Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TẤM VÁN PHÓNG DAO CỦA MẠC CAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.97 KB, 78 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP


BÙI THỊ MỸ AN


NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT TẤM VÁN PHÓNG DAO
CỦA MẠC CAN



Ngành đào tạo: Sư phạm Ngữ văn
Trình độ đào tạo: Đại học


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP



ĐỒNG THÁP, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP



BÙI THỊ MỸ AN



NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT TẤM VÁN PHÓNG DAO
CỦA MẠC CAN


Ngành đào tạo: Sư phạm Ngữ văn
Trình độ đào tạo: Đại học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Giảng viên hướng dẫn:
TS. NGUYỄN THỊ KIM TIẾN


ĐỒNG THÁP, NĂM 2014



























LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các kết quả và số liệu trong khóa luận
này là trung thực và chưa được ai công bố dưới bất
kì hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước Nhà trường về sự cam đoan này.
Tác giả

Bùi Thị Mỹ An

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành, sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Kim Tiến - người
đã có những định hướng ban đầu, những lời nhận xét quý báu
và nhiệt tình chỉ dẫn trong suốt quá trình tôi thực hiện khóa
luận này .
Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những thầy cô đã tận
tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian

theo học tại trường Đại học Đồng Tháp cũng như quá trình
bắt tay vào viết và hoàn thành khóa luận.
Cảm ơn gia đình, tất cả bạn bè đã hết lòng động viên,
khuyến khích, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành
tốt khóa luận.
Do điều kiện thời gian và năng lực, khóa luận không
thể không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự
chỉ dẫn và góp ý góp của các thầy cô và bạn bè để khóa luận
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Bùi Thị Mỹ An

MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của đề tài 6
7. Cấu trúc của đề tài 6
CHƯƠNG 1. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI 7
1.1. Nghệ thuật trần thuật 7

1.1.1. Người kể chuyện 8
1.1.2. Điểm nhìn trần thuật 10
1.1.3. Nhịp điệu trần thuật 11
1.1.4. Giọng điệu trần thuật 12
1.1.5. Ngôn ngữ trần thuật 12
1.2. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 13
1.3. Đóng góp của Mạc Can đối với tiểu thuyết đương đại 19
1.3.1. Bức tranh tự họa Mạc Can 19
1.3.2. Những đóng góp của Mạc Can đối với nền văn học đương đại 21

CHƯƠNG 2. NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TẤM VÁN PHÓNG DAO
CỦA MẠC CAN 24
2.1. Hình tượng người kể chuyện 24
2.1.1. Người kể chuyện trực tiếp 24
2.1.1.1. Câu chuyện của gia đình 24
2.1.1.2. Ước mơ không nói thành lời 33
2.1.2. Người kể chuyện gián tiếp 35
2.1.2.1. Qua lời độc thoại của Bà Tư 35
2.1.2.2. Tác giả - người kể chuyện ẩn mình 37
2.2. Điểm nhìn trần thuật 40
2.2.1. Điểm nhìn trần thuật chủ quan 40
2.2.2. Điểm nhìn trần thuật khách quan 43
2.2.3. Sự dịch chuyển điểm nhìn 46
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT TRONG TẤM VÁN PHÓNG
DAO CỦA MẠC CAN 48
3.1. Nhịp điệu trần thuật 48
3.1.1. Nhịp điệu trần thuật chậm rãi, khoan thai 48
3.1.2. Nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gáp 51
3.2. Giọng điệu 54
3.2.1. Giọng điệu dân dã mộc mạc 54

3.2.2. Giọng tâm tình, thủ thỉ, giàu chất thơ 56
3.2.3. Giọng ngậm ngùi, cảm thương 58
3.2.4. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý 59
3.3. Ngôn ngữ trần thuật 61
3.3.1. Ngôn ngữ dòng ý thức và thời gian đồng hiện 61

3.3.2. Độc thoại nội tâm 64
3.3.3. Độc thoại trong hình thức đối thoại 65
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mạc Can được nhiều khán giả biết đến và yêu mến với vai trò là một ông
hề xiếc vui tính, một diễn viên đóng phim, một nhà ảo thuật tài ba. Nhưng chắc hẳn
mọi người sẽ càng bất ngờ và cảm thấy thú vị hơn khi ông được nhắc đến trên diễn
đàn văn học với một vai trò mới là một “Nhà văn trẻ” mặc dù đã ngoài cái tuổi lục
tuần. Bắt đầu với sự nghiệp văn chương không được bao lâu, số lượng tác phẩm
chưa đồ sộ, song ông được đánh giá là một trong những tác giả có phong cách viết
truyện độc đáo, tự nhiên, có những đóng góp quý báu vào bức tranh phản ánh
những phương diện khác nhau của hiện thực xã hội.
1.2. Mạc Can gây ấn tượng mạnh mẽ sau khi trình làng cuốn tiểu thuyết đầu
tay Tấm ván phóng dao, đã được đông đảo giới phê bình và độc giả đón nhận nồng
nhiệt. Trong năm 2005, tác phẩm đã giành cùng lúc ba giải thưởng danh giá: Giải A
cuộc thi tiểu thuyết của Hội nhà văn Việt Nam; Giải thưởng văn học nghệ thuật
Thành Phố Hồ Chí Minh; Giải thưởng của Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt
Nam dành cho tác phẩm văn học xuất sắc nhất trong năm. Tấm ván phóng dao
mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phản ánh được cuộc sống những con người
một thời ở vùng đất Nam Bộ. Thông qua trang viết của nhà văn, ta thấy thấp thoáng

