha tội cho tín đồ, không phải là cầu nối trung gian trong mối quan hệ giữa
tín đồ đạo Tin lành với đấng thiêng liêng. Quan hệ giữa giáo sĩ với tín đồ bình
đẳng, cởi mở. Có hệ phái Tin lành bầu ra mục sư, truyền đạo theo thời gian. Chức

sắc đạo Tin lành hoạt động dưới sự kiểm soát của tín đồ, hàng năm tín đồ bỏ phiếu
tín nhiệm mục sư (hoặc truyền đạo) quản nhiệm Hội thánh cơ sở.
Đạo Tin lành chủ trương xây dựng các giáo hội độc lập với những hình thức
cơ cấu khác nhau, tuỳ thuộc vào từng hệ phái và hoàn cảnh điều kiện cho phép. Có
hệ phái Tin lành duy trì cơ cấu 2 cấp Trung ương và Hội thánh cơ sở (chi hội), có
hệ phái Tin lành duy trì thêm cấp trung gian là Giáo khu hay Địa hạt (tương đương
như giáo phận của đạo Công giáo). Nhân sự lãnh đạo các cấp giáo hội theo nhiệm
kỳ thông qua bầu cử dân chủ (trực tiếp, bằng phiếu kín, từng chức danh). Thành
phần lãnh đạo Giáo hội không chỉ có mục sư, truyền đạo mà có cả tín đồ tham gia.
Đặc biệt, các hệ phái Tin lành đều trao quyền tự quản cho hội thánh cơ sở với tinh
thần tự lập, tự dưỡng, tự truyền. Các hệ phái Tin lành không ngăn cản tín đồ, chức
sắc tách ra để gia nhập các hệ phái khác hoặc đứng độc lập.
Đạo Tin lành thường có hai sinh hoạt về mặt tổ chức là Bồi linh và Hội
đồng (đại hội đại biểu). Bồi linh còn gọi là Hội đồng linh tu được tổ chức hàng
năm theo các cấp giáo hội để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ, mục
sư, truyền đạo. Tuỳ theo cấp tổ chức bồi linh mà thành phần tham dự khác nhau.
Nếu bồi linh cấp trung ương thì chỉ có các mục sư, truyền đạo và những chức vụ
chủ chốt của các chi hội. Nếu bồi linh ở cấp chi hội thì mở rộng đến các tín đồ. Đại
hội đại biểu ở cấp chi hội thường họp mỗi năm một lần, gọi là Hội đồng thường
niên. Hội đồng ở chi hội có nhiệm vụ tổng kết công việc trong một năm và bàn
chương trình hoạt động của năm tới, bầu ban chấp sự; bỏ phiếu tín nhiệm mục sư,
truyền đạo chủ tọa và bầu chọn đại biểu đi dự Đại hội đồng cấp trên (nếu trùng
nhiệm kỳ của Đại hội đồng). Đại hội đại biểu trên cấp chi hội là Đại hội đồng.
15/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Thành phần tham dự Đại hội đồng là các mục sư, truyền đạo và đại biểu tín đồ
được cử ở các chi hội. Đại hội đồng tổ chức theo nhiệm kỳ để giải quyết các công
việc nội bộ, xây dựng hoặc sửa đổi hiến chương (Điều lệ) và bầu nhân sự lãnh đạo
giáo hội

16/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
CHƯƠNG 3: HỆ THỐNG TÍN ĐỒ CỦA ĐẠO TIN LÀNH
1. Trên thế giới:
Tin Lành là nhóm chính lớn thứ hai của Kitô hữu sau khi đạo Công giáo
trong số những người theo (mặc dù Giáo hội Chính thống là lớn hơn bất kỳ giáo
phái Tin Lành duy nhất). Thông thường con số này đặt tại 800 triệu. Tin lành, cùng
với Giáo Hội Chính Thống (khoảng. 200 triệu) và Giáo Hội Công Giáo (khoảng
1,1 tỷ ) tạo thành một tổng số 2,1 tỷ người theo Kitô giáo.
Tin lành có mặt khắp thế giới, phổ biến ở châu Âu, châu Mỹ và Nam Phi. Ở
châu Á, nó là tôn giáo chiếm ưu thế ở Georgia, Armenia, Đông Timor và
Philippines. Tuy nhiên, nó đang giảm trong nhiều lĩnh vực bao gồm cả Bắc và Hoa
Kỳ Tây , Châu Đại Dương (Úc và New Zealand), phía Bắc Châu Âu (bao gồm cả
Anh, Scandinavia và những nơi khác), Pháp, Đức, các tỉnh của Canada Ontario ,
British Columbia , và Quebec , và các bộ phận của châu Á (đặc biệt là Trung
Đông, Hàn Quốc , Đài Loan , và Macau). Các Kitô hữu dân số không giảm trong
Brazil , các miền Nam Hoa Kỳ và tỉnh Alberta , Canada , nhưng tỷ lệ đang giảm
dần.

