Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIAO TIẾP THÔNG QUA GIỜ ĐÓNG KỊCH CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO TRẺ 4 ĐẾN 5 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON HOA QUỲNH CHIỀNG BÔM - THUẬN CHÂU - SƠN LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.05 KB, 74 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN THỊ HƯƠNG





HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIAO TIẾP
THÔNG QUA GIỜ ĐÓNG KỊCH CHUYỂN THỂ TỪ
TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO TRẺ 4 ĐẾN 5 TUỔI
TRƯỜNG MẦM NON HOA QUỲNH
CHIỀNG BÔM - THUẬN CHÂU - SƠN LA



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2013



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


NGUYỄN THỊ HƯƠNG





HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIAO TIẾP
THÔNG QUA GIỜ ĐÓNG KỊCH CHUYỂN THỂ TỪ
TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO TRẺ 4 ĐẾN 5 TUỔI
TRƯỜNG MẦM NON HOA QUỲNH
CHIỀNG BÔM - THUẬN CHÂU - SƠN LA

CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ
LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: Th.S Trịnh Thị Hồng

SƠN LA, NĂM 2013

LỜI CẢM ƠN

Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành dựa trên sự hướng dẫn khoa học
của cô giáo, Thạc Sĩ Trịnh Thị Hồng. Nhân dịp khóa luận được công bố, em
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, Thạc Sĩ Trịnh Thị Hồng – người đã

trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình cho em trong quá trình thực hiện
đề tài này.
Em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Phòng Đào Tạo, các thầy,
cô giáo khoa Tiểu học – Mầm non, thư viện trường Đại học Tây Bắc, các ban
ngành chức năng và tập thể lớp K50 Đại học giáo dục Mầm non.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban giám hiệu trường
Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La đã tận tình giúp
đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Với nội dung khóa luận này em rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của thầy cô và các bạn!
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện


Nguyễn Thị Hương

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

GD – ĐT Giáo dục và đào tạo
GT Giao tiếp
GV Giáo viên
KNGT Kỹ năng giao tiếp
MGB Mẫu giáo bé
MGL Mẫu giáo lớn
MGN Mẫu giáo nhỡ
NXB Nhà xuất bản
TPVH Tác phẩm văn học
% Phần trăm




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Mục đích nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5.1. Đối tượng nghiên cứu 6
5.2. Địa bàn nghiên cứu 7
5.3. Khách thể nghiên cứu 7
5.4. Giới hạn về nội dung nghiên cứu 7
6. Phương pháp nghiên cứu 7
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 7
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 7
7. Giả thuyết khoa học 8
8. Những đóng góp của khóa luận 8
9. Cấu trúc của khóa luận 8
PHẦN NỘI DUNG 10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 10
1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 4 đến 5 tuổi 10
1.2. Giao tiếp và sự hình thành kỹ năng giao tiếp 11
1.2.1. Giao tiếp 11
1.2.1.1. Khái niệm 11
1.2.1.2. Hình thành giao tiếp 13
1.2.2. Kỹ năng giao tiếp 14
1.2.2.1. Khái niệm 14

1.2.2.2. Các hình thái đặc điểm của kỹ năng giao tiếp 14
1.2.2.3. Sự hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 4 đến 5 tuổi 15
1.2.2.4. Tác phẩm văn học và sự hình thành kỹ năng giao tiếp 17

1.2.3. Đặc điểm tiếp nhận văn học của trẻ 18
1.2.4. Giờ đóng kịch với sự hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 20
1.2.4.1. Đặc điểm của giờ đóng kịch 20
1.2.4.2. Giờ đóng kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học 20
1.2.4.3. Giờ đóng kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học với sự hình thành
kỹ năng giao tiếp cho trẻ 22
TIỂU KẾT 25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON HOA
QUỲNH CHIỀNG BÔM – THUẬN CHÂU – SƠN LA 26
2.1. Khảo sát thực trạng dạy học 26
2.1.1. Mục đích khảo sát 26
2.1.2. Thời gian khảo sát 26
2.1.3. Phương pháp khảo sát 26
2.1.4. Thực trạng hoạt động dạy học của trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng
Bôm – Thuận Châu – Sơn La 26
2.1.5. Thực trạng học tập của trẻ 29
2.1.6. Xây dựng các tiêu chí đánh giá việc trẻ 4 đến 5 tuổi đóng kịch theo cốt
truyện 30
TIỂU KẾT 32
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KỸ NĂNG GIAO TIẾP
THÔNG QUA GIỜ ĐÓNG KỊCH CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN
HỌC CHO TRẺ 4 ĐẾN 5 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON HOA QUỲNH
CHIỀNG BÔM - THUẬN CHÂU - SƠN LA 33
3.1. Lựa chọn tác phẩm văn học để chuyển thể thành kịch bản 33
3.2. Cách thức chuyển thể các tác phẩm văn học sang kịch bản 34
3.3. Hướng dẫn trẻ nắm vững cốt truyện và nội dung thơ theo vai 37