đâu đó hiện lên cuộc đời của chính tác giả. Chúng tôi rất thích những trang viết của
nhà văn Mạc Can. Bởi lẽ, qua tiểu thuyết đầu tay của ông, chúng tôi nhận thấy thứ
ngôn từ chân chất mộc mạc, bình dị dùng nhiều phương ngữ Nam Bộ. Với lối viết
giản dị, chân thật, nghệ thuật trần thuật tự nhiên, linh hoạt, tác phẩm đã thể hiện một
phong cách riêng, rất mới lạ, độc đáo và cũng rất Mạc Can. Câu chuyện được kể
không đơn điệu, không gây cảm giác nhàm chán nặng nề từ phía người đọc. Nó cứ
diễn ra tự nhiên như không hề có sự sắp đặt sẵn mà vẫn rất chân thật, dung dị và đạt
được hiệu quả cao nhờ sử dụng một lối nghệ thuật trần thuật hấp dẫn.
1.3. Nghiên cứu Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Tấm ván phóng
dao của Mạc Can giúp chúng tôi trân trọng và ngưỡng mộ tài năng, cũng như sức
sáng tạo của nhà văn phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật kể chuyện của chính tác
giả. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của những người đi trước cùng với sự nỗ
2

lực của bản thân, chúng tôi hy vọng rằng kết quả của đề tài này góp thêm một phần
nhỏ vào việc khẳng định vai trò, vị trí của nhà văn đối với sự vận động tư duy tiểu
thuyết cũng như những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật trong nền văn học Việt Nam
đương đại nói chung và tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng. Đồng thời giúp cho bản thân
người nghiên cứu có nhiều thuận lợi trong việc nghiên cứu, giảng dạy những hiện
tượng văn học, tác giả, tác phẩm văn chương của văn học Việt Nam đương đại ở
trường phổ thông được sâu sắc hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Sáng tác đầu tay Tấm ván phóng dao của Mạc Can khi giới phê bình và đọc
giả tiếp nhận ít nhiều đã tạo ra hai luồng dư luận khen, chê. Song tất cả những
người yêu thích và quan tâm đến tiểu thuyết này đều nhận thấy khá nhiều nét mới,
tuy không lạ lẫm so với sáng tác của các nhà văn khác nhưng tác phẩm có những
nét khó trộn lẫn vào đâu được. Có thể nói, nét riêng làm cho văn Mạc Can có chỗ
đứng, tạo vị thế riêng trong tâm hồn người đọc là cái tài hòa quyện cái tình được
lắng đọng vào đấy.
Do xuất hiện trên văn đàn chưa lâu nên những công trình hay các bài viết

nghiên cứu về Mạc Can còn rất ít, chủ yếu nằm rải rác trên các báo, tạp chí, chưa
tập hợp thành sách. Tuy nhiên trong số những bài giới thiệu, phê bình viết về Mạc
Can và các tác phẩm của ông, cũng đã có những ý kiến cảm nhận về nghệ thuật trần
thuật nhưng dung lượng còn rất ít.
Khi tiểu thuyết Tấm ván phóng dao trình làng và thu được những thành
công bất ngờ, trên báo Văn nghệ, số 37, với bài viết Cuộc tự vượt đáng trân
trọng (Báo cáo tổng kết cuộc thi tiểu thuyết 2002 - 2004 của Hội Nhà văn Việt
Nam), nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch, Trưởng ban chung khảo cuộc thi đã nhận xét:
tiểu thuyết của Mạc Can “Cơ hồ như không tựa vào sự kiện nào cả… cái khác lạ,
cái độc đáo của cuốn tiểu thuyết này là dòng chảy nội tâm của tác giả được đẩy lên
bình diện thứ nhất mang âm hưởng độc thoại sâu lắng”[33].
Cũng trong bài viết Từ cuộc thi tiểu thuyết 2002 - 2004 của Hội Nhà văn Việt
Nam, trên báo Văn nghệ, số 38, ngày 17/9/2005, nhà phê bình nghiên cứu Phong Lê
trình bày những suy nghĩ riêng của mình. Ông đưa ra những nhận định khá toàn
3

diện về diện mạo của các tác phẩm dự thi. Ông đặc biệt có cảm tình với cách tìm tòi
để làm mới cách viết của một số tác giả trong đó có Mạc Can: “Chỉ riêng Tấm ván
phóng dao là đạt được một hiệu quả gây nên một ấn tượng, bởi nó không còn bị
trượt trên những rãnh mòn quá quen thuộc của cách viết cũ, nhưng cũng không quá
tân kỳ để gây nên dị ứng. Văn của Mạc Can có sự kết hợp giữa chất thơ (tức là
những kỷ niệm được lọc qua hồi tưởng) và chất triết lý về cuộc đời, về cõi
người”[19].
Trên Tuổi trẻ Online, Văn Giá với bài viết Tấm ván phóng dao - sức sống
của giá trị nhân văn cổ điển, cũng thừa nhận rằng: “Văn của Mạc Can có sức cuốn
hút kỳ lạ, sự cuốn hút đó được thể hiện qua những mảnh ký ức buồn và một ý vị
triết học cùng với chất thơ lan tỏa - sự trở lại của giá trị nhân văn cổ điển. Mạc Can
đã tiếp nối thật tự nhiên và đầy trách nhiệm chủ nghĩa nhân đạo trực tiếp hướng về
số kiếp con người theo cách biểu hiện của lòng thương xót đối với con người”[10].
Văn Giá còn nhận định: “Câu chuyện Tấm ván phóng dao về cơ bản được trần

thuật từ nhân vật xưng tôi, chuyện không dựa vào cốt truyện rõ ràng… tác giả chọn
cách thức trần thuật theo kiểu hồi ức… Về mặt kiến trúc, tác giả chọn cách thức tiến
hành phân mảnh. Các mảnh sự kiện, mảnh suy tư, mảnh tâm tình, mảnh triết lý,
mảnh hồi nhớ được sắp đặt cạnh nhau và luân phiên theo cách không đều nhau. Sự
chuyển đổi linh hoạt trong cách thức trần thuật như đã nói ở phần trên góp phần
khắc họa nội tâm nhân vật, gợi lên mặt giấy vỉa tâm hồn sâu khuất bí ẩn. Chất thơ
của tiểu thuyết bộc lộ qua những tưởng tượng, những mơ mộng, xúc cảm của nhân
vật trước cảnh trời mây sông nước những thân phận nguời muôn mặt với thổ âm từ
vị riêng, những tập tục sinh hoạt mang đầy phong vị phương Nam, hồn riêng Nam
Bộ, âm vọng văn hóa truyền thống, bàng bạc, quyến luyến tấm lòng người đọc”[10].
Từ các bài viết trên, các nhà nghiên cứu về truyện Mạc Can đều có chung
một nhận định: Tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can có nhiều yếu tố mang
tính tự truyện, mang ý nghĩa đời tư, có tư tưởng nhân văn sâu sắc. Có lẽ vì vậy mà
Mạc Can xuất hiện chưa lâu trên văn đàn văn học nhưng khi bước chân vào làng
văn thì ngay lập tức có tiếng vang. Văn ông đủ sức lôi cuốn các nhà lý luận, phê
bình văn học bởi phong cách riêng.
4

