Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đề tài thiết kế quá trình đọc - hiểu văn bản để tăng cường hiệu quả giờ dạy văn ở lớp 9 thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.51 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Giáo án là một công cụ, phương tiện không thể thiếu của người giáo viên
khi lên lớp. Thế nhưng trên thực tế vẫn có những giáo viên nghĩ rằng: sách
tham khảo, sácg giáo viên, sách thiết kế bài giảng... nhiều, nên không cần coi
trọng khâu soạn bài, giáo án lên lớp chỉ là hình thức. Theo tơi thì ngược lại.
Người GV lên lớp dứt khốt phải có giáo án - giáo án do chính bản thân người
thầy soạn thảo. Bởi giáo án khơng chỉ chứa đựng kiến thức, mà nó cịn thể hiện
sự lựa chọn kiến thức. Ngồi ra, nó cịn chứa sự nghiên cứu, tìm tịi, suy nghĩ
của giáo viên (GV) về những phương pháp, biện pháp, những gợi ý, định
hướng dẫn dắt học sinh (HS)... trong quá trình dạy - học một cách đầy đủ, trọn
vẹn và hệ thống nhất. Giáo án là sự thể hiện kế hoạch hố q trình giảng dạy
của GV trên lớp. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về vai trò của giáo án là rất
quan trọng và cần thiết đối với người GV, đặc biệt là GV dạy Ngữ văn, nhằm
nâng cao hiệu quả giờ dạy trên lớp. Thông qua giáo án, ta dễ dàng thấy rõ năng
lực, trình độ của người soạn: người ấy đã thành thạo đến đâu, còn lúng túng ở
khâu nào, phần nào trong quá trình lên lớp ở một bài cụ thể. Có thể nói: giáo
án là một phương tiện giao tiếp để đánh giá người dạy.
Ngồi ra, để có giờ dạy văn tốt theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học, người GV phải vất vả hơn nhiều trong việc thiết kế và điều hành giờ Đọc Hiểu văn bản. Mỗi GV chúng ta khơng ai muốn mình chỉ có một giờ dạy tốt,
mà ai cũng muốn rằng tất cả các giờ lên lớp của mình đều thành cơng và đó là
một sự cố gắng rất lớn. Chính GV phải thực sự chủ động, sáng tạo thì mới có
thể khơi dậy được sự hoạt động tích cực, sáng tạo của mọi HS trong lớp. Bởi vì
mỗi tác phẩm văn chương được lựa chọn đưa vào chương trình học đều là một
sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Mỗi cá nhân HS lại là một chủ thể tiếp nhận cá
biệt, nên sự áp đặt cách hiểu, cách cảm nhận của GV với HS là chưa đúng với
bản chất dạy và học. Như vậy, để có giờ Đọc - Hiểu văn bản theo đúng tinh
thần đổi mới

1




phương pháp dạy học, GV phải chuẩn bị chu đáo hoàn chỉnh một thiết kế giờ
dạy
trong giáo án trước khi lên lớp.
Xuất phát từ những lý do trên, sau một thời gian suy nghĩ, tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài: "Thiết kế quá trình Đọc - Hiểu văn bản để tăng cường hiệu
quả giờ dạy văn ở lớp 9 THCS (Qua tác phẩm "Mùa xuân nho nhỏ" của
Thanh Hải)", với mong muốn vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã học
tập và tích luỹ được vào thực tiễn giảng dạy phần Đọc - Hiểu văn bản trong bộ
môn Ngữ văn ở lớp 9 bậc THCS.
II. YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:

Trong thời gian và phạm vi giới hạn, tơi mong muốn đề tài phải làm rõ
được q trình thiết kế cho giờ Đọc - Hiểu văn bản trong bộ môn Ngữ văn lớp
9, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
THCS. Cũng qua đề tài này, tôi muốn cụ thể hoá một bản thiết kế như đã nêu
lý do ở trên với một tác phẩm văn chương cụ thể để từng bước đạt được hiệu
quả cao nhất trong tiết Đọc - Hiểu văn bản văn chương.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Để giải quyết có kết quả yêu cầu, nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, tôi đã sử
dụng một số phương pháp lý luận như: thống kê, phân loại, phân tích, so sánh
và tổng hợp...; cùng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: quan sát, điều
tra... kết hợp với việc trải nghiệm thực tế giảng dạy.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU:

- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp mình giảng dạy (Lớp 9A1).
- Địa bàn nghiên cứu: Trường THCS Chất lượng cao Dương Phúc
Tư - Huyện: Văn Lâm - Tỉnh: Hưng Yên.

*
*

*

2


PHẦN NỘI DUNG
A. QUAN NIỆM VỀ SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA GIÁO ÁN
GIẢNG DẠY VÀ THIẾT KẾ GIẢNG DẠY:
I. GIÁO ÁN:

- Giáo án là sự thể hiện mục tiêu cần đạt của từng bài dạy, từng giờ dạy
tác phẩm cụ thể, đó là nội dung tư tưởng mà giờ lên lớp cần mang lại cho HS,
hay nói khác đi là phần nội dung GV phải truyền đạt đến HS thơng qua bài
học. Trong giáo án cịn thể hiện những yêu cầu của tác phẩm văn chương mà
bài dạy cần đạt được. Đó là việc làm của GV để HS nắm được, hiểu được và
giáo dục cho HS tư tưởng tình cảm nào đó. Trong giáo án, u cầu cịn là quá
trình hướng dẫn cần đạt để HS rèn luyện thông qua bài học.
- Giáo án Đọc - Hiểu văn bản là sự thể hiện những kiến thức cơ bản,
kiến thức trọng tâm của tác phẩm văn học mà giờ học mang đến, và nó cũng là
sự phân định phương pháp dạy học trong giờ Đọc - Hiểu văn bản ấy.
II. THIẾT KẾ GIỜ DẠY:

Nói đến thiết kế giờ dạy ta chú ý đến việc làm của GV trên lớp, chia ra
từng "hoạt động một", "hoạt động hai"... khi GV cùng HS làm việc trên lớp.
Thiết kế giờ dạy chú ý đến từng chi tiết, từng thao tác cụ thể mà người GV sẽ
thể hiện trên lớp. Đó là lao động chuẩn bị được nâng lên một bước toàn diện về
giáo án.

Ta có thể thấy rõ sự khác nhau giữa giáo án và thiết kế giảng dạy trong
giờ
Đọc - Hiểu văn bản như sau:
Giáo án giờ dạy:
- Chỉ chú ý đến hoạt động làm việc

Thiết kế giờ dạy:
- Thể hiện các hoạt động của cả thầy

của người thầy và một vài định hướng lẫn trị, đó là hoạt động song phương
của trò.

đối thoại cùng tác phẩm.

3


- Kiến thức trong giáo án là kiến

- Thiết kế đặt ra những tình huống

thức tĩnh.

có thể xẩy ra trong giờ học, tận dụng
vốn kiến thức của HS để phục vụ giờ
dạy của GV. HS có thể thoải mái
trong giờ học văn, GV tơn trọng
những phát hiện của trị, chú ý đến
tiềm lực và khả năng sáng tạo của HS


trong giờ học.
- Giáo án tập trung chủ yếu vào hai
- Thiết kế vẫn lưu ý đến hai nguồn
nguồn kiến thức, đó là kiến thức trong kiến thức: ở SGK và ở người thầy.
SGK (Tác phẩm văn chương) và kiến Nhưng ngồi ra nó cịn chú ý đi sâu
thức vốn có của người thầy.

khai thác cả nguồn kiến thức tiềm tàng

trong HS.
* Tóm lại: Thiết kế là để "làm" cịn giáo án là để "nhìn" lao động của
GV trên lớp. Thiết kế khơng hồn tồn giống với giáo án. Bởi để HS làm được
một thì người GV phải chuẩn bị được mười, được trăm - đó mới là thiết kế giờ
dạy.
B. THIẾT KẾ THỬ NGHIỆM QUÁ TRÌNH DẠY HỌC MỘT TÁC
PHẨM VĂN CHƯƠNG:
PHẦN THỨ NHẤT: QUY TRÌNH TIẾN HÀNH MỘT GIỜ ĐỌC - HIỂU
VĂN BẢN:
I. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ (Soạn giáo án):

GV xác định những nội dung và kỹ năng cơ bản của bài giảng, nắm
được trình độ HS, từ đó dự kiến các phương pháp dạy - học nhằm tổ chức hoạt
động học tập của HS theo hướng chủ động, tích cực.
II. HOẠT ĐỘNG TRÊN LỚP:

Bước 1: GV hướng dẫn HS đọc tác phẩm, giải nghĩa văn bản.
- Đối với học sinh THCS, năng lực cảm thụ văn học chưa có định hướng
ổn định; vốn kiến thức ngơn ngữ, đặc biệt là các từ khó hiểu như từ Hán Việt,
từ cổ, thuật ngữ ... còn hạn chế, nên hoạt động này rất quan trọng.


4


- Tuỳ theo dộ dài ngắn và thể loại của văn bản mà cho HS đọc từng phần
hay toàn bộ. Yêu cầu chung của bước này là qua âm vang ngơn ngữ, giúp HS
có thể phần nào hiểu và cảm nhận được âm hưởng chung bao trùm tác phẩm,
giúp các em thâm nhập vào thế giới hình tượng và mạch cảm xúc của văn bản.
Bước 2: GV hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản.
Ta có thể chia bước này thành những bước nhỏ sau:
- Tìm hiểu hồn cảnh ra đời của văn bản:
Tức là xem xét tác phẩm nằm ở vị trí nào trong sự nghiệp sáng tác của
tác giả, trong trào lưu văn học, giai đoạn văn học, giai đoạn lịch sử... nào (đây
là những vấn đề có ý nghĩa và liên quan trực tiếp tới sự ra đời của tác phẩm).
- Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
GV hướng dẫn HS tìm hiểu bằng cách tổ chức dẫn dắt, nêu vấn đề và
hướng giải quyết vấn đề. Ơ đây, hệ thống câu hỏi đóng vai trị hết sức quan
trọng. Vấn đề cần quan tâm là: hỏi gì? hỏi như thế nào? hỏi lúc nào?... Cũng
như việc sử dụng kết hợp các phương pháp, phương tiện dạy học như thế nào
cho đúng lúc, đúng chỗ để tạo nên hiệu quả cao cho giờ Đọc - Hiểu văn bản.
Yêu cầu chung của bước này là GV phải tổ chức dẫn dắt HS chủ động,
tích cực học tập, tìm hiểu thâm nhập văn bản, tạo cho các em được suy nghĩ,
được hoạt động, được nói nhiều hơn, tránh sự tích cực giả tạo hay học tập thụ
động trong các giờ dạy - học văn.
Bước 3: GV hướng dẫn HS luyện tập, củng cố, nâng cao sự
hiểu biết và cảm nhận về các giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm.
Đây là hoạt động không thể thiếu trong giờ Đọc - Hiểu văn bản ở trường
THCS, vì khả năng khái quát, tổng hợp của các em còn hạn chế. Hiện nay, hoạt
động này thường được nhiều GV đưa vào phần tổng kết chung, còn HS chỉ
nghe và ghi chép. Theo chúng tôi, về hướng đổi mới phương pháp, GV có thể