3.4. Hướng dẫn trẻ thể hiện ngôn ngữ và hành động của nhân vật 38
3.5. Hướng dẫn trẻ sử dụng triệt để và có hiệu quả một số yếu tố phụ trợ 40
3.6. Phân vai và luyện tập nhập vai 41
3.7. GV chuẩn bị sân khấu và biểu diễn 42

3.8. Giáo viên có kế hoạch kết hợp với gia đình trong quá trình dạy trẻ phân vai
và nhập vai 43
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 45
1. Những vấn đề chung 45
1.1. Mục đích thực nghiệm 45
1.2. Đối tượng thực nghiệm 45
1.3. Phạm vi thực nghiệm 45
1.4. Điều kiện thực nghiệm 45
TIỂU KẾT 46
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 47
1. KẾT LUẬN 47
2. KIẾN NGHỊ 48
2.1. Về phía trường mầm non 48
2.2. Về phía giáo viên 48
2.3. Về phía gia đình trẻ 49
2.4 Đề xuất của giáo viên tại trường 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
PHỤ LỤC 51

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì
vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển của tương lai, đảm bảo xây
dựng một thế hệ kế tiếp có đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước.

Đại hội Đảng khóa IX đã xác định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
phát triển giáo dục – đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người”. Hiện nay, giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn
xã hội. Trong đó, giáo dục mầm non có một vị trí rất quan trọng, là bậc đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển
nhân cách con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. Trẻ em tuổi mầm non của ngày
hôm nay sẽ trở thành người lao động, người công dân thực sự của đất nước,
nhưng việc đào tạo con người mới ấy lại phải được bắt đầu ngay từ thuở lọt
lòng. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền
móng cho sự phát triển toàn diện nói chung và việc hình thành KNGT của con
người nói riêng. Môn “Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”
có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho trẻ
đồng thời nó lại là phương tiện hiệu quả giúp trẻ hình thành KNGT. Để đạt được
mục đích và nhiệm vụ ấy, việc cho trẻ tiếp xúc với các TPVH, những câu
chuyện, bài thơ và đặc biệt là những trò chơi để hình thành, củng cố, rèn luyện
và phát triển cho trẻ vốn hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm sống. Nhằm giúp trẻ
mạnh dạn, tự tin sau bậc học mầm non có thể bước vào lớp 1 một cách thuận lợi.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội. Nếu không có GT với
người khác thì con người không thể phát triển, cảm thấy cô đơn và có khi trở
thành bệnh hoạn. Nếu không có GT thì không có sự tồn tại xã hội, vì xã hội luôn
là một cộng đồng người có sự ràng buộc, liên kết với nhau. Qua GT chúng ta có
thể xác định được các mức độ nhu cầu, tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh
nghiệm… của đối tượng GT, nhờ đó mà chủ thể GT đáp ứng kịp thời, phù hợp
với mục đích và nhiệm vụ GT. Từ đó tạo thành các hình thức GT giữa cá nhân
với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm, giữa nhóm với nhóm hoặc giữa nhóm với
cộng đồng. GT giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích
đối tượng giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề trong học tập, sản xuất kinh
doanh, thỏa mãn những nhu cầu hứng thú, cảm xúc tạo ra.