Nhận xét về Tấm ván phóng dao, Hồ Anh Thái nhấn mạnh: “Với tiểu
thuyết Tấm ván phóng dao, Mạc Can đã sử dụng hiệu quả thủ pháp gián cách. Mọi
sự kiện biến động của cuộc sống bên ngoài được tái hiện lập tức được đẩy ra xa đưa
qua màng lọc của chàng thiếu niên, khắc in lại đó những đồ thị run rẩy. Chuyện thế
sự khi ấy chỉ còn là cái cớ để cho những rung cảm của một con người có dịp trào ra,
ngân lên. Sự kiện ngay phút chốc được xóa mờ đi, nhường chỗ cho những chiêm
nghiệm, những rung động, những cung bậc tình cảm tinh tế nhiều vẻ. Nhiều trang
viết đạt đến độ hiếm hoi về nỗi buồn thấm thía của kiếp làm người”[31].
Cho đến nay, chưa có một công trình hay bài viết nào diễn đạt bằng tên gọi
trực tiếp về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của nhà văn
Mạc Can. Nhưng căn cứ vào nội dung của các bài viết thì các tác giả đã có những
nhận xét, đánh giá từng khía cạnh liên quan đến nghệ thuật trần thuật như giọng

điệu, ngôn ngữ, cách lựa chọn tình huống, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác
phẩm này.
Như vậy, các tác giả nói trên dù trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các bài
viết đã có những cảm nhận, phân tích, đánh giá về nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can. Nhưng tất cả mới chỉ dừng lại ở những
nhận xét đơn lẻ, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát tiểu thuyết Tấm ván
phóng dao của Mạc Can ở phương diện nghệ thuật trần thuật.
Chính vì thế, tìm hiểu Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết “Tấm ván
phóng dao” của Mạc Can vẫn là một hướng tiếp cận gợi mở nhiều hấp dẫn, thú vị
cho người nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu và có cách nhìn rõ nét hơn về nghệ thuật trần thuật qua
một tác phẩm cụ thể của Mạc Can.
Từ đó, đề tài ghi nhận và khẳng định tài năng của nhà văn Mạc Can ở việc sử
dụng nghệ thuật trần thuật khá thành công trong tiểu thuyết Tấm ván phóng dao.

5

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ tiến hành khái quát lý thuyết chung về nghệ thuật trần thuật, có cái
nhìn tổng quan về sự vận động của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kì đổi mới.
Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ chỉ ra những thành công của Mạc Can trong việc
xây dựng hình tượng người kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, nhịp điệu cũng như
giọng điệu trần thuật qua tiểu thuyết Tấm ván phóng dao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu vấn đề nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Tấm
ván phóng dao của Mạc Can.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát cuốn tiểu thuyết Tấm ván phóng dao (2004)
của nhà văn Mạc Can, do Nxb Hội nhà văn ấn hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê
Để có thể xác lập được những nhận định mang tính khách quan, khoa học, có
tính thuyết phục, chúng tôi chú ý tới việc thống kê để đưa ra những luận điểm, luận
cứ đánh giá khi cần thiết.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Để làm sáng tỏ những khía cạnh của vấn đề chúng tôi vận dụng phương pháp
phân tích để xem xét từng khía cạnh, sau đó tổng hợp lại để đi đến những nhận
định, kết luận.
5.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp này nhằm đối chiếu các bài báo, bài viết, những bài nghiên cứu
về tác giả Mạc Can và những vấn đề xoay quanh tiểu thuyết Tấm ván phóng dao.
6

5.4. Phương pháp hệ thống
Phương pháp này giúp người viết nắm được cấu trúc nội tại và xác lập được
những nét đặc sắc xoay quanh vấn đề nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết Tấm ván
phóng dao của Mạc Can.
5.5. Phương pháp tiểu sử
Phương pháp này kết hợp tới việc tiếp cận tự sự học, giúp người viết có cái
nhìn tổng quát hơn về tác giả. Qua đó đối sánh cuộc đời của chính nhà văn với cuộc
đời nhân vật được trần thuật trong tác phẩm.
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận tập trung đi sâu tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
Tấm ván phóng dao của Mạc Can.
Kết quả của khóa luận có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho học phần lý

luận văn học xoay quanh vấn đề trần thuật: Hình tượng người kể chuyện, giọng
điệu, nhịp điệu, ngôi kể, điểm nhìn.
Qua đó, góp phần tìm hiểu thêm về tác giả, tác phẩm mới, có nhiều thành tựu
và đóng góp quan trọng của tiểu thuyết trong nước nói chung và tiểu thuyết Nam Bộ
đương đại nói riêng bên ngoài chương trình văn học nhà trường.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phần phụ lục, phần nội dung của đề tài được
triển khai qua ba chương:
Chương 1. Nghệ thuật trần thuật trong sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Chương 2. Người kể chuyện trong Tấm ván phóng dao của Mạc Can
Chương 3. Phương thức trần thuật trong Tấm ván phóng dao của Mạc Can
7

CHƯƠNG 1
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI

1.1. Nghệ thuật trần thuật
Trong 150 Thuật ngữ văn học, theo Lại Nguyên Ân, trần thuật được hiểu là
“thành phần lời tác giả của người trần thuật hoặc của người kể chuyện. Trần thuật
bao gồm việc kể, miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian; mô tả chân
dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất… bàn luận; lời nói bán trực
tiếp của các nhân vật. Do vậy trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm
tự sự. Tính chất của trần thuật phụ thuộc vào điểm nhìn (cũng gọi là lập trường hay
quan điểm) mà từ đó nó được dẫn dắt… Có thể phân chia các kiểu “điểm nhìn” tạo
thành trần thuật: Xét từ bình diện đánh giá: tác giả, người kể chuyện nhân vật có thể
cùng một lập trường tư tưởng; Xét ở bình diện không gian - thời gian: cái được mô
tả liên quan tới tác giả hoặc nhân vật bình giá ở phương diện không gian - thời gian
nào; Xét ở bình diện cảm nhận các biến cố: sự cảm nhận có thể được xem như chủ

