Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp ở việt nam thực trạng và một số kiến nghị 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.32 KB, 63 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Cơng cuộc đổi mới ở nước ta nhằm xây dựng một nền kinh tế hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp. Nền kinh tế Việt Nam đã
phát triển tương đối ổn định và dần chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế. Trong cơ chế mới này, thuế được nhìn nhận là một cơng cụ hữu hiệu của
Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Thuế vừa đáp ứng được nguồn thu cho
ngân sách, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, kích thích đầu tư,
đồng thời góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia khơng thể tự tách mình ra
khỏi đời sống kinh tế thế giới. Hệ thống pháp luật thuế của mỗi quốc gia
không những phải đáp ứng các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước mà địi
hỏi phải có sự tương thích nhất định với hệ thống pháp luật thuế các nước
trong khu vực và quốc tế. Lựa chọn áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) thay thế “thuế lợi tức” là một trong những minh chứng khẳng định
chính sách hội nhập của Nhà nước ta. Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ
chuyển đổi, các quan hệ kinh tế phát triển với tốc độ nhanh chóng. Do đó, hệ
thống pháp luật thuế cần phải thay đổi để phản ánh kịp thời “hơi thở” thời
đại.
Chiến lược phát triển kinh tế năm 2001 - 2010 được nêu trong văn
kiện Đại hội Đảng: “Tạo mơi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho các


doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác để phát triển; tiếp tục cải cách hệ thống
thuế phù hợp theo hướng đơn giản, thống nhất, không phân biệt đầu tư trong
nước, đầu tư nước ngồi, ni dưỡng nguồn thu, hiện đại hố cơng tác thu
thuế của Nhà nước”. Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế TNDN nói
riêng không thể tách riêng khỏi hệ thống pháp luật và địi hỏi chủ trương
hồn thiện của Đảng và Nhà nước. Vì thế, những thay đổi căn bản này sẽ
góp phần đưa cơng cụ thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng trở thành
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển lâu
dài trong thời gian tới ở Việt Nam.
Xét về tỷ lệ doanh nghiệp trên dân số (1000 người dân mới có 1 doanh
nghiệp), nước ta đứng ở vị trí khiêm tốn trong số các nước đang phát triển và
thấp hơn khoảng 20 lần so với các nước phát triển. Chính vì vậy, chỉnh sửa
và bổ sung hệ thống luật pháp để doanh nghiệp phát triển, trong đó có luật
thuế TNDN là rất cần thiết.
Năm 2009, Luật thuế TNDN 2008 bắt đầu có hiệu lực đã minh chứng
cho sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc nắm bắt nhu cầu, mong
muốn của nhân dân ta trong việc thay đổi nội dung thuế TNDN 2003 cho
phù hợp hoàn cảnh hiện tại. Thuế TNDN đang dần phát huy những ưu điểm
của mình trong việc mở rộng phạm vi điều chỉnh, một số điểm quy định đối

tượng nộp thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm…Tuy nhiên, Luật thuế TNDN
2008 có hiệu lực từ 01.01.2009 mới được thi hành một thời gian ngắn nhưng
thực tế đã cho thấy tồn tại những bất cập cần điều chỉnh, thể hiện qua việc
phải ban hành khá nhiều thông tư hướng dẫn gây khó khăn cho việc thực
hiện. Khóa luận Tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và một số kiến nghị” chủ yếu tập trung tìm
ra thực trạng pháp luật thuế TNDN, những hạn chế cần khắc phục, sửa đổi
và kiến nghị một vài giải pháp hoàn thiện cho quá trình áp dụng Luật thuế
TNDN 2008.
2.

Tình hình nghiên cứu

Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở các mức độ khác
nhau về đề tài “pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp”, đặc biệt là về
“thực trạng và giải pháp hoàn thiện”. Tuỳ thuộc vào các giai đoạn khác nhau
của công cuộc phát triển đất nước mà các cơng trình nghiên cứu có những
thành cơng nhất định, góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận và thực tiễn khi
áp dụng thuế TNDN. Song, tính đến thời điểm hiện nay khi Luật thuế TNDN
2008 mới bắt đầu có hiệu lực thì chưa có nghiên cứu nào đề cập chi tiết, đầy
đủ, toàn diện về pháp luật hiện hành so sánh với pháp luật cũ. Ở mức độ
khoá luận tốt nghiệp, Khố luận mong muốn góp phần làm sáng tỏ những
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

2


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam


Pháp luật thuế thu

điểm mới, những bất cập, những vấn đề nổi trội của pháp luật thuế TNDN ở
Việt Nam.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận

Khoá luận nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế TNDN,
những điểm mới của Luật thuế TNDN 2008, thực trạng pháp luật thuế
TNDN ở Việt Nam và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện hơn nữa pháp
luật thuế TNDN.
Xuất phát từ mục đích đó, Khố luận có ba nhiệm vụ là:
- Hệ thống hoá khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của thuế TNDN
nói chung và pháp luật thuế TNDN nói riêng;
- Sau đó, khố luận nêu ra những điểm mới của Luật thuế TNDN
2008, đồng thời phân tích bình luận những ưu, nhược điểm của các chế định
cụ thể của pháp luật thuế TNDN hiện hành, tập trung vào các vấn đề gây
tranh cãi hiện nay và thực tế bộc lộ những hạn chế cần hoàn thiện;
- Cuối cùng, trên cơ sở phân tích những vấn đề của pháp luật thuế
TNDN, Khoá luận đưa ra những ý kiến đóng góp cho việc hồn thiện pháp
luật thuế TNDN cho phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam cũng như xu
hướng chung của thế giới.
4.

Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa Mác
– LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về

sửa đổi Luật thuế TNDN, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp.
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp chính là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, do tính chất bình luận,
phân tích là chủ yếu nên phương pháp nghiên cứu được sử dụng là so sánh,
phân tích, đối chiếu, tổng hợp, thống kê góp phần làm sáng tỏ vấn đề.

Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

3


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

5.

Pháp luật thuế thu

Những đóng góp mới và ý nghĩa của khố luận

Đây là khố luận nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng và
kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, từ
đó góp phần làm rõ bất cập cần khắc phục kèm theo một số kiến nghị sửa
đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế TNDN ở Việt Nam.
6.

Kết cấu của đề tài


Khoá luận gồm có những nội dung chính sau đây:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung:
+ Khái quát chung về thuế TNDN và pháp luật thuế TNDN;
+ Thực trạng pháp luật thuế TNDN tại Việt Nam;
+ Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế TNDN.
- Phần kết luận, tài liệu tham khảo.

Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

4


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

CHƯƠNG I
Khái quát chung về thuế thu nhập doanh nghiệp và
Pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp

1.1 Quá trình hình thành, phát triển thuế TNDN và pháp luật
về thuế TNDN
1.1.1 Sự xuất hiện thuế TNDN trên thế giới
Ở phương Tây, hình thức thuế xuất hiện sớm nhất là ở La Mã cổ đại
dưới dạng “thuế ruộng đất”. Cùng với sự phát triển, những loại thuế và hình
thức thuế phức tạp hơn dần hình thành. Thuế thu nhập là tên gọi để chỉ
những sắc thuế lấy thu nhập làm đối tượng tính thuế và nó xuất hiện rất sớm

trong lịch sử thuế khoá. Mức cao hay thấp, đánh vào tổng thu nhập hay đánh
vào từng khoản thu nhập khác nhau của các chủ thể thường phụ thuộc vào
quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong phân phối thu nhập của
từng nước trong những thời kỳ nhất định. Cách tính tốn cụ thể, thu nhập
chịu thuế, thuế suất hoàn toàn do pháp luật thuế thu nhập của từng nước quy
định. Song, hầu hết các nước đều áp dụng thống nhất hai loại thuế thu nhập
là: thuế TNDN và thuế thu nhập cá nhân.
Mặc dù có sự định danh khác nhau nhưng hầu hết các quốc gia trên
thế giới trong hệ thống pháp luật thuế đều có quy định thứ thuế đánh vào thu
nhập của các doanh nghiệp. Hình thức thuế thu nhập cơng ty được áp dụng
đầu tiên vào năm 1920 ở Đức và Mỹ 1. Ngày nay, thứ thuế này được áp dụng
rộng rãi. Tuy nhiên, Luật của các nước có sự khơng đồng nhất về xác định
phạm vi đối tượng nộp thuế, phạm vi thu nhập chịu thuế và cách đánh thuế
trên mỗi loại thu nhập. Chẳng hạn, Luật thuế thu nhập công ty của Thụy
Điển quy định: “Các công ty, các chủ thể kinh doanh có số vốn từ 50.000
Curon trở lên và có lao động làm th thì được coi là đối tượng nộp thuế thu
Giáo trình Luật thuế Việt Nam, chủ biên TS. Phạm Thị Giang Thu, Trường ĐH Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp 2007.
Phạm Thị Thanh Huyền
5
K50A Khoa Luật ĐHQGHN
1


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

nhập công ty”. Bộ luật thuế thu nhập của Thái Lan quy định: “Đối tượng

nộp thuế thu nhập công ty chỉ bao gồm các công ty và các tổ chức hùn vốn
có tư cách pháp nhân”. Cịn pháp luật Mỹ, Nhật quy định: “Chủ thể kinh
doanh là các tổ chức kinh tế thì phải nộp thuế thu nhập cơng ty”. Từ năm
1973, nước Anh sử dụng hệ thống thuế cơng ty quy đổi, theo đó, các cơng ty
phải nộp thuế thu nhập công ty với mức thuế bằng 35% lợi nhuận dù nó
được chia cho cổ đơng hay giữ lại2.
Pháp luật thuế thu nhập của các nước thường sử dụng dấu hiệu “cư
trú” hay “không cư trú” làm căn cứ xác định các khoản thu nhập chịu thuế.
Đối tượng cư trú phải nộp thuế với các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh ở
cả nước cư trú và cả ngồi nước cư trú. Cịn đối tượng khơng cư trú chỉ phải
nộp thuế với khoản thu nhập phát sinh ở nước sở tại. Tuy nhiên, cách xác
định đối tượng cư trú ở các nước cũng khác nhau. Chẳng hạn, pháp luật Thái
Lan, Inđônêsia quy định doanh nghiệp được coi là cư trú là doanh nghiệp
được thành lập hay hợp nhất tại các nước đó. Pháp luật của Singapore,
Malaysia, Brunei quy định đối tượng cư trú là đối tượng đóng vai trị quản
lý, điều hành đối với tồn bộ hoạt động của đối tượng nộp thuế. Pháp luật
Mỹ, Nhật quy định một công ty được coi là cư trú nếu công ty được thành
lập ở nước đó.
Thuế thu nhập cơng ty ở các nước đều quy định tính thu nhập chịu
thuế trong một khoảng thời gian xác định là năm tài chính. Thu nhập chịu
thuế được tính trên cơ sở là doanh thu trừ chi phí hợp lý cộng với các khoản
thu nhập khác. Đa số các nước đều áp dụng thuế suất thuế thu nhập công ty
theo tỷ lệ phần trăm cố định để đảm bảo công bằng và thuận lợi trong công
tác quản lý thu nộp thuế. Đồng thời, thuế thu nhập cơng ty ở các nước đều có
quy định về chế độ ưu đãi thuế, miễn giảm thuế. Tuy nhiên, do chính sách,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia là khác nhau mà các
nước có sự quy định về ưu đãi thuế cho ngành nghề, lĩnh vực đầu tư khác
nhau.