hướng dẫn HS tự đúc kết, khái qt bằng hệ thống câu hỏi có tính gợi mở, dẫn
dắt. Và tất nhiên, không thể bỏ qua việc tổng kết khái quát của GV về chủ đề
tư tưởng, giá trị nghệ thuật, ý nghĩa giáo dục của tác phẩm.

5


Để kiến thức phần này được khắc sâu thêm, GV nên sử dụng một số bài
tập trắc nghiệm ứng dụng hay bài tập viết một đoạn văn cảm nhận ngắn, để vừa
kiểm tra được kiến thức vừa đánh giá được năng lực cảm thụ văn học của HS.
PHẦN THỨ HAI: THIẾT KẾ THỬ NGHIỆM QUÁ TRÌNH DẠY VÀ HỌC
TÁC PHẨM "MÙA XUÂN NHO NHỎ" CỦA THANH HẢI.
I. CON ĐƯỜNG THÂM NHẬP VÀO GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT VÀ NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG CỦA BÀI THƠ "MÙA XUÂN NHO NHỎ":

1. Tìm đề tài:
Đọc tên bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là nhận ra ngay được tác
phẩm hướng vào đề tài mùa xuân - một đề tài quen thuộc trong thi ca nói riêng
và trong văn học nghệ thuật nói chung. Đã có khơng ít những bài thơ đặc sắc
viết về mùa xuân như "Mùa xuân chín" của Hàn Mạc Tử, "Xuân" của Chế
Lan Viên, "Một nhành xuân" của Tố Hữu... Thế nhưng, hễ nhắc tới mùa
xn, hình như mỗi chúng ta lại khơng thể không nhớ tới một mùa xuân khiêm
nhường, cảm động trong bài "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải. Có thể nói
bài thơ là một thành cơng riêng, độc đáo của nhà thơ Thanh Hải.
2. Tìm chủ đề tư tưởng:
Mùa xuân là khái niệm của thời gian. vậy mà Thanh Hải lại đặt tên cho
tác phẩm của mình là "Mùa xuân nho nhỏ". Đọc bài thơ đến giữa, ra mới có
thể nhận thấy tư tưởng của tác phẩm. Chủ đề được bộc lộ rõ nhất trong hai khổ
thơ thứ tư và thứ năm:
"Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

6


Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ tràn căng sức sống và lòng
yêu đời, yêu cuộc sống, cống hiến sức lực và cuộc đời làm nên mùa xuân của
thiên nhiên và của đất nước.
Đây cũng là nhân sinh quan của Thanh Hải: ý thức trách nhiệm dâng
hiến sức lực, cuộc đời của mỗi người cho mùa xuân chung của nhân loại.
3. Quá trình suy nghĩ, nghiên cứu, tìm tịi để thâm nhập tác
phẩm thơ "Mùa xn nho nhỏ" của người GV:
3.1. Đọc:
Đọc trọn vẹn văn bản "Mùa xuân nho nhỏ" trong SGK Ngữ văn 9 Tập II, rồi đọc đến phần chú giải, phần hướng dẫn HS tìm hiểu bài. Đọc cả
SGV Ngữ văn 9 - Tập II và các tư liệu có liên quan tới bài thơ,... để ngay chính
người thầy phải hiểu thấu đáo được tác phẩm.
3.2. Đọc và tìm hiểu chung:
Tiếp tục đọc để khắc sâu hình tượng và xác định mối quan hệ của kết
cấu bên trong tác phẩm

- mạch ngầm của bài thơ. Trong bài thơ có ba dịng

chảy: thiên nhiên - đất nước - con người trong mùa xuân. Đó là những âm
thanh, nhịp điệu, hình tượng, chất Huế,... chảy trong tác phẩm kết lại thành một

chỉnh thể. Đây là cái mới trong sáng tác của Thanh Hải và cũng là cái độc đáo
của văn chương, lần đầu tiên xuất hiện trong thơ ca: "Mùa xuân nho nhỏ" - một
mùa xuân có kích cỡ, có hình dáng và có cả sự chuyển dời "lặng lẽ".
Một quá trình đọc, vừa đọc vừa liên tưởng, tưởng tượng tạo nên mối
quan hệ giữa ngôn ngữ - hình tượng - quan điểm, là hết sức cần thiết cho việc
đi sâu khám phá bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ".
3.3. Đọc và phân tích các yếu tố đặc sắc của tác phẩm:
Sự đọc này trên cơ sở đã thuộc từ hai lần đọc trước và dừng lại ở những
yếu tố có vấn đề để suy nghĩ, phân tích và tổng hợp lại, gắn kết thành mạch.
Khi phân tích, GV cần định hướng phân tích từ hình ảnh mùa xuân của thiên
nhiên, đất trời sang mùa xuân của đất nước rồi đến ước nguyện làm "mùa
xuân nho nhỏ" của nhà thơ cũng như của mỗi con người trong cuộc sống.