quan, ở trường hợp này trần thuật sẽ được tạo dựng dựa vào dữ kiện một sự cảm
nhận của một ai đó”[1, tr.337-338].
Như vậy, bản thân trần thuật là việc diễn đạt ngôn ngữ, biểu hiện của cảm
xúc không chỉ theo người trần thuật mà qua những lời kể, những điều bộc bạch của
nhân vật trong tác phẩm cũng là những cái nhìn riêng, những khía cạnh khác nhau
của người trần thuật về cuộc sống, về những quan điểm của mình trong tình cảm
cũng như cuộc sống đời thường.
Trần thuật là một khía cạnh thuộc thi pháp thể loại tiểu thuyết vì vậy nghệ
thuật trong trần thuật được thể hiện trong những phương diện người trần thuật, điểm
nhìn trần thuật, nhịp điệu trần thuật, giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ trần thuật.
Thông qua những khía cạnh này, trần thuật cùng với việc sử dụng ngôn ngữ của tác
giả khiến cho tác phẩm thêm phần mới mẻ hơn, mang hơi hướng của tác giả nhưng
lại gần gũi và thể hiện được tâm trạng, tính cách của nhân vật.
8


1.1.1. Người kể chuyện
Theo Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, thì “người trần thuật là một nhân
vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo
thành… nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác
phẩm tự sự”[13, tr.211-212]. Như vậy, người kể chuyện là một hình tượng do nhà
văn sáng tạo ra trong tác phẩm của mình và văn bản tự sự chính là sản phẩm ngôn
từ do hoạt động ngôn ngữ nhân vật này xây dựng nên.
Tác giả Lại Nguyên Ân lại đưa ra một định nghĩa khá sâu sắc về người kể
chuyện trong trần thuật tự sự: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi
là người trần thuật - một loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả),
loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra”[1, tr.360]. Trong định
nghĩa này, nhà lý luận một lần nữa khẳng định vai trò cầu nối và dẫn dắt câu chuyện
của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, đồng thời nhấn mạnh vai trò chứng kiến
và giải thích của hình tượng này. Đây là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện

người kể chuyện trong các sáng tác tự sự từ xưa đến nay.
Người kể chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng tạo nên, là
người đại diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự. Trong phạm vi tác phẩm,
người kể chuyện là chủ thể của lời kể, là người đứng ra kể chuyện và là nhân tố
trung tâm chi phối việc tổ chức, kết cấu cấu trúc của văn bản tự sự.
Người kể chuyện giữ vai trò cầu nối giữa tác giả, tác phẩm và người đọc. Tác
phẩm tự sự nào cũng có hình tượng người kể chuyện của nó. Không phải lúc nào
người đọc cũng được thông báo về số phận riêng tư, diện mạo hoặc mối quan hệ
qua lại của người kể chuyện với các nhân vật, hoặc vì đâu, trong tình huống nào mà
tiến hành kể chuyện. Nhiều khi người kể chuyện tỏ ra khách quan không để lộ mối
thiện cảm, ác cảm hay thái độ suy nghĩ của mình. Nhưng bao giờ người đọc cũng
cảm thấy được linh hồn của người kể chuyện một cách rõ rệt, gần gũi. Người đọc
nhận ra hình tượng người kể chuyện qua cái nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư
duy, năng lực trí tuệ và chất tình cảm của anh ta. Người kể chuyện không phải là
một phương diện thuần túy thuộc về hình thức văn học mà là hiện thân của một
9

hình tượng đặc biệt, gắn liền với tư tưởng, thái độ của tác giả về hiện thực, về thế
giới và con người. Tuy nhiên, tác giả và hình tượng người kể chuyện là hai thực thể
độc lập. Một bên là chủ thể sáng tạo, một bên là hình tượng nghệ thuật. Người kể
chuyện mang trong mình nó cả nhân vật và người kể. Điểm nhìn, tầm nhận thức của
người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều tồn tại độc lập. Người kể chuyện cũng
có thể có tính cách như nội dung của hình tượng. Khác với hình tượng nhân vật
khác, tính cách của người kể chuyện bộc lộ không chỉ qua việc trực tiếp tham gia
vào hành động trong tác phẩm, hay qua những lời giãi bày tâm sự của chính mình,
mà chủ yếu qua thái độ đối với thế giới câu chuyện được kể lại thông qua một điểm
nhìn được xác định. Tuy nhiên, không nên đồng nhất tác giả với người kể chuyện.
Tác giả không bao giờ hiện diện trong truyện kể như một người kể, người phát ngôn
mà chỉ xuất hiện như một tác giả hàm ẩn, một cái “tôi” thứ hai của nhà văn với tư
cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả xuất hiện

chỉ như người ghi chép hay nghe trộm người kể. Người kể chuyện là kẻ được sáng
tạo ra để mang lời kể. Và sản phẩm của hành vi trần thuật đó là văn bản tự sự. Thêm
vào đó, thái độ của người kể chuyện đối với thế giới câu chuyện được kể lại có thể
phần nào trùng với quan điểm của tác giả, nhưng không bao giờ trùng khít hoàn
toàn.
Tóm lại, người kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu tác
phẩm. Là người đại diện phát ngôn, thể hiện quan điểm, tư tưởng của tác giả trong
tác phẩm, người kể chuyện đồng thời đóng vai trò trung gian giữa người đọc với thế
giới nghệ thuật hình tượng và tác giả. Người kể chuyện cung cấp cho người đọc
những dấu hiệu, chỉ dẫn để thâm nhập sâu vào trong đời sống của các nhân vật.
Những dấu hiệu ấy có khi rõ nét, chi tiết, song cũng có lúc rất cô đọng, ẩn chứa
nhiều tầng bậc ý nghĩa. Các tầng bậc kể chuyện càng đa dạng, phức tạp càng kích
thích được khả năng đồng sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú ở độc giả. Người kể
chuyện còn hướng người đọc cùng suy ngẫm, chia sẻ và đồng cảm với những chiêm
nghiệm, những suy nghĩ của mình về cuộc đời. Những chiêm nghiệm, suy tư ấy có
căn cứ từ trong văn bản tự sự, trong thế giới hình tượng nhà văn xây dựng trong
sáng tác của mình. Bằng cách này, người kể chuyện cũng kéo người đọc đến gần
hơn với những quan niệm của tác giả về hiện thực, về nhân sinh.
10