Từ điển Kinh tế học, Nguyễn Văn Ngọc, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB ĐH Kinh

tế Quốc dân, 2006.
Phạm Thị Thanh Huyền
6
K50A Khoa Luật ĐHQGHN
2


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

Thuế thu nhập công ty tác động lớn đến sự phân phối thu nhập, tiền
lương, tác động đến khả năng khai thác, thu hút vốn đầu tư, tác động tới việc
di chuyển vốn và có thể làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế… nên các Nhà nước
luôn quan tâm và hướng tới việc hoàn thiện loại thuế này.
1.1.2 Sự xuất hiện thuế TNDN ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước năm 1990 có một loại thuế đánh vào thu nhập của
các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là “thuế lợi tức”. Loại thuế này chỉ áp
dụng cho kinh tế ngồi quốc doanh, các doanh nghiệp quốc doanh thì áp
dụng chế độ trích nộp lợi nhuận. Kể từ sau năm 1990, Việt Nam thực hiện
công cuộc cải cách căn bản hệ thống chính sách thuế và Luật thuế lợi tức
mới được ban hành để áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân
kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập thu từ hoạt động kinh
doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Trải qua quá trình áp dụng trong
thực tiễn, Luật thuế lợi tức đã thu được kết quả khả quan hơn so với chế độ
thu cũ. Tuy nhiên, do tình hình xã hội ln có những bước phát triển mới nên
nhiều quy định trong Luật thuế lợi tức cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất
định không phù hợp như quy định về chi phí hợp lý, hợp lệ, quy định về
miễn, giảm thuế3…

Ngày 10/5/1997 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức và có hiệu lực
từ ngày 01/01/1999. Việc ban hành luật thuế TNDN chủ yếu để thực hiện
các mục tiêu như: bao quát và điều tiết tất cả các khoản thu nhập của các cơ
sở kinh doanh, khuyến khích và thu hút đầu tư trong và ngồi nước thơng
qua chế độ ưu đãi về thuế suất, miễn, giảm thuế,…số thu về thuế TNDN tăng
trưởng hàng năm và chiếm tỷ trọng khoảng 25% trong tổng thu thuế và phí.
Thơng qua việc quy định doanh thu, các khoản chi phí hợp lý phải có hố
đơn, chứng từ hợp pháp, Luật thuế TNDN đã thúc đẩy các cơ sở kinh doanh
tăng cường hạch toán kinh doanh, củng cố cơng tác kế tốn, hố đơn, chứng
từ, tiết kiệm chi phí, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hệ
thống hoá tất cả những quy định ưu đãi thuế cho các nhà đầu tư được quy
Giáo trình Luật thuế Việt Nam, chủ biên TS. Phạm Thị Giang Thu, Trường ĐH Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp 2007.
Phạm Thị Thanh Huyền
7
K50A Khoa Luật ĐHQGHN
3


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

định trong các luật khác nhau như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ
luật lao động, Luật thuế lợi tức,…nhằm khắc phục tình trạng tản mạn, chồng
chéo, tạo sự rõ ràng, thống nhất. Với một mức thuế suất chung là 32%, Luật
thuế TNDN 1997 đã tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh doanh trong công
tác hạch toán kế toán, trong việc xác định thu nhập chịu thuế, kê khai, nộp