7


3.4. Đọc và tổng hợp giá trị đích thực của bài thơ:
Sau khi phân tích các yếu tố đặc sắc của tác phẩm ở bước 3.3, ta phải
cắt
nghĩa cho được vì sao ta lại phân tích. Đây là giai đoạn ta tạm rời tác phẩm
đứng cao hơn để quay lại nhìn tác phẩm mà đánh giá:
"Mùa xuân nho nhỏ" là sự phát hiện tinh tế của một con người trong
những ngày sắp từ giã cõi đời. Người xưa nói: con chim sắp chết kêu tiếng kêu
khôn, con người sắp chết nói lời nói thật.Thanh Hải nói về một mùa xuân "nho
nhỏ", xinh xinh, dễ thương, rất khiêm nhường. Người đọc dễ cảm nhận một cái
nhìn gần gũi về cuộc sống: Mỗi con người tự dâng hiến một việc làm nhỏ như
một bơng hoa góp hương, một tiếng chim hót góp tiếng ca vui, một nốt nhạc
trầm trong bản hoà ca rộn rã... gom góp dựng xây thành mùa xuân của đất
nước, của thiên nhiên vũ trụ. Đó là cảm nhận của mỗi người đọc. Nó mang tính
cá nhân, sự cảm nhận văn bản từ góc độ cá nhân bạn đọc - GV.

* Tóm lại: GV trước lúc dạy cần phải hiểu tác phẩm ra sao? Tác phẩm
có hay khơng, hay như thế nào? Tác phẩm có cái gì mới, mới ra sao?...
Cụ thể, trước khi bắt tay soạn tiết Đọc - Hiểu văn bản "Mùa xuân nho
nhỏ", người GV cần cảm và hiểu tác phẩm sâu sắc ở nhiều góc độ (từ nội
dung đến hình thức nghệ thuật) như sau:
Đọc "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải, có lẽ nhiều người đã u
thích và nhớ mãi những dịng thơ:" Ta làm con chim hót - Ta làm một cành
hoa... - Một mùa xuân nho nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời...". Đáng trân trọng làm
sao tình yêu cuộc sống của người thi sĩ khi chúng ta biết rằng bài thơ ấy ra đời
lúc ông đang trên giường bệnh và chỉ ít ngày sau ơng mất.Có lẽ chính giây
phút giáp mặt với cái chết, giây phút chuyển từ mùa đông giá lạnh sang mùa
xuân ấm áp, cái thời điểm kì diệu đó đã khiến tấm lịng con người bừng lên sự
sống mới, khiến tâm hồn nhà thơ thăng hoa, ngòi bút cũng nở hoa. Tất cả như
tràn ngập cảnh xuân, cuộc đời xuân và những ước nguyện đẹp như mùa xuân.
Bài thơ diễn tả mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người trong chiến
đấu và lao động. Nhưng có lẽ hay và đặc sắc hơn cả vẫn là những lời tâm niệm

8


cảm động, thiết tha của nhà thơ. Đó là ước nguyện dâng hiến cuộc đời mình
cho mùa xuân đất nước.
Trước tiên, mùa xuân của thiên nhiên, đất trời được hiện lên qua những
vần thơ thật độc đáo:
"Mọc giữa dịng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng."

Hình ảnh bơng hoa tím biếc mọc lên giữa dịng sông xanh thật nổi bật,
ấm áp. Động từ "mọc" được đảo lên đầu câu khiến ta thấy rõ hơn sự vươn lên
khoẻ khoắn và sức sống mãnh liệt của bông hoa. Màu tím của hoa và màu tím
của dịng sơng thật hài hồ, đó là những gam màu dịu mát gợi cảm giác êm ái,
thanh bình, yên ả. Trong khung cảnh thơ mộng đó vang lên tiếng hót lảnh lót
của chú chim chiền chiện:
"Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời..."
Tiếng hót ấy làm cho mùa xuân quê hương thêm náo nức, rộn ràng. Âm
thanh tiếng chim thả vào không gian trong suốt của mùa xuân, lắng đọng và
ngưng tụ lại thành từng "giọt long lanh" khiến nhà thơ có thể có thể nhìn thấy
được và ơng say sưa, ngây ngất đưa tay hứng nhận. Ơ đây nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng tài tình đã góp phần gợi ra
những suy tưởng nhiều chiều cho người đọc. "Giọt" có thể là giọt sương hay
giọt mưa xuân long lanh, có thể là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện và
cũng có thể là giọt hạnh phúc hay sự kết tinh long lanh của mùa xuân... Chỉ
bằng vài nét phác họa đơn sơ: dòng sơng xanh, bơng hoa tím, tiếng chim chiền
chiện,... bức tranh thiên nhiên mùa xuân đã hiện lên thật thơ mộng với chiều
dài của dịng sơng, chiều cao của bầu trời, chiều sâu của cảm xúc trong tâm
hồn tác giả.