17/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
Hình: Sự phân bố đạo tin lành trên thế giới
18/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
2. Tại Việt Nam:
Năm 1911 được xem là năm đầu tiên Tin Lành truyền đến Việt Nam.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ, kí kêt hiệp định Giơ-ne-vơ(20/7/1954), tại

vĩ tuyến 17 đất nước tạm thời chia thành hai miền. Trong giai đoạn này Hội Thánh
Tin Lành ở Việt Nam cũng bị phân ra thành hai tổ chức(Hôi Thánh Tin Lành Việt
Nam Miền Bắc và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Nam), hoạt động độc lập
cho đến hiện nay.
Đến nay có khoảng 1 triệu tín hữu Khách Cách thuộc nhiều giáo phái khác
nhau rải rắc trên toàn quốc, phần lớn tập trung tại miền Nam, trong số đó có nhiều
người thuộc các dân tộc thiểu số tại Tây nguyên.
Các hệ phái đang hoạt đông ở Việt Nam hiện nay thì Hội thánh Tin Lành
Việt Nam(miền Nam) có số mục sư và tín hữu đông đảo nhất, hội thánh có khoảng
115 muc sư và 350.00 tín hữu. Kế tiếp là Hội thánh Cơ đốc Liên hữu với 45.000
tín hữu, Hội thánh Cơ đốc Phúc lâm Việt Nam với 22.000 tin hữu, Hội thánh Cơ
đốc truyền giáo Việt Nam với 15.000 tin hữu,… và nhiều tín hữu còn lại thuộc về
hang chục các hội thánh, nhóm Tin Lành khác. Đó là một thành tựu rất lớn chứng
tỏ sự hoạt động tích cực và không mệt mỏi của các hội thánh Tin Lành, mặt khác
do sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện, mội trường thuận
lợi cho sự vươn lên của các Hội thánh Tin Lành ở đất nước ta.
19/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
Qua phân tích quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức giáo hội
chúng tôi khái quát một số nét đặc trưng cơ bản của đạo Tin lành như sau:
1. Đạo Tin lành là tôn giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế kỷ XVI cùng với
sự xuất hiện của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Nội dung cải cách chịu ảnh
hưởng sâu sắc tư tưởng dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong sinh hoạt tôn
giáo, đạo Tin lành đề cao vai trò cá nhân. Trong sinh hoạt về tổ chức, đạo Tin lành
đề cao tinh thần dân chủ. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức
của đạo Tin lành đơn giản, nhẹ nhàng không rườm rà, gò bó như đạo Công giáo.
2. Những nội dung cải cách đã làm cho đạo Tin lành trở thành một tôn giáo
có mầu sắc mới mẻ, thích hợp với giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức, trí thức

thị dân nói chung trong xã hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo nhẹ nhàng,
đề cao đức tin và vai trò cá nhân, đạo Tin lành duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn
cảnh chính trị, xã hội, kể cả những khi bị o ép, cấm cách.
3. Đạo Tin lành còn là một tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt
động rất năng động, luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn
cảnh xã hội. Đặc biệt, đạo Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội,
nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, lấy đó làm phương tiện mở rộng ảnh hưởng.
Điều này tạo ra uy tín và khả năng tiếp cận, chung sống với nhiều chế độ chính trị
khác nhau.
4. Ngoài tầng lớp thị dân, đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của đạo
Tin lành là đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó là những vùng đất mới - nơi chưa có
tôn giáo chính thống hoặc tôn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thoái, mất uy tín, nơi
đời sống dân sinh, trình độ dân trí thấp. Truyền đạo đến những vùng này, đạo Tin
lành không những phát huy lợi thế vốn có "đơn giản về luật lệ, lễ nghi, cách thức
hành đạo" mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm lịch sử, văn hoá, tâm lý, lối sống,
phong tục, tập quán của từng dân tộc, chủ động địa phương hoá, dân tộc hoá để dễ
dàng hoà nhập.
5. Ra đời, phát triển cùng với giai cấp tư sản cho nên đạo Tin lành có mối
quan hệ khá chặt chẽ với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin lành như
20/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
một thứ vũ khí trong các cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc tìm kiếm thị
trường thuộc địa sau này. Ngược lại, đạo Tin lành nhờ dựa vào giai cấp tư sản để
củng cố phát triển lực lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến tranh xâm thực mà
giai cấp tư sản tiến hành.
6. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành, mối
quan hệ nói trên có sự thay đổi ở từng nước, từng khu vực. Thời gian sau này, đạo
Tin lành chịu ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên nhiều phái Tin
lành tách dần khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực chính trị.

21/22
Những Nguyên Lý Cơ Bản
Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin
TÀI LIỆU THAM KH$O
1 Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, tập 3 – Mai Thanh Hải (2006)
2 Mười tôn giáo lớn trên thế giới – Hoàng Tâm Xuyên, Lã Đại Cát, Lý Vũ
Thành; dịch: Dương Thu Ái 1999
3 Nguyễn Xuân Hùng, Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin lành tại
Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 3, 2001
4 Nguyễn Xuân Hùng, Tìm hiể những hệ quả của việc truyền giáo Tin lành
đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng Việt Nam, tạp chí nghiên cứu
tôn giáo, số 1, 2001
5 Phạm Đăng Hiển, Góp một góc nhìn về vấn đề đạo Tin lành ở Tây nguyên,
tạp chí dân tộc học, số 5, 2003
6 Nguyễn Thanh Xuân, Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt
Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2002
7 Nguyễn Văn Trung, Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, NXB QĐND,
Hà Nội, 1993
8 Hội thánh Tin lành Việt Nam 100 năm hình thành và phát triển, NXB Tôn
giáo, 2011
9 Sưu tầm một số luận văn tiến sĩ, thạc sĩ về đạo Tin lành ở Việt Nam
10 Một số trang web của đạo Tin lành: tinlanh.com, hoithanh.com và một số
nguồn tài liệu trên mạng tham khảo
22/22

×