thuế. Tuy vậy, Luật thuế TNDN 1997 vẫn khơng tránh khỏi việc có những
hạn chế và thiếu sót, chẳng hạn: đối tượng chịu thuế chưa bao quát hết các
khoản thu nhập cần điều tiết cho Ngân sách Nhà nước (NSNN), một số
khoản chi phí chưa được pháp luật quy định hoặc quy định chưa chính xác,
chưa phù hợp với thực tiễn, thuế suất còn cao chưa tạo điều kiện cho cơ sở
kinh doanh tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng, mức thuế suất và ưu đãi thuế
còn phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi,… Điều này dẫn đến tình trạng chi phí khơng được phản ánh đầy
đủ, ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn đầu tư và xác định không đúng nghĩa vụ
thuế với Nhà nước.
Ngày 17/6/2003 Quốc hội thông qua Luật thuế TNDN 2003 và có hiệu
lực thi hành ngày 01/01/2004 thay thế cho Luật thuế TNDN 1997. Luật thuế
TNDN 2003 đã khắc phục một số nhược điểm nêu trên của Luật thuế TNDN
1997, tạo điều kiện cho người nộp thuế và người thu thuế thực hiện đúng
luật, giảm bớt nghĩa vụ đóng góp của các cơ sở kinh doanh, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tích tụ vốn đầu tư phát triển, đồng thời bao quát điều tiết được
hầu hết các khoản thu nhập trong các cơ sở kinh doanh nhằm bảo đảm tăng
nguồn thu cho NSNN và tiến đến việc áp dụng thống nhất thuế TNDN không
phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư khác nhau.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành
viên tổ chức thương mại thế giới WTO, việc sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng là thực sự cần thiết và phù hợp với
xu thế chung của các nước trên thế giới. Đồng thời, thực trạng pháp luật hiện
hành cũng cho thấy các quy định trong Luật thuế TNDN 2003 đã bộc lộ
những hạn chế như thuế suất còn khá cao, ưu đãi thuế quá phức tạp khó xác
định, kiểm tra, thanh tra dẫn đến tiêu cực…vơ hình chung gây ra cản trở
mong muốn thực hiện kế hoạch đầu tư lớn của chủ thể kinh doanh. Sự không
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN


8


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

đồng bộ, thống nhất với pháp luật liên quan như Luật Doanh nghiệp 2005,
Luật Quản lý thuế 2006…Xuất phát từ những nguyên nhân đó, ngày
03/6/2008 Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khố XII đã
thơng qua Luật thuế TNDN 2008, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2009, nhằm
giảm mức thuế suất chung để giúp doanh nghiệp tăng nguồn lực tài chính,
tăng tích luỹ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới cơng nghệ, thiết bị…
chính sách ưu đãi thuế mới sẽ đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn
giữa các doanh nghiệp, thu hút đầu tư. So với Luật thuế TNDN 2003, Luật
mới đã có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Cụ thể, chúng ta sẽ cùng xem xét ở chương 2 của
khoá luận.
1.2

Khái quát về thuế Thu nhập doanh nghiệp

1.2.1 Thu nhập
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về “thu nhập” như: “số lượng
tiền, hàng hoá hoặc dịch vụ mà một cá nhân, công ty hay một nền kinh tế
nhận trong một khoảng thời gian nhất định theo tháng, quý hoặc năm” 4,
“khoản tiền thu được từ việc sở hữu và cung ứng các nhân tố sản xuất trong
một thời kỳ; các khoản tiền thu được từ lao động, tư bản, đất đai và năng lực
kinh doanh là thu nhập từ tiền lương, lãi suất, địa tô và lợi nhuận” 5, hay “thu

nhập được hiểu là tổng các giá trị mà một chủ thể nào đó trong nền kinh tế
xã hội nhận được, thu được thơng qua q trình phân phối thu nhập quốc dân
trong một thời hạn nhất định, không phân biệt nguồn gốc hình thành từ bất
động sản, từ tài sản hay đầu tư”6 .
Xét về khía cạnh kinh tế, thu nhập là chỉ một bộ phận tài sản tăng
thêm trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, thu nhập luôn gắn với một

Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 4, NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội 2005, Hội đồng
quốc gia chỉ đạo biên soạn.
4

Từ điển Kinh tế học, Nguyễn Văn Ngọc, trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB ĐH Kinh
tế Quốc dân, 2006.
5

Theo giáo trình Thuế, Trường Đại học Tài chính - kế tốn Hà Nội.
Phạm Thị Thanh Huyền
9
K50A Khoa Luật ĐHQGHN
6


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

chủ thể nhất định như: thu nhập của một cá nhân, thu nhập của một doanh
nghiệp, thu nhập của một quốc gia…
Xét về khía cạnh pháp lý, khơng phải toàn bộ thu nhập phải chịu thuế

mà thu nhập chịu thuế là thu nhập thực tế phát sinh, tức là thu nhập nhận
được sau khi đã trừ đi các chi phí.
Như vậy, có thể hiểu thu nhập là các khoản tiền hoặc vật chất mà các
thể nhân hoặc pháp nhân nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ hoặc từ các hành vi hợp pháp khác.
1.2.2 Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập
thực tế của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Thuế trực thu là loại thuế động viên, điều tiết vào thu nhập của người
chịu thuế. Đối tượng nộp thuế phải có thu nhập chịu thuế; thu nhập càng cao
thì đóng thuế càng nhiều. Trong thuế trực thu, người có nghĩa vụ nộp thuế
đồng thời là người chịu thuế trên thu nhập mà mình được hưởng. Chính vì
vậy, thuế trực thu khơng được tính vào cơ cấu giá thành hàng hố dịch vụ và
khơng được trừ vào chi phí khi tính lợi tức chịu thuế (thu nhập chịu thuế) của
cơ sở sản xuất kinh doanh.
Thuế thu nhập công ty là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của cơ
sở kinh doanh trong kỳ tính thuế. Theo Từ điển Kinh tế học (Nguyễn Văn
Ngọc, NXB ĐH Kinh tế Quốc dân 2006) định nghĩa: “Thuế thu nhập công
ty là thuế đánh vào thu nhập của các cơng ty sau khi đã trừ chi phí kinh
doanh, lãi suất, chi phí khấu hao và các khoản được phép khấu trừ khác (ví
dụ phần giảm thuế cho cổ tức chia cho cổ đơng)”. Tuy nhiên, luật các nước
khơng có sự đồng nhất trong việc xác định phạm vi đối tượng nộp thuế.
Chẳng hạn, Luật thuế thu nhập công ty của Thụy Điển quy định: “Các công
ty, các chủ thể kinh doanh có số vốn từ 50.000 Curon trở lên và có lao động
làm th thì được coi là đối tượng nộp thuế thu nhập cơng ty”. Cịn Bộ luật
thuế thu nhập của Thái Lan quy định: “Đối tượng nộp thuế thu nhập công ty
chỉ bao gồm các công ty và các tổ chức hùn vốn có tư cách pháp nhân”. Pháp
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN


1
0


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

luật Mỹ, Nhật quy định: “Chủ thể kinh doanh là các tổ chức kinh tế thì phải
nộp thuế thu nhập cơng ty”. Trong khi đó, pháp luật thuế TNDN của Việt
Nam lại quy định đối tượng nộp thuế TNDN là tổ chức hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật
thuế TNDN 2008.
Đặc điểm
- Là loại thuế thu nhập nên thuế TNDN mang đầy đủ đặc điểm của
thuế thu nhập thơng thường.
Thứ nhất, thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập
Trong hệ thống thuế ở các nước, có nhiều loại thuế khác nhau, có đối
tượng tính thuế, đối tượng nộp thuế khác nhau, nhưng suy đến cùng thì bất
kỳ loại thuế nào cũng đều lấy từ thu nhập của người dân trong xã hội để tập
trung vào quỹ NSNN. Tuy nhiên, không phải loại thuế nào cũng là thuế thu
nhập. Thuế thu nhập khác với thuế tiêu dùng, thuế tài sản ở chỗ: thuế thu
nhập là loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của các cơ sở sản xuất
kinh doanh khi có thu nhập chịu thuế phát sinh. Đối với thuế tiêu dùng là
loại thuế gián thu đánh vào việc sử dụng thu nhập của người dân, thông qua
việc người dân sử dụng thu nhập để mua hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng, phần
thu nhập mà Nhà nước lấy đi của họ được cộng vào trong giá bán của hàng
hố, dịch vụ. Vì thế, người chịu thuế, người nộp thuế là không đồng nhất
(người tiêu dùng là người chịu thuế, người kinh doanh hàng hoá, cung ứng

dịch vụ là người nộp thuế). Đối với thuế tài sản là loại thuế đánh vào thu
nhập tích luỹ đã được vật hố dưới dạng tài sản của tổ chức, cá nhân trong xã
hội. Về bản chất, thuế tài sản cũng là thuế trực thu nhưng có đối tượng đánh
thuế là tài sản. Mặc dù, tài sản và thu nhập đều là của cải của một chủ thể có
được nhờ những nguồn lợi thu được từ các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên,
giữa chúng cũng có sự khác nhau, cụ thể: tài sản là khối lượng của cải của
một chủ thể ở một thời điểm nào đó, còn thu nhập là số của cải thu được của
một chủ thể trong khoảng thời gian nhất định. Như vậy, thu nhập của một
thời kỳ sẽ không bao gồm thu nhập ở thời kỳ trước, còn tài sản lúc cuối kỳ
thì bao gồm tất cả các thu nhập của các kỳ trước đó cộng lại. Vì vậy, khái
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
1


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

niệm “tài sản” phải gắn với yếu tố thời điểm, còn khái niệm “thu nhập” gắn
với yếu tố khoảng thời gian nhất định;
Thứ hai, thuế TNDN là thuế trực thu, ngồi mục tiêu tạo nguồn thu
cho NSNN, nó cịn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hồ thu nhập xã hội
nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Bởi vậy,
pháp luật thuế thu nhập ở các nước thường có những quy định về chế độ ưu
đãi, miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến khích của thuế thu nhập
hoặc thực hiện việc áp dụng đánh thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần đối

với một số khoản thu nhập chịu thuế để thực hiện các mục tiêu điều tiết;
Thứ ba, thuế thu nhập là một loại thuế phức tạp, có tính ổn định không
cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý thuế
thường lớn hơn so với các thuế khác. Đối với thuế thu nhập, ngồi việc xác
định các khoản thu nhập chịu thuế cịn phải xác định nguồn gốc thu nhập, địa
điểm phát sinh thu nhập, thời hạn cư trú của chủ sở hữu thu nhập, tính ổn
định của thu nhập… Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định
được các khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi tính thuế nhằm bảo
đảm mục tiêu cơng bằng và khuyến khích đối với đối tượng nộp thuế;
Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập bao gồm các văn
bản QPPL thuế quốc gia và văn bản QPPL thuế quốc tế. Bởi thuế thu nhập là
thuế trực thu nên nó có thể là đối tượng được điều chỉnh bởi hiệp định tránh
đánh thuế hai lần.
- Bên cạnh đó, thuế TNDN cũng mang đặc điểm riêng của loại thu
nhập doanh nghiệp dưới góc độ phân biệt với thuế thu nhập cá nhân như về
đối tượng nộp thuế là tổ chức sản xuất kinh doanh sản xuất hàng hoá, dịch
vụ; về thu nhập bị đánh thuế; về cách tính thuế tính đến yếu tố như doanh
thu, chi phí, về ưu đãi thuế…
1.3

Pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp

1.3.1 Khái niệm

Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
2



Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

Pháp luật về thuế TNDN là một bộ phận của pháp luật thuế nói riêng
và hệ thống pháp luật nói chung. Pháp luật về thuế TNDN là tập hợp các
quy phạm pháp luật thuế do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế TNDN.
Quy phạm pháp luật (QPPL) thuế được hiểu là những quy tắc xử sự
chung do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và đảm bảo thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế phát
triển theo một định hướng nhất định. Căn cứ vào nội dung các quan hệ xã hội
mà các quy phạm đó điều chỉnh, có thể phân chia QPPL về thuế thành 3
nhóm sau:
Nhóm 1 : bao gồm các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các đối tượng nộp thuế nộp thuế vào NSNN. Đó là các quy
phạm quy định đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, thuế suất, căn cứ
tính thuế, phương pháp tính thuế, cách thức, thời hạn và thủ tục nộp thuế.
Đây là bộ phận quy phạm chủ yếu, giữ vai trị quan trọng hàng đầu trong
pháp luật thuế;
Nhóm 2 : bao gồm các QPPL quy định về khen thưởng, xử phạt, giải
quyết các khiếu nại, tranh chấp phát sinh;
Nhóm 3 : bao gồm các QPPL xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và tổ chức của các cơ quan thuế.
Pháp luật về thuế TNDN là công cụ hữu hiệu của Nhà nước để huy
động nguồn thu cho ngân sách. Bên cạnh đó, pháp luật về thuế TNDN cịn
đóng vai trị là cơng cụ điều tiết vĩ mơ nền kinh tế của Nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hố và thực

hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng
của xã hội. Đối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần
khuyến khích ngồi các quy định chung, pháp luật thuế TNDN cịn có các
quy định về ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài
chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Việc điều tiết thu
nhập của các đối tượng nộp thuế nhằm thực hiện việc phân phối một cách
công bằng hợp lý nguồn thu nhập nhận được trong nền kinh tế thị trường.
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
3


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

Chủ thể:
Quan hệ pháp luật thuế TNDN là quan hệ thu, nộp thuế phát sinh giữa
Nhà nước với các tổ chức, cá nhân kinh doanh (cơ sở kinh doanh) có thu
nhập, được các QPPL thuế TNDN điều chỉnh.
Do quan hệ pháp luật thuế TNDN là loại quan hệ pháp luật thuế cụ
thể, nên cơ cấu chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế này xác định cụ thể bao
gồm hai loại chủ thể sau :
Thứ nhất, chủ thể thực hiện quyền thu thuế.
Trong quan hệ pháp luật thuế TNDN, chủ thể được nhân danh Nhà
nước thực hiện quyền thu thuế TNDN đối với đối tượng nộp thuế chỉ là cơ
quan thuế các cấp (do là loại thuế nội địa và hoạt động tạo ra thu nhập của

đối tượng nộp thuế khơng bị giới hạn bởi địa giới hành chính). Đây là điểm
khác biệt với quan hệ pháp luật thuế khác như thuế xuất nhập khẩu, thuế giá
trị gia tăng, thuế sử dụng đất…
Thứ hai, chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TNDN.
Tại Điều 2 Luật thuế TNDN 2008 quy định: Người nộp thuế TNDN là
tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hố, dịch vụ có thu nhập chịu
thuế (gọi là doanh nghiệp) bao gồm: doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của pháp luật Việt Nam; doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của pháp luật nước ngồi có cơ sở thường trú hoặc khơng có cơ sở thường
trú tại Việt Nam; tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã; đơn vị sự
nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; tổ chức khác
có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
Mục đích:
- Tạo cho Nhà nước một khoản thu gắn với hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nói riêng và của tồn nền kinh tế nói chung;
- Bao qt và điều tiết được các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát
sinh của cơ sở kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường;
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
4


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

- Thông qua ưu đãi về thuế suất, về miễn thuế, giảm thuế, khuyến

khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Việt Nam;
- Tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh,
phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và trong tiến
trình hội nhập ở nước ta hiện nay.
1.3.2 Vai trò
- Pháp luật thuế TNDN tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thu thuế
của Nhà nước đối với chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Nói cách khác,
pháp luật thuế TNDN nội luật hố quyền đánh thuế theo lãnh thổ của quốc
gia đặc biệt là quyền thu thuế đối với các chủ thể kinh doanh nước ngoài,
đồng thời là căn cứ pháp lý rõ ràng, thống nhất và duy nhất cho hoạt động
liên quan đến thuế TNDN của cơ quan thuế như truy thu thuế, ấn định số
thuế, thanh tra, kiểm tra…
- Pháp luật thuế TNDN bảo đảm sự ổn định nguồn thu và năng lực tài
chính cho ngân sách quốc gia. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách
quốc gia, trong đó nguồn thu thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai
trị chủ đạo trong việc duy trì và phát triển ngân sách quốc gia. Thuế được
thu đều đặn theo kỳ tính thuế: thu thuế như thế nào, khoản nào bị đánh thuế,
thời hạn nộp thuế ra sao… tất cả vấn đề đó được quy định cụ thể trong Luật
thuế TNDN. Do vậy, pháp luật thuế TNDN tạo sự ổn định, đều đặn cho
nguồn thu này.
- Pháp luật thuế TNDN là công cụ pháp lý của chủ thể kinh doanh để
tự vệ trước sự tuỳ tiện của cơ quan công quyền và là yếu tố tác động đến quá
trình hoạch định chiến lược kinh doanh. Thật vậy, thuế là vấn đề nhạy cảm
đối với xã hội, nhạy cảm với “lợi ích” của người dân mà ở đây là chủ thể
kinh doanh và “lợi ích” của Nhà nước, do vậy xu hướng tất yếu Nhà nước
muốn thu càng nhiều thuế càng tốt và dân càng đóng ít thuế càng mừng. Xu
hướng vi phạm dễ xảy ra ở phía cơng quyền hơn bởi lợi thế của bộ máy
cưỡng chế. Lúc này, Luật thuế TNDN sẽ tạo ranh giới mềm để các chủ thể
liên quan chỉ được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong luật định, khi
một bên vi phạm ranh giới này bên kia lập tức có quyền tự vệ theo những

Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
5


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

cách thức nhất định. Với địa vị yếu thế so với công quyền, pháp luật thuế
TNDN là công cụ tuyệt vời của chủ thể kinh doanh để tự vệ, cũng như ngăn
ngừa sự vi phạm của công quyền. Đồng thời, khi thực hiện bất cứ một hành
vi kinh doanh nào thì thuế là mối quan tâm hàng đầu tác động đến quyết định
đầu tư của chủ thể kinh doanh. Chính sách thuế của quốc gia đó như thế nào
thì chỉ có tìm được từ một nguồn chính thống duy nhất là pháp luật thuế
TNDN.
- Pháp luật thuế TNDN được sử dụng như một công cụ điều tiết nền
kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật. Do vậy, pháp luật thuế TNDN thể hiện quan điểm, đường lối của Nhà
nước đối với việc thu thuế. Những mục đích gián tiếp đằng sau quan điểm
đánh thuế của Nhà nước chính là hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội. Hệ
thống pháp luật thuế TNDN cũng là định hướng của Nhà nước đối với cơ
cấu kinh tế, lĩnh vực địa bàn cần đầu tư để phát triển đồng đều, bền vững nền
kinh tế quốc gia.
- Pháp luật thuế TNDN cũng là công cụ để Nhà nước gián tiếp kiểm
tra tính lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh. Khi được xác định là đối tượng nộp thuế, các chủ thể kinh doanh phải

thực hiện một loạt thủ tục nhất định, tuân theo các nguyên tắc luật định, đặc
biệt là các quy định liên quan trực tiếp đến cơng khai tài chính doanh nghiệp,
các chế độ hố đơn chứng từ của các khoản chi phí. Cơ quan thuế và đối
tượng nộp thuế cũng phải thường xuyên “liên lạc”, nắm bắt kịp thời thay đổi
bất thường trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, gián tiếp cơ quan Nhà nước
đã có thơng tin tương đối chính xác và đầy đủ về tài chính doanh nghiệp của
chủ thể kinh doanh.
Có thể thấy rằng, thuế TNDN ra đời thay thế thuế Lợi tức là bước tiến
của xã hội hiện đại. Sau khi xuất hiện, pháp luật thuế TNDN đã khẳng định
được vị trí của một sắc thuế trực thu trên bình diện rộng. Pháp luật thuế
TNDN giữ vị trí quan trọng trong hệ thống văn bản pháp luật thuế ở nước ta
hiện nay. Lịch sử phát triển của pháp luật thuế TNDN cho thấy quan điểm
của Đảng và Nhà nước càng ngày càng tiến bộ theo hướng giảm dần sự phân
biệt giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa kinh tế tư nhân và kinh tế
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
6


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

nhà nước. Đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Nhà nước khi thiết
kế quy định theo xu hướng chung thế giới và các hiệp định về thuế đã ký kết,
gia nhập. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đang phát triển, điều kiện
cho việc áp dụng chưa thực sự lý tưởng nhưng với đường lối lãnh đạo của

Đảng, sự nỗ lực của Nhà nước và tồn xã hội thì việc thực hiện thuế TNDN
đã và đang kích thích, thu hút đầu tư rất lớn. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu,
chỉnh lý cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.

Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
7


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

CHƯƠNG II
Thực trạng pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật thuế TNDN mới được Quốc hội thông qua vào đầu tháng 6 vừa
qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009 sẽ giảm mức thuế suất chung để
giúp doanh nghiệp tăng nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị… So với Luật thuế TNDN 2003,
Luật mới sửa đổi, bổ sung đã có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể, Luật thuế TNDN
năm 2008 có một số điểm mới như sau:
2.1

Đối tượng nộp thuế (ĐTNT)

Theo Luật thuế TNDN 2008, tại khoản 1 Điều 2 quy định:

Người nộp thuế TNDN là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế.
Như vậy, đối tượng nộp thuế TNDN trong Luật thuế TNDN 2008 chỉ
còn là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức được lập
theo luật Hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp được thành lập hợp pháp ở Việt
Nam và tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng dẫn của
Chính phủ. Cụ thể:
- Doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam;
- Doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật nước ngồi có cơ sở
thường trú hoặc khơng có cơ sở thường trú tại Việt Nam;
- Tổ chức được thành lập theo luật Hợp tác xã;
- Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam;
- Tổ chức khác có hoạt động sản xuất kinh doanh, có thu nhập;

Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
8


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

- Trang trại thuộc về cá nhân thuộc diện điều chỉnh của luật thuế
TNCN nhưng nếu thuộc về hợp tác xã hoặc doanh nghiệp thì nộp thuế theo
Luật thuế TNDN, dù khơng có tên gọi doanh nghiệp nhưng nếu là tổ chức thì

nộp thuế TNDN;
- Doanh nghiệp tư nhân nộp thuế TNDN, chủ doanh nghiệp không
phải nộp thuế đối với thu nhập từ kinh doanh sau khi doanh nghiệp của họ đã
nộp thuế TNDN.
Riêng đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế TNDN sẽ
được chuyển sang nộp thuế theo Luật thuế Thu nhập cá nhân cũng có hiệu
lực thi hành từ 01-01-2009.
Đối tượng nộp thuế TNDN được hiểu là tổ chức có nghĩa vụ đóng thuế
TNDN trực tiếp cho cơ quan Nhà nước – cơ quan thuế theo những điều kiện
được quy định trong một sắc thuế. ĐTNT là một trong chủ thể của quan hệ
pháp luật thuế TNDN. Như vậy, Luật thuế TNDN 2008 mở rộng phạm vi
điều chỉnh nhằm chuyển đối tượng cá nhân kinh doanh sang nộp thuế thu
nhập cá nhân là rất hợp lý, phù hợp với tên gọi của sắc thuế đồng thời tránh
xung đột pháp luật với luật liên quan. Bởi trong Luật doanh nghiệp 2005 tại
khoản 1 Điều 4 về giải thích từ ngữ thì “doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh
doanh” và xuyên suốt 172 điều luật của LDN 2005 khơng có một điều khoản
nào đề cập đến cá nhân kinh doanh. Hơn nữa, pháp luật của các nước trên thế
giới cũng không quy định về cá nhân kinh doanh là ĐTNT của luật thuế
TNDN, chẳng hạn như Đài Loan chỉ có một đạo luật thuế duy nhất cho tất cả
các chủ thể với tên gọi là “thuế thu nhập” tức là cá nhân kinh doanh và
doanh nghiệp đều thuộc đối tượng điều chỉnh của sắc thuế này. Trung Quốc,
Anh, Đức, Pháp thì phân chia giữa TNDN và TNCN thuộc hai loại sắc thuế
riêng biệt là “thuế TNCN, thuế TNDN hay thuế thu nhập công ty”. Mỗi cách
thức quy định có ưu, nhược điểm riêng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và
quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia, song đều phải đảm bảo nguyên tắc tên
gọi phải thống nhất với đối tượng điều chỉnh để tránh xâm phạm quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Tại Luật thuế TNDN 2003
Phạm Thị Thanh Huyền

K50A Khoa Luật ĐHQGHN

1
9


Khóa luận tốt nghiệp
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Pháp luật thuế thu

chúng ta có quy định về cá nhân kinh doanh cũng thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật thuế TNDN 2003 nhưng đến Luật thuế TNDN 2008 thì đã có sự
sửa đổi. Bên cạnh đó, chúng ta cũng bỏ cách liệt kê loại hình doanh nghiệp
theo cách giải thích tại khoản 1 Điều 3 Luật thuế TNDN 2003 vì khơng cần
thiết và không đầy đủ. Phương pháp liệt kê theo loại hình tổ chức kinh doanh
như vậy chỉ có ý nghĩa khi chưa có một cách hiểu thống nhất và chưa có quy
phạm thống nhất về các loại hình doanh nghiệp, nhưng trong LDN 2005 đã
quy định rõ ràng về các loại hình doanh nghiệp nên sự điều chỉnh trong Luật
thuế TNDN 2008 thực sự là cần thiết.
Theo Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TNDN
2008 thì doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật Việt Nam, cụ thể là theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp Nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật đầu tư, Luật
các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khốn, Luật
Dầu khí, Luật Thương mại, và quy định tại các văn bản pháp luật khác dưới
các hình thức: cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân, công ty Nhà nước, các bên trong hợp đồng hợp
tác kinh doanh, các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí

nghiệp liên doanh dầu khí, cơng ty điều hành chung.
Có thể thấy đặc trưng của chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế là có tư cách
pháp nhân, có thu nhập và có tích lũy trong doanh nghiệp hoặc tổ chức. Có
những chủ thể tuy khơng có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân
nhưng có nghĩa vụ kê khai nộp thuế TNDN và có quyền trích lập các quỹ.
Về quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật thuế TNDN 2008: “cơ sở thường
trú” của doanh nghiệp nước ngoài. Đây là quy định khá quan trọng trong
việc xác định nghĩa vụ đóng thuế của doanh nghiệp nước ngồi khi kinh
doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, cơ sở thường trú của doanh nghiệp
nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh
nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh
doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập. Định nghĩa tại khoản 3 Điều 2 Luật
thuế TNDN 2008 vừa diễn giải, vừa liệt kê các loại hình được coi là cơ sở
Phạm Thị Thanh Huyền
K50A Khoa Luật ĐHQGHN

2
0



×