9


Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về
mùa xuân của đất nước với hình ảnh "người cầm súng", "người ra đồng" biểu
trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động xây dựng đất nước:
"Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ"
Thực ra, đây là một ý thơ quen thuộc thường xuất hiện trong văn học
cách mạng. Nhưng cái hay của câu thơ là tác giả đã gắn hình ảnh "người cầm
súng", "người ra đồng" với màu xanh gợi cảm của "lộc" lá tươi non. "Lộc giắt
đầy...", "Lộc trải dài..."- hai hình ảnh trùng điệp làm hiện ra cả mùa xuân đất
trời trong màu xanh bất tận của lộc mới. Mùa xuân đọng lại trong hình ảnh lộc
non đã theo "người cầm súng" và "người ra đồng" đến mọi miền đất nước. Và
có thể nói chính những con người ấy đã đem mùa xn đến cho đất nước giữa
mùa xuân của thiên nhiên. Sức sống của mùa xuân đất nước còn được cảm
nhận trong nhịp điệu "hối hả", "xôn xao":
"Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao."
Từ những cảm nhận về sức sống của mùa xuân đất nước, nhà thơ suy
ngẫm về đất nước:
"Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước."
Đất nước Việt Nam thật đẹp, toả sáng như vì sao lung linh, đất nước
đang thẳng tiến đến tương lai bằng sức mạnh của "bốn ngàn năm vất vả và
gian lao"như bà mẹ hiền tần tảo mà đầy mạnh mẽ, can trường. Bốn câu thơ bộc
lộ niềm cảm phục một dân tộc gian khổ mà anh hùng, niềm tin tưởng vào
tương lai của Tổ quốc.

10


Từ rung cảm thiết tha trước mùa xuân đẹp của quê hương, đất nước,
Thanh Hải bộc lộ nguyện ước chân thành:
"Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hồ ca
Một nốt trầm xao xuyến."
Khơng mơ ước những gì to tát, cao siêu, nhà thơ chỉ ước được làm một
tiếng chim hót góp phần làm cho mùa xuân quê hương thêm âm thanh rạo rực;
ông nguyện làm một cành hoa nhỏ bé tô điểm thêm cho hương sắc của mùa
xuân; và giữa bản hòa ca tươi vui đầy sức sống của cuộc đời, nhà thơ khiêm
nhường xin làm "một nốt trầm xao xuyến". Điệp ngữ "ta làm" được lặp lại
nhiều lần như càng nhấn mạnh những ước nguyện tuy bình dị, đơn sơ nhưng
khơng kém phần da diết, trăn trở của nhà thơ.
Nếu như ở những khổ trên, nhà thơ xưng "tơi" thì đến khổ này này nhà
thơ lại xưng "ta"; đó là biểu tượng cho sự gặp gỡ giữa cái chung và cái riêng.
"Ta" vừa là số ít (nhà thơ), vừa là số nhiều (tất cả). Dường như ước nguyện
của mỗi cá nhân đã hồ với dịng chảy của muôn người: tất cả đều muốn cống
hiến một phần cơng sức nhỏ bé của mình cho q hương đất nước!
"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời"
Đến đây ta mới thấm thía ý nghĩa của nhan đề bài thơ. Trước Thanh Hải
quả chưa từng có hình ảnh thơ vừa lạ, vừa hồn nhiên, thân thương này. Hình
ảnh "mùa xuân nho nhỏ" chứa đựng sự khiêm nhường mà tự tin, tự hào biết
mấy của con người ý thức sâu sắc về giá trị cuộc đời, về hạnh phúc của hiến
dâng và đón nhận. "Nốt trầm xao xuyến" của "mùa xuân nho nhỏ" này cứ tự
nhiên hoà vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước nhờ sự chiếu ứng giữa
hai phần của bài thơ. Khổ đầu đã xuất hiện hình ảnh bơng hoa tím, con chim
chiền chiện giữa trời xanh với tiếng hót. Giờ đây, đến khổ thứ tư, nguyện ước
của nhân vật trữ tình, của "mùa xuân nho nhỏ" chính là sự láy lại các hình ảnh
ấy của mùa xuân.

11



"Một mùa xuân nho nhỏ" là một hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời tác giả:
sống là cống hiến, cống hiến sức xuân cho mùa xuân cuộc đời. Thanh Hải
khiêm tốn xin làm "một mùa xuân nho nhỏ", và nếu mỗi con người là "một
mùa xuân nho nhỏ" thì sẽ có một mùa xuân lớn lao cho dân tộc. Thế nhưng, có
lẽ điều làm người đọc xúc động chính là sự khiêm nhường ấy đồng nghĩa với
những hy sinh thầm lặng "lặng lẽ dâng cho đời" và sự hy sinh thầm lặng ấy là
vơ điều kiện, nó vượt qua mọi không gian, thời gian quy ước:
"Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc."
"Tuổi hai mươi" và "khi tóc bạc" ở đây là hai hình ảnh hốn dụ giàu sức
gợi. Nó khơng những chỉ một đời người từ trẻ đến già mà còn chỉ mọi thế hệ:
già cũng như trẻ, gái cũng như trai. Điệp ngữ "dù là" được láy lại như một lời
hứa, lời khẳng định của nhà thơ: sống là cống hiến. Phải chăng đó chính là lẽ
sống đầy trách nhiệm mà Thanh Hải muốn gửi gắm tới chúng ta?
Bài thơ kết thúc bằng âm điệu dân ca xứ Huế với câu Nam ai, Nam bình
hồ với nhịp phách tiền vanh rộn. Đây chính là hồn nhạc dân gian xứ Huế. Đó
là âm thanh mùa xuân đất nước mn đời trẻ trung, vấn vít, xao xuyến lịng
người:
"Mùa xn - ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế."
Có thể nói, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lịng tha thiết u mến
và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện cống hiến chân
thành của nhà thơ, muốn góp "mùa xuân nho nhỏ" của mình vào mùa xuân lớn
cho dân tộc. Bài thơ viết theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng gần gũi
với dân ca, có nhiều hình ảnh đẹp, giản dị gợi cảm cùng những so sánh và ẩn
dụ sáng tạo... Giữa các khổ, các phần của bài thơ có sự gắn kết tự nhiên, chặt