2
Nhiều nhà tâm lý học đã khẳng định, nếu không có sự GT giữa con người
thì một đứa trẻ không thể phát triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt được. Nếu
con người trong xã hội mà không GT với nhau thì sẽ không có một xã hội tiến
bộ, con người tiến bộ. Nếu cá nhân không GT với xã hội thì cá nhân đó sẽ không
biết phải làm những gì để cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, cá nhân đó sẽ rơi
vào tình trạng cô đơn, cô lập về tinh thần và đời sống sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Thông qua GT con người hình thành năng lực tự ý thức. Trong quá trình
GT, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên cơ sở nhận thức đánh giá
người khác. Theo cách này họ có xu hướng tìm kiếm ở người khác để xem ý
kiến của mình có đúng không, được thừa nhận không. Trên cơ sở đó họ có sự tự
điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình theo hướng tăng cường hoặc giảm bớt
sự thích ứng lẫn nhau. Như vậy, GT đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành
và phát triển tâm sinh lý, nhân cách cá nhân. Để mỗi con người thực hiện hết
những vai trò của giao tiếp như vậy, cần phải rèn luyện các KNGT. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Sự phát triển của một cá thể phụ thuộc vào sự phát triển
của nhiều cá thể mà nó đã giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp”.
Lứa tuổi mầm non, chặng đường phát triển đầu tiên với nhịp độ phát triển
cực nhanh và đặc biệt nhạy cảm. Nhà giáo dục học Xô Viết A.M Carenco từng
nói: “Những gì mà trẻ con không có được trước 5 tuổi thì sau này rất khó hình
thành và khi sự hình thành nhân cách ban đầu lệch lạc thì sau này giáo dục lại
rất khó khăn”. Trẻ em là tương lai của đất nước, sự phồn vinh của đất nước mai
sau phụ thuộc vào tất cả những gì chúng ta giành cho trẻ ngày hôm nay.
Từ lọt lòng tới 6 tuổi là một quãng đời có tầm quan trọng đặc biệt trong
quá trình phát triển chung của trẻ em. Đúng như L.N.Tônxtôi đã nhận định khi
nhấn mạnh ý nghĩa của thời kỳ đó, rằng: “Tất cả những cái gì mà đứa trẻ sẽ có
sau này khi trở thành người lớn đều thu nhận được trong thời kì thơ ấu. Trong
quãng đời còn lại những cái mà nó thu nhận được chỉ đáng 1% những cái đó mà
thôi”. Với sự nhạy cảm, trực giác của nhà văn, ông đã nêu một phép so sánh như

sau: “Nếu từ đứa trẻ 5 tuổi đến người lớn, khoảng cách chỉ là một bước đi thì từ
đứa trẻ sơ sinh tới 5 tuổi là một khoảng cách dài kinh khủng”[3,Tr 337]. Đây
chính là chặng đường phát triển đầu tiên, là buổi bình minh của cuộc đời với
nhịp độ phát triển cực nhanh. Nhịp độ phát triển đó không bao giờ còn thấy
được trong những năm về sau.
Ví dụ: Về mặt trí tuệ, những thành tựu khoa học nghiên cứu về trẻ em cho
thấy: có tới 50% sự phát triển trí tuệ của con người được diễn ra trong lứa tuổi
từ bào thai đến 4 tuổi, từ 4 tuổi đến 8 tuổi đạt được 30% nữa và tiếp tục hoàn
thiện đến tuổi trưởng thành, nhưng tốc độ chậm dần sau 18 tuổi (Phạm Mai Chi,

3
“Thông tin khoa học giáo dục” số 20/1990). Đến 6 tuổi bộ não của trẻ đạt 90%
trọng lượng não của người trưởng thành.
Tuổi mầm non cũng là thời kỳ trẻ rất nhạy cảm với mọi tác động bên
ngoài, những nét tính cách cơ bản trong nhân phẩm trẻ được hình thành chính
trong thời kỳ này và để lại dấu ấn suốt cuộc đời. Nhà giáo dục Nga Usinsky đã
nói: “Tính tình của con người hình thành chính trong những năm thơ ấu…”.
Hay Crupxkaia có nêu: “Những cảm giác đầu tiên thời thơ ấu để lại dấu vết suốt
đời”. Những điều này tiếp tục nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của giáo dục
mầm non.
Trong những năm gần đây, Bộ GD – ĐT đã có nhiều chương trình nhằm
nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường như: phát động phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, đưa nội dung giáo dục kỹ
năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học Đây là một trong những
giải pháp giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách, cũng như giáo dục
học sinh một cách toàn diện.
Văn hoá ứng xử của con người nói chung, của trẻ mầm non nói riêng
đang là vấn đề được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, các
nhà trường, gia đình và xã hội quan tâm. Đây cũng là vấn đề được dư luận
xã hội và các cơ quan báo chí đề cập tới khá nhiều trong thời gian gần đây.