1.1.2. Điểm nhìn trần thuật
Theo Trần Đình Sử, xác định điểm nhìn trần thuật là “phương thức phát
ngôn, trình bày miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác
giả”[28, tr.74]. Người cầm bút không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện, hiện tượng
về cuộc sống xung quanh nếu không tìm hiểu kỹ lưỡng, không xác định cho bản
thân một điểm nhìn đối với chúng. Đối với sáng tạo nghệ thuật, điểm nhìn trần thuật
là một trong những phương diện, yếu tố quan trọng hàng đầu và có mối quan hệ gắn
bó, chặt chẽ, mật thiết với tình cảm, thái độ của nhà văn, giọng điệu của tác phẩm,
cấu trúc nghệ thuật. Cho nên, chúng ta cần chú ý đến điểm nhìn, vị trí mà tác giả
đứng để lựa chọn quan sát, chiêm ngưỡng và thể hiện khi khám phá, nghiên cứu cấu

trúc văn bản. Bởi chính vị trí đó ảnh hưởng trực tiếp tới cách thể hiện, đánh giá mọi
sự việc, hiện tượng và trở thành căn cứ chủ chốt, trọng điểm để người đọc suy nghĩ,
lựa chọn thái độ, tình cảm với hiện thực, với nhân vật được đề cập tới. Hơn nữa,
biết được điểm nhìn trần thuật của nhà văn thì độc giả sẽ tạo được tâm thế để khám
phá sâu hơn vào tác phẩm, đưa họ tiếp cận đến nhận thức và cảm thụ mà nhà văn
muốn vươn tới. Cách vận dụng sáng tạo, linh hoạt các điểm nhìn trần thuật góp
phần tạo nên sự phong phú và lôi cuốn cho tác phẩm văn học.
Đối với tác phẩm tự sự, nội dung trần thuật lúc nào cũng được trao cho một
ai đó, đó là người trung gian giữa người đọc với đối tượng được miêu tả, phản ánh.
Nhà văn triển khai trần thuật theo quan điểm của bản thân hay trao nó cho người
trần thuật, hoặc theo điểm nhìn của một trong số các nhân vật hoặc kết hợp đan xen
các quan điểm của các nhân vật khác nhau. Ở đây, người kể chuyện là người trực
tiếp tham gia vào câu chuyện như một nhân vật hoặc là người chứng kiến và giải
thích các sự việc, hiện tượng đã xảy ra. Phụ thuộc vào điểm nhìn được lựa chọn và
người kể chuyện xuất hiện đóng vai trò với những tư cách, vai trò không giống
nhau. Có khi tác phẩm kể chuyện theo ngôi thứ ba vô tình nào đó (trần thuật khách
quan hóa), không bình luận và không tham gia vào quá trình diễn biến của câu
chuyện, mà để nó tự nhiên diễn ra. Cũng có khi người kể chuyện xưng “tôi” để
tường thuật lại những gì mà bản thân đã chứng kiến, trải qua, đã quan sát và giữ vị
trí kể chuyện từ đầu đến lúc kết thúc tác phẩm (trần thuật chủ quan hóa). Như vậy,
việc lựa chọn các phương thức trần thuật đúng đắn, phù hợp gắn liền với quan điểm
11

trần thuật của nhà văn. Dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau nên có các kiểu
điểm nhìn không giống nhau. Dựa vào vị trí người tường thuật lựa chọn để quan sát,
đánh giá các sự kiện và nhân vật có các kiểu như: điểm nhìn bên trong, điểm nhìn
bên ngoài, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn không gian, điểm nhìn tâm lí.
Trong tác phẩm, để tạo nên hình tượng nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn thì nhà
văn sáng tạo ra người kể chuyện quan sát, miêu tả có khi là người trần thuật theo
ngôi thứ ba ẩn mình, có khi lại là người theo ngôi thứ nhất lộ diện… phụ thuộc vào

tài năng quan điểm sáng tác mà mỗi tác giả có cách lựa chọn và tổ chức điểm nhìn
trần thuật không giống nhau.
1.1.3. Nhịp điệu trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học nhịp điệu là “sự lặp đi lặp lại có tính chất
chu kì, cách quãng hoặc luân phiên của các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời
gian hay quá trình nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mĩ… Trong văn
xuôi, nhịp điệu của tổ chức lời văn được hình thành trên cơ sở sự phân tách văn bản
thành chương, hồi, đoạn. Câu văn dài, ngắn khúc khuỷu được lặp lại cũng tạo nên
nhịp điệu cảm nhận đời sống”[13, tr.165].
Còn theo Nguyễn Thái Hòa “trong văn xuôi thì nhịp điệu còn là yếu tố thời
gian, nhịp điệu kể, nhịp điệu tả Nhịp điệu ấy cũng có thể nhanh hay chậm, cô đúc
hay giàn trải”[15, tr.164].
Như vậy nhịp điệu trần thuật chính là sự luân phiên giữa mạch kể, mạch tả
hay sự lặp lại các sự việc, phát triển nhanh hay chậm trong tác phẩm tự sự của mỗi
nhà văn. Các yếu tố: sự kiện, biến cố, tình tiết được đan cài do các thủ pháp của tác
giả đã tạo nên nhịp điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự. Sự phối hợp các thành phần
trần thuật, sự luân phiên, phối xen các sự kiện và các đoạn tả cảnh, tả tình, hồi
tưởng sẽ tạo nên nhịp điệu trần thuật. Dựa vào quan điểm sáng tác và đối tượng trần
thuật của mỗi nhà văn mà có những nhịp điệu khác nhau tạo nên sự độc đáo, không
trùng lặp trong kho tàng văn học. Qua nhịp điệu trần thuật, độc giả biết được cách
cảm nhận thẩm mĩ của các nhà văn về thế giới hơn nữa nhịp điệu trần thuật thể hiện
cảm giác vận động và phát triển của cuộc sống được phản ánh chống lại sự đơn
điệu, tẻ nhạt của tác phẩm tự sự.
12