chẽ, vừa luyến láy vừa được nâng cao. Nó có sức lay động tâm hồn chúng ta

12


bởi chất họa gợi cảm, chất nhạc vấn vương, quyến luyến, bởi tâm niệm tha
thiết chân thành... Có lẽ vì thế, cái nguyện ước "lặng lẽ dâng cho đời" một
"mùa xn nho nhỏ" kia khơng cịn là của riêng Thanh Hải nữa mà nó đã trở
thành tiếng lịng của nhiều thế hệ bạn đọc.
II. HƯỚNG THIẾT KẾ GIỜ DẠY "MÙA XUÂN NHO NHỎ" TRÊN GIÁO
ÁN CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN:
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:

Giúp HS:
- Cảm nhận được những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên
nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm "một mùa xuân nho nhỏ" dâng
hiến cho cuộc đời. Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa, giá trị của cuộc
sống của mỗi cá nhân là sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung.
- Rèn luyện kỹ năng cảm thụ, phân tích hình ảnh thơ trong mạch vận
động của tứ thơ.
B. CHUẨN BỊ:

- GV: SGK, SGV, Thiết kế bài giảng Ngữ văn 9 và một số tư liệu liên
quan đến bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"...
- HS: Đọc kỹ bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" và soạn bài bài theo câu
hỏi hướng dẫn trong SGK.
C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP:

C.1. ÔN ĐỊNH TỔ CHỨC: (1 phút).
C.2. KIỂM TRA BÀI CŨ: (4 phút).


GV yêu cầu HS (2 em) trả lời một số câu hỏi kiểm tra kiến thức về văn
bản "Con cò" của Chế Lan Viên.
C.3. BÀI MỚI:(40 phút)
(I). HOẠT ĐỘNG 1: Giới thiệu tác giả - tác phẩm. (4 phút).

- Yêu cầu HS dựa vào chú thích *(Tr. 57) trong SGK để nêu đôi nét về
nhà thơ Thanh Hải và tác phẩm "Mùa xuân nho nhỏ".
--> GV nhấn mạnh những nét chính cho HS nắm vững và giới thiệu bổ
sung để tạo hứng thú cho giờ học.

13


(II). HOẠT ĐỘNG 2: Đọc và tìm hiểu chung. (6 phút)

1. GV hướng dẫn cách đọc bài thơ --> Đọc mẫu --> Gọi 3 HS đọc -->
Yêu cầu nhận xét và sửa chữa.
2. Cho HS tìm hiểu các chú thích (2), (3), (4) (Tr. 57- SGK).
3. Yêu cầu HS tìm hiểu cách vận dụng thể thơ 5 chữ trong bài thơ của
Thanh Hải.
4. Hướng dẫn HS tìm hiểu mạch cảm xúc về mùa xuân của tác giả
trong bài thơ.
- Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp trước vẻ đẹp và sức
sống của mùa xuân thiên nhiên; từ đó mở rộng thành hình ảnh mùa xn của
đất nước.
- Từ cảm xúc, mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện
của nhà thơ muốn được hoà nhập, đóng góp cho cuộc đời chung.
- Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về
quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

5. Trên cơ sở mạch cảm xúc, yêu cầu HS nêu bố cục của bài thơ.
- Khổ đầu (6 dòng): Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.
- Hai khổ tiếp (10 dòng): Cảm xúc về mùa xuân đất nước.
- Hai khổ tiếp theo (8 dòng): Suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước
mùa xuân đất nước.
- Khổ cuối (5 dòng): Lời ca ngợi quê hương đất nước qua điệu dân ca
xứ Huế.
(III). HOẠT ĐỘNG 3: Phân tích. (20 phút).

1. Hướng dẫn HS tìm hiểu hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất
nước qua cảm xúc của nhà thơ.
Ơ phần này, GV có thể nêu một số câu hỏi để dẫn dắt HS phân tích
đúng hướng, đúng cách như:
- Cách miêu tả mùa xuân của tác giả có gì độc đáo?
- Mùa xn ở khổ đầu được dùng với ý nghĩa gì?

14


- Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, đất trời được phác họa ra
sao?

- Cảm xúc của tác giả về mùa xuân thiên nhiên được thể hiện như

thế nào?
- Hình ảnh đất nước qua khổ thơ thứ 2,3 có gì đặc biệt?
- Các biện pháp nghệ thuật và cách dùng từ mà Thanh Hải sử
dụng ở đây?
- Mạch cảm xúc của tác giả được phát triển như thế nào từ khổ 1
đến khổ 2,3?...