Trong đó bức xúc hơn cả là những biểu hiện có chiều hướng đi xuống của
vấn đề GT, ứng xử của học sinh. Về lí thuyết, học đường là môi trường
trong đó mỗi cá nhân có điều kiện học hỏi kiến thức, rèn luyện KNGT, ứng
xử, xây dựng và hình thành nền tảng tri thức và nhân cách của một công dân
mẫu mực. Thực tế hiện nay, GT trong môi trường học đường đang ở mức
báo động về hành vi ứng xử thiếu văn hóa, lời nói thiếu lịch sự, thiếu nhã
nhặn, cách GT lệch chuẩn, vượt ra ngoài những qui tắc ứng xử văn hóa
truyền thống thông thường. Ngược lại với những câu chuyện nói về nhiều
tấm gương học sinh dũng cảm cứu bạn, những em bé nói năng lễ phép lịch
sự, đúng mực. Trong cuộc sống hiện nay báo động tình trạng đạo đức của
học sinh đang xuống cấp, hay nói một cách khác vẫn còn có trường hợp đối
xử, giải quyết những mâu thuẫn đời thường với nhau chưa đúng đạo lý, đối
xử với nhau thiếu văn hoá như: học sinh đánh thầy, học sinh kết bè cánh để
đánh nhau, học sinh nói tục chửi bậy; hiện tượng giáo viên dùng những lời
lẽ thiếu chuẩn mực, hành động thiếu lịch sự để chỉ trích, trách phạt học trò;
hiện tượng học sinh, sinh viên có cử chỉ, thái độ, hành động vô lễ với thầy,
cô…

4
Giáo dục văn hóa GT trong nhà trường hơn lúc nào hết, cần được quan
tâm đúng mức và được đặt đúng trọng tâm trong mục tiêu giáo dục chung của
mỗi nhà trường, mỗi bậc học.
Với trẻ mầm non, bên cạnh sự ngây thơ đáng yêu của trẻ có những trẻ rất
ngoan, đã biết các lễ giáo thông thường, biết cách xưng hô, biết đối xử với người
lớn, bạn bè nhưng bên cạnh đó cũng có những trẻ ngang bướng, đã bập bẹ
những câu nói tục, chửi bậy, không biết những lễ giáo. Có nhiều trẻ đã có vốn từ
rất rộng, có sự tự tin và có khả năng diễn đạt khá rõ ràng, phong phú, sáng tạo
và hay. Nhưng bên cạnh đó lại có những trẻ có thể có vốn từ không nhiều và
thậm chí rất ít, nhút nhát, không dám thể hiện bản thân, không biết cách diễn đạt
suy nghĩ của mình với người khác.

Do đó việc hướng dẫn, hình thành và phát triển cho trẻ nhỏ ngay từ lứa
tuổi mầm non về các kỹ năng sống nói chung và KNGT nói riêng là rất quan
trọng.
Xác định rõ được vai trò, tầm quan trọng của việc hình thành KNGT cho
trẻ, cùng với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi mầm non “học bằng chơi, chơi
mà học”. Việc lựa chọn phương tiện trung gian để đưa tri thức, kỹ năng… tới
cho trẻ một cách nhẹ nhàng, thoải mái, phù hợp và hiệu quả là rất quan trọng. Từ
lâu, người ta đã nhận thấy, văn học là nguồn suối không cạn của tri thức, là kinh
nghiệm sống mà con người cần tiếp thu và phát triển. Người ta cũng thấy rõ vị
trí, sức mạnh riêng của TPVH trong sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục
trẻ mầm non nói riêng. Nó trở thành nội dung và phương tiện hữu hiệu để giáo
dục trẻ. Nhà nghiên cứu và phê bình Nga lỗi lạc V.G Bielinxki đã từng nói:
“Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ
đại vì nó quyết định số phận con người” (V.G.Bielinxki toàn tập, tập IV,
Mátxcơva, NXB Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, 1954, trang 79). Với trẻ lứa
tuổi mầm non “học bằng chơi, chơi mà học”, như vậy giờ đóng kịch chuyển thể
từ các TPVH là phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi mầm non và có khả
năng tạo hứng thú lớn cho trẻ.
Giờ đóng kịch dựa theo các TPVH là một trong những hình thức hoạt
động cho trẻ làm quen với các TPVH, là nội dung hoạt động vui chơi trong
trường mầm non. Tuy nhìn vào chỉ là một trò chơi nhưng không đơn thuần chỉ là
vậy mà nó còn là hoạt động mang tính nghệ thuật. Giúp trẻ rèn luyện rất nhiều
kỹ năng trong học tập và cuộc sống, lại