Tóm lại, nhịp điệu trần thuật là một phương diện cơ bản, quan trọng để cấu
tạo hình thức nghệ thuật tác phẩm văn học, chính là sự phát triển nhanh hay chậm
của mạch kể trong tác phẩm. Nhịp điệu trần thuật tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn người
đọc, góp phần giúp người nghiên cứu khám phá, phát hiện phong cách nhà văn.
Việc tìm hiểu nhịp điệu trần thuật trong tiểu thuyết của một tác giả tức giúp chúng

ta tìm ra những nét đắc sắc trong tiểu thuyết của chính nhà văn đó.
1.1.4. Giọng điệu trần thuật
Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu là một yếu tố cơ bản, được thiết lập
từ mối quan hệ giữa người kể và người nghe từ thế giới sự kiện được miêu tả và tạo
thành giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn trong sự đổi mới thể loại cũng làm mới
giọng điệu, góp phần cách tân nghệ thuật tổ chức truyện kể. Khảo sát giọng điệu
trần thuật chính là để xác định khuôn mặt của nhà văn, bởi giọng điệu là một trong
những yếu tố quan trọng để khu biệt phong cách của mỗi nhà văn.
Không phải ngẫu nhiên mà M.B. Khravchenko từng đưa ra quan điểm tiếp
cận văn học như một “kết cấu các giọng điệu”, như một “hệ thống các ngữ điệu”,
“gam ngữ điệu”[23, tr.26]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Giọng điệu là thái độ,
tình cảm, lập trường, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả trong lời
văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa
gần, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[13, tr.111].
Như vậy, giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong việc xác định phong
cách của một tác giả. Một nhà văn muốn có phong cách riêng nhất thiết phải có một
giọng điệu riêng. Tóm lại, giọng điệu với tư cách là một phạm trù thẩm mĩ, một yếu
tố có vai trò hết sức quan trọng trong cấu thành phong cách của nhà văn.
1.1.5. Ngôn ngữ trần thuật
Như trên đã nói, trần thuật là phần lời của tác giả, của người trần thuật. Ngôn
ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn,
thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm của người kể chuyện đối với cuộc
sống được miêu tả.
Ngôn ngữ trần thuật có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn các
phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ để thể hiện cảm xúc, quan điểm của tác
13

giả. Ngôn ngữ trần thuật là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt
cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.
Ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hoá. Mỗi câu, mỗi chữ trong

tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách giải thích. Nhưng mỗi từ
thì lại phải mang tính chính xác và cá thể hoá. Ngôn ngữ trần thuật còn là ngôn ngữ
đa thanh vì đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi là sự tác động qua lại rất phức tạp giữa
tiếng nói tác giả, người kể chuyện và nhân vật, giữa ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ
được miêu tả.
Ngôn ngữ đa thanh trong trần thuật nhấn mạnh vào ngôn ngữ của người
khác, hướng về một tiếng nói khác; chẳng hạn tiếng nói tác giả hướng về tiếng nói
của nhân vật, hoặc tiếng nói nhân vật trong đó có xen lẫn giọng tác giả, hoặc là
tiếng nói của nhân vật này xen lẫn giọng của nhân vật khác.
Ngoài ra, do đổi mới tư duy nghệ thuật, mở rộng phạm trù thẩm mỹ và cách
tân về thi pháp nên ngôn ngữ trần thuật còn có các tính chất như: tính chất hiện đại
thể hiện ở chỗ ngôn ngữ trần thuật không còn là tiếng nói quyền uy mà trở nên gần
với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết; tính chất văn hoá vùng miền trong ngôn
ngữ trần thuật thể hiện ở chất giọng nhà văn, người trần thuật không những kể
chuyện mà còn chuyển tải những giá trị văn hoá nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ, làm
cho nội dung trần thuật phong phú, đặc trưng.
Nhìn chung, nghệ thuật trần thuật được hiểu một cách đơn giản chính là lời
kể của người trần thuật mà cụ thể hơn chính là tác giả. Việc kể lại có mang cảm
xúc, tâm trạng của từng nhân vật nhưng cũng ẩn sâu bên trong đó là những cái nhìn
của tác giả, những điểm nhìn khác nhau từ nhiều phía để đi đến một việc làm kể lại
vừa tự nhiên vừa gần gũi. Trong trần thuật, cần có sự đan xen, hòa quyện giữa các
yếu tố người kể, điểm nhìn, giọng điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ để tạo thành một chỉnh
thể nghệ thuật.
1.2. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
Sau những năm 1986, nền văn học Việt Nam có những chuyển biến đáng ghi
nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó nổi bật nhất là tiểu thuyết. Trong sự vận động
chung của nền văn học, tiểu thuyết đã và đang nỗ lực đổi mới không ngừng nhằm
14

đáp ứng yêu cầu của thời đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả đương

đại. Không khí dân chủ của môi trường sáng tác đã giúp nhà văn ý thức sâu sắc hơn
về tư cách nghệ sĩ của mình, vượt lên trên những quy định, khuôn khổ truyền thống
mà chính những điều này từ lâu đã trở thành áp lực của người cầm bút. Nhiều tác
giả đã có ý thức cách tân trong cách nhìn và cả lối viết, thay đổi trong nghệ thuật
trần thuật. Qua đó, có nhiều tác phẩm thành công hoặc đang trong quá trình tìm tòi,
thể nghiệm, nhằm hướng đến mục tiêu chung là làm phong phú, hấp dẫn văn
chương nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
Trong những năm tiền đổi mới 1975 - 1985, không thể không kể đến hàng
loạt tiểu thuyết gây nhiều ấn tượng, tạo tiếng vang, đấy cũng như là những tín hiệu
mở ra thời kì tiếp nhận, sáng tạo văn chương hiện đại. Từ Đất trắng (Nguyễn Trọng
Oánh), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy)… đến Cù lao tràm (Nguyễn Mạnh
Tuấn), Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng) đã làm minh chứng cho sự chuyển đổi tư duy sáng tạo cũng như quan niệm
nghệ thuật của nhà văn ở cách nhìn hiện thực và thi pháp thể loại. Trong cao trào
đổi mới từ thời điểm 1986 và những năm tiếp theo, tiểu thuyết thật sự bộc lộ ưu thế
của mình trên con đường đổi mới và dân chủ hóa nội dung nghệ thuật. Với xu
hướng nhìn thẳng vào sự thật, người cầm bút không rụt rè mà mạnh dạn dấn thân
vào hiện thực ở thời điểm hiện tại, đang hình thành, chưa ổn định. Các tác phẩm
mang giá trị nhân văn sâu sắc, những sự việc được trần thuật bóc trần bộ mặt giả tạo
của những cá nhân, của những con người đương thời trong xã hội. Có thể thấy qua
Thời xa vắng (Lê Lựu), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Những
mảnh đời đem trắng (Nguyễn Quang Lập), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người
nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Luật đời cha con
(Nguyễn Bắc Sơn), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân)…
Mặc dù có lúc tưởng chừng như tiểu thuyết rơi vào bế tắc vì sự thờ ơ của độc
giả, nhưng nhờ vào quá trình vận động, sáng tạo của nhà văn mà các tác phẩm vẫn
lần lượt ra đời. Các thế hệ nhà văn hậu chiến vẫn luôn miệt mài sáng tác, tạo nhiều
dư ba trong những trang tự thuật của mình, không ngừng cách tân kĩ thuật tạo nên
những đứa con tinh thần đặc sắc. Nói như Nguyễn Huy Thiệp, giai đoạn này được