GV cho HS suy nghĩ cá nhân và trình bày trước lớp --> yêu cầu nhận
xét, bổ sung.
*Lưu ý cần làm rõ các vấn đề cơ bản sau:
- Về nội dung:
+ Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên được phác họa qua một số
hình ảnh chọn lọc có ý nghĩa điển hình: Một dịng sơng xanh, một bơng hoa
tím biếc, âm thanh tiếng chim chiền chiện... - Đó là một khơng gian cao rộng,
tươi mát, tràn đầy sức sống.
+ Khổ 2,3: Hình ảnh đất nước vào xuân được đặc tả qua một số
nét phác họa đặc trưng: Màu xanh tươi mới của lộc non theo bước chân người
cầm súng và người ra đồng đến mọi miền của Tổ quốc; qua nhịp điệu sống hối
hả, khẩn trương... Tất cả tạo nên hình ảnh vươn lên, tiến về phía trước đẹp như
vì sao sáng lung linh của một đất nước gian khổ mà anh hùng.
- Về nghệ thuật: Thanh Hải sử dụng thành công các biện pháp:
đảo ngữ, điệp từ, so sánh, nhân hoá,... từ ngữ chọn lọc, gợi cảm... nhằm thể
hiện cảm xúc chân thành, cảm nhận tươi tắn, dào dạt niềm tin về mùa xuân, đất
nước, dân tộc.
- Mạch cảm xúc được phát triển từ cái nhìn cụ thể đến cái nhìn
khái quát, từ cảm nhận cụ thể về mùa xuân đến cảm nhận khái quát về tư thế và
sức mạnh của dân tộc.
2. Hướng dẫn HS tìm hiểu tâm niệm của nhà thơ.

15


GV giao nhiệm vụ cho cho cả lớp: Phân tích và nêu nhận xét về nội
dung cũng như nghệ thuật của 3 khổ thơ cuối.
Cho HS suy nghĩ, trao đổi thảo luận nhằm tìm hiểu những suy nghĩ về
bổn phận cá nhân của tác giả cũng như của mỗi con người trong cuộc đời.
GV có thể dẫn dắt hoạt động thảo luận của HS bằng một số câu hỏi định

hướng như:
- Mạch thơ ở 3 khổ cuối?
- Tâm niệm của nhà thơ được thể hiện qua những hình ảnh nào?
Nét đặc sắc của những hình ảnh ấy là gì?
- Sự sáng tạo đặc sắc nhất của Thanh Hải trong bài thơ là gì?
- Bình luận mối quan hệ giữa nhan đề bài thơ với ước nguyện
"lặng lẽ dâng cho đời" của tác giả?
- Cách lựa chọn chi tiết và cấu tứ lặp lại của đoạn thơ có ý nghĩa
gì?
- Đoạn thơ gợi cho em những cảm nghĩ gì về nguyện ước của tác
giả và ý nghĩa cuộc sống cá nhân?...
* Yêu cầu HS trả lời được các ý sau:
+Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ
chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà
thơ trước mùa xuân đất nước.
+ Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong
những hình ảnh thơ đẹp, tự nhiên, giản dị. Giữa mùa xuân của đất nước, tác giả
xin làm một "con chim hót", làm "một nhành hoa"; giữa bản "hoà ca" vui tươi,
đầy sức sống của cuộc đời, nhà thơ xin làm "một nốt trầm xao xuyến".
+Sự sáng tạo đặc sắc nhất của Thanh Hải trong bài thơlà ở hình
ảnh "mùa xuân nho nhỏ". Nhà thơ nguyện làm một mùa xuân, nghĩa là sống
đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là làm
một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời
chung.

16


+Sự lặp lại các chi tiết, hình ảnh (bơng hoa và tiếng chim hót) đã
tạo ra sự đối ứng chặt chẽ cho bài thơ. Những hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã

mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn dược sống có ích, cống hiến cho đời
là một lẽ tự nhiên như con chim mang đến tiếng hót, bơng hoa toả hương sắc
cho cuộc đời...
+ Bằng giọng tâm sự nhỏ nhẹ, sâu lắng, ước nguyện của Thanh
Hải đã đi vào lòng người đọc, và lung linh trong sáng của một nhân sinh quan
tươi đẹp: Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một nét đẹp riêng, phải
cống hiến phần tinh tuý nhất, dù là nhỏ bé, cho đất nước, và đó phải là sự cống
hiến thầm lặng suốt cả cuộc đời.
(IV). HOẠT ĐỘNG 4: Tổng kết (5 phút).

- GV giao nhiệm vụ cho cả lớp suy nghĩ những vấn đề chính về
nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- GV gọi 1-2 HS trả lời --> cho lớp nhận xét, rút ra ý cần tổng kết.
- GV chốt và nhấn mạnh những ý cơ bản cần ghi nhớ.
* Cho HS đọc phần ghi nhớ (Tr. 58 - SGK).
C.4. CỦNG CỐ: (3 phút)

Yêu cầu HS nêu cảm nhận về một số hình ảnh đặc sắc trong bài
thơ.
C.5. HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ: (2 phút)

- Hướng dẫn HS học bài "Mùa xuân nho nhỏ" và làm bài tập
thực hành (Bình giảng một khổ thơ trong bài mà em yêu thích).
- Nhắc HS chuẩn bị Đọc - Hiểu văn bản "Viếng lăng Bác" của
Viễn Phương.
C. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Với việc áp dụng đề tài "Thiết kế quá trình Đọc - Hiểu văn bản để
tăng cường hiệu quả giờ dạy Văn ở lớp 9 THCS (Qua tác phẩm "Mùa xuân
nho nhỏ" của Thanh Hải)" trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là năm học 2006
- 2007 (với đối tượng HS lớp 9), tơi thấy mình thuận lợi hơn khi giảng dạy các