15

xem là “thời của tiểu thuyết”, thời của dân chủ hóa trong sáng tạo và tiếp nhận.
Bằng chứng là hàng loạt những tác giả, tác phẩm Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn
(Nguyễn Xuân Khánh), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Người sông Mê (Châu
Diên) xuất hiện và được đánh giá trên văn đàn. “Nhà văn trẻ” Mạc Can vẫn không
thôi làm bạn đọc ngạc nhiên và cảm động với tiểu thuyết đầu tay Tấm ván phóng
dao. Qua nhiều năm tích lũy kinh nghiệm và nếm trải cuộc đời, Bùi Ngọc Tấn một
lần nữa làm nóng dư luận với Chuyện kể năm 2000, Ma Văn Kháng chứng tỏ bút
lực của mình dồi dào hơn trong Ngược dòng nước lũ. Đồng hành cùng với thế hệ
đàn anh đi trước là một đội ngũ hùng hậu mang trong người đầy nhiệt huyết, luôn ý
thức về sự đổi mới trong sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, chấp nhận mạo
hiểm. Người đọc đã quen thuộc với những tiểu thuyết: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài),
Thoạt kỳ thủy, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Trong sương hồng hiện ra, Cõi
người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Đi tìm nhân vật,
Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo),… Thêm vào đó là
những cây bút hải ngoại được bạn đọc trong nước đón nhận nồng nhiệt: Sông Côn
mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Chinatown, Paris 11 tháng 8 (Thuận). Nhà văn
hướng ngòi bút của mình một cách khái quát và cận cảnh hơn hiện thực đời sống
hàng ngày, cái đời thường cuộc sống cá nhân, mạnh dạn nhìn thẳng vào những bi
kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Sức sáng tạo của
các nhà văn trong tác phẩm góp phần làm cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa
dạng hơn, đồng thời tiếng nói về cuộc đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu
sắc điệu và đa nghĩa hơn. Nhìn ở góc độ nghệ thuật trần thuật, tiểu thuyết cách tân ở
một số phương diện: Cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ. Ở phương diện của đề tài,
chúng tôi sẽ chú trọng đến vấn đề sự “chuyển động” của người kể chuyện cũng như
vấn đề lời kể trong tiểu thuyết sau 1986.
Trong giai đoạn kháng chiến 1945 - 1975, tiểu thuyết đạt được vụ mùa bội
thu, gặt được nhiều thành quả đáng kể, đặc biệt trong những năm kháng chiến
chống Mỹ. Văn học mang đậm khuynh hướng sử thi nên cốt truyện dựa trên hình

thức đại tự sự, tập trung thể hiện đời sống và tích cách con người. Để phản ánh
những chủ đề của lịch sử và dân tộc, tiểu thuyết thường xây dựng cốt truyện theo
16

hai hướng đối lập địch - ta, tốt - xấu, cảm hứng chủ đạo nhằm ngợi ca và khẳng
định con người trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Từ sau 1975, văn học chuyển hướng sang vấn đề đời tư, thế sự. Cốt truyện
chứa đựng những tình huống gay cấn như trước đây thưa dần, thay vào đó là những
câu chuyện bình thường, nhỏ nhặt, gây cảm giác như không có chuyện, những yếu
tố tâm linh, những xung đột cá nhân trở thành yếu tố thúc đẩy hình thành cốt truyện.
Sau đổi mới, tiểu thuyết đa dạng hơn trong nội dung phản ánh, phong phú hơn trong
hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách thức dựng truyện. Song song với những cốt
truyện giàu kịch tình là những cốt truyện giàu tâm trạng. Bên cạnh những cốt truyện
có kết cấu rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, kết thúc có hậu, được hoàn tất, trọn vẹn
như truyền thống, cũng có những cốt truyện với cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc
mở bỏ ngỏ, không hoàn kết dựa trên thi pháp hiện đại, vận động thay đổi theo sự
phát triển của thể loại. Trong sự vận động và đổi mới này, một mặt vẫn kế thừa và
phát triển những đặc trưng của cốt truyện truyền thống, mặc khác đã tiếp cận với
tiểu thuyết hiện đại thế giới ở những nét chọn lọc tinh túy. Nghệ thuật đồng hiện, kỹ
thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, sử dụng huyền thoại, nghệ thuật gián
cách, đa giọng điệu là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã được
tiểu thuyết vận dụng, biến hóa một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh thần dân
tộc hiện đại.
Trong đội ngũ sáng tác tiểu thuyết đã có nhiều tác giả cố gắng thay đổi tư
duy tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trên con đường sáng tạo nghệ thuật: Ma Văn
Kháng, Nguyễn Xuân Khánh, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Hồ
Anh Thái, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài… Những cây bút trên cách tân tiểu thuyết
có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại, cốt truyện tự sự thực
sự tan rã. Cấu trúc tác phẩm là những mảnh ghép vụn vặt được chắp vá từ hiện thực
đời sống, câu chuyện không theo trình tự sự kiện trước - sau mà các yếu tố, tình tiết

nhân vật được triển khai theo mạch vận động của cảm xúc, suy tư (Tấm ván phóng
dao - Mạc Can). Tiểu thuyết vừa là tiếng nói của ý thức, vừa là tiếng nói của tiềm
thức, của giấc mơ, thể hiện cái hiện tại đang vận động, chuyển biến, không khép
kín. Bên cạnh đó, xu hướng lắp ghép, tạo dựng các mảnh cốt truyện, các mảnh tâm
trạng không theo trình tự thời gian mà ngổn ngang, đảo ngược theo ý đồ của chính
17

tác giả, tạo ra truyện lồng trong truyện. Thông qua đó, các điểm nhìn được di
chuyển, tư duy nghệ thuật chặt chẽ hơn, thành công qua Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Đi tìm nhân vật (Tạ Duy
Anh)…
Như vậy, cốt truyện trong tiểu thuyết có sự vận động, từ lối trần thuật có cốt
truyện truyền thống thành lối trần thuật dường như không có cốt truyện. Tuy nhiên
phải nhìn nhận cốt truyện không hề biến mất mà co giãn theo cấu trúc của từng tác
phẩm cụ thể. Mỗi chủ thể nhà văn có thể sáng tạo ra nó bằng nhiều hình thức, kiểu
dạng mà mục đích cuối cùng là thể hiện ý đồ nghệ thuật một cách hiệu quả nhất, sâu
sắc nhất.
Song hành với quá trình vận động đổi mới trong nghệ thuật trần thuật, vấn đề
nhân vật luôn là nỗi trăn trở của những người cầm bút. Nhân vật văn học chính là sự
thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Tiểu thuyết ngoài khả
năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội còn có khả năng đi sâu khám
phá số phận con người. Ở giai đoạn 1945 - 1975, do sự chi phối của xã hội, của
chiến tranh, tiểu thuyết tập trung thể hiện con người kháng chiến, con người sống
với cộng đồng, xả thân vì nghĩa lớn, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời khi hòa mình vào tập
thể, không có dịp đối diện với bản thân, sống với chính mình.
Đến giai đoạn đổi mới, vấn đề con người được các nhà văn đặt ra để làm cảm
hứng sáng tác mạnh mẽ. Nhân vật trong tiểu thuyết là những con người với trăm
ngàn mảnh đời khác nhau, mang đầy những vết thương trên thân thể và tâm hồn
(Tấm ván phóng dao - Mạc Can, Dòng sông mía - Đào Thắng). Không những đi
sâu vào thân phận con người mà còn đề cập đến khát vọng sống, về hạnh phúc cá

nhân, về tình yêu đôi lứa. Nhà văn khai thác nhân vật tự nhiên trước nhu cầu hạnh
phúc đời thường, hạnh phúc riêng tư. Trong sáng tác của Lê Lựu, Ma Văn Kháng,
Chu Lai, Nguyễn Khắc Trường, Dạ Ngân, Dương Hướng đã thể hiện được sự gắn
bó giữa sự nghiệp chung với hạnh phúc cá nhân, giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung
của xã hội. Được dân chủ trong tư duy, trong sáng tạo nghệ thuật, các nhà văn
không ngần ngại miêu tả con người bản năng với những tính chất nhục thể, những
điều được xem là cấm kị, riêng tư của cá nhân, song đấy là một khía cạnh mới trong
khía cạnh nhân bản của văn học: Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, Ăn mày dĩ
18

vãng - Chu Lai, Gia đình bé mọn - Dạ Ngân, Mẫu thượng ngàn - Nguyễn Xuân
Khánh… Bên cạnh đó nhà văn còn ý thức đi sâu khám phá thế giới nội tâm nhân
vật, khám phá chiều sâu tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ nhằm nhận diện hình
ảnh con người đích thực. Sự xuất hiện con người tâm linh biểu hiện cho sự đổi mới
về cách nhìn nhận về con người, thoát khỏi kiểu phản ánh hiện thực được hiểu một
cách thông tục như trước. Ngòi bút khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức, khai thác con
người bên trong con người: Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Cõi người rung chuông tận
thế, (Hồ Anh Thái), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân
Khánh)…
Khi xây dựng nhân vật, hơn hết là sự chuyển hướng trong nhận thức, tư duy
về bản thể con người, các nhà văn đã phá vỡ cái nhìn phiến diện, một chiều, tĩnh tại
mà thay vào đó là cái nhìn phức tạp hơn, đa diện hơn và sâu sắc hơn. Nhận diện con
người đích thực với nhiều kiểu dáng nhân vật, biểu hiện phong phú và đa dạng nhu
cầu tự ý thức, sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên, con người tâm linh và con
người xã hội. Trên quan điểm đó, nhà khắc họa chân dung nhân vật tiểu thuyết là
những con người vừa đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ, thánh thiện, luôn khao khát
cái đẹp và hướng đến chân - thiện - mĩ.
Tiểu thuyết thuộc loại hình tự sự nên nghệ thuật trần thuật là một trong
những yếu tố quan trọng trong phương thức biểu hiện, nó còn là yếu tố cơ bản để
tạo nên cá tính sáng tạo của nhà văn. Ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân

vật tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự thông qua đối thoại. Mỗi nhân vật
được nhà văn quan niệm một ý thức, một tiếng nói với vai trò chủ thể độc lập. Nhà
văn và nhân vật có sự hòa nhập, tham gia vào cuộc đối thoại với ý thức độc lập qua
hệ thống hình tượng các nhân vật. Nguyễn Khải được xem là nhà văn thành công
trong việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại, ông sử dụng một cách thuần thục nghệ thuật
trần thuật thông qua đối thoại. Mỗi lời phát ngôn của nhân vật là một đặc điểm tính
cách cụ thể, va đập, cọ xát đầy cá tính như trong Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của
người…
Ý thức đối thoại của tiểu thuyết tiếp tục được triển khai và phát huy hơn
trong quá trình đổi mới. Dấu ấn thời đại đã ảnh hưởng đến cách nói năng, đối đáp,
hình thành nên những lớp từ mới tạo nên những sắc thái biểu cảm khác nhau. Có thể

×