tác phẩm văn chương ở phân môn Đọc - Hiểu văn bản, từ đó dẫn dắt HS cách

17


cảm, cách hiểu văn học tốt hơn. Khi tiếp xúc với bất kỳ tác phẩm văn học nào,
hầu hết các em đều có ý thức cố gắng chủ động tìm hiểu, đào sâu khám phá các
tầng ý nghĩa của văn bản. Thậm chí, có một số HS vượt ra ngồi sự mong đợi
của GV, rất sáng tạo khi cảm thụ văn bản. Các em đã phát hiện được những
tầng ý nghĩa mới, vượt khỏi những cách hiểu thông thường, bổ sung, hoàn
thiện thêm những giá trị thẩm mỹ, đem tới cho văn bản một cách hiểu mới, một
giá trị mới, đôi khi khá bất ngờ và độc đáo.
Bằng việc khảo sát chất lượng bộ mơn Ngữ văncủa HS lớp mình phụ
trách qua hai đợt kiểm tra (đợt I: tháng 9 - 2006; đợt II: tháng 3 - 2007), tôi
nhận thấy chất lượng bộ môn được nâng lên rõ rệt: tỉ lệ khá - giỏi tăng hơn và
đã hạn chế đáng kể tỉ lệ trung bình - yếu.
* Kết quả cụ thể như sau:
Đợt

T. số

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

TS


%

TS

%

TS

%

TS

%

(I)

45

7

15,6

19

42,2

18

40,0


1

2,2

( II )

45

11

24,4

26

57,8

8

17,8

0

0

*
* *

18



PHẦN KẾT LUẬN
I.BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Để tăng cường hiệu quả của giờ dạy văn (Đọc - Hiểu văn bản) bậc
THCS nói chung và giờ dạy văn ở lớp 9 nói riêng theo tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay là đề cao vai trò chủ động sáng tạo của HS
trong hoạt động nhận thức cảm thụ và ứng dụng các kiến thức, kỹ năng văn
học, GV khơng cịn là người chỉ biết truyền thụ kiến thức, kỹ năng tới HS mà
cịn cần có cả vai trị tổ chức, hướng dẫn HS tích cực tìm tịi khám phá để hiểu,
để cảm và để vận dụng các kiến thức kỹ năng đúng hướng, đúng cách, tránh
suy diễn, phỏng đoán hay áp đặt. Từ đó HS sẽ được hiểu, cảm cái hay, cái đẹp
của tác phẩm văn học; bộc lộ sự hiểu, cảm ấy bằng ngơn ngữ, tình cảm của lứa
tuổi mình; các kỹ năng đọc, phân tích, bình giá, diễn đạt bằng ngơn ngữ nói viết của các em sẽ được hình thành chắc chắn và bền vững.
* Tóm lại, để để góp phần đổi mới và tăng cường hiệu quả giờ dạy Văn
ở lớp 9 bậc THCS, GV phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Nắm chắc nội dung bài giảng và những kiến thức liên quan đến tác
giả - tác phẩm. GV lên lớp phải thực sự hiểu và rung động với tác phẩm mình
sẽ dạy.
- Có kỹ năng sư phạm để có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp,
hướng dẫn quá trình học tập của HS một cách có hiệu quả.
- Biết lắng nghe thơng tin từ phía HS: "nghe" để chuẩn bị và điều
chỉnh cách dạy; "nghe" để uốn nắn quá trình tiếp nhận , cảm thụ văn học
của HS đi

19


đúng hướng...
- Rèn luyện cho HS khả năng bộc lộ suy nghĩ tình cảm của mình về tác

phẩm qua hoạt động trao đổi, thảo luận với GV và bè bạn.
Với những yêu cầu trên, người GV phải có nhận thức đúng về vai trò
của giáo án. Giáo án như là một công cụ, một phương tiện không thể thiếu của
GV khi lên lớp. Giáo án được xem là một thiết kế của người GV, nó có thể
quyết định việc thành - bại cho cơng trình giảng dạy trên lớp. "Bản thiết kế" đó
phải được kiểm nghiệm trên thực tế và cần được bổ sung, điều chỉnh thường
xuyên cho phù hợp với đối tượng, điều kiện thực tế... nhằm đạt hiệu quả và
mục tiêu đề ra một cách cao nhất.
II. LỜI KẾT:

Với kiến thức, kinh nghiệm đã tích luỹ được trong quá trình học tập và
giảng dạy, cùng sự giúp đỡ tận tình của các bạn đồng nghiệp, trên đây tơi đã
đưa ra một vài ý kiến nhỏ về việc "Thiết kế quá trình Đọc - Hiểu văn bản để
tăng cường hiệu quả giờ dạy Văn ở lớp 9 THCS (Qua tác phẩm "Mùa xuân
nho nhỏ" của Thanh Hải)". Tuy rằng sau khi áp dụng đề tài này, thầy trị
chúng tơi đã thu được một số kết quả với những thành công nhất định trong
việc dạy và học một số tác phẩm văn chương thuộc phần Đọc - Hiểu văn bản ở
bộ mơn Ngữ văn lớp 9, nhưng chắc hẳn cịn nhiều vấn đề chưa đề cập hết và
hạn chế là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, tơi rất mong nhận được sự góp ý, phê
bình, bổ sung của cấp trên cùng các bạn đồng nghiệp, từ đó giúp tơi có sự điều
chỉnh phù hợp trong quá trình giảng dạy, để những năm học sau thầy trị chúng
tơi đạt được kết quả dạy và học tốt hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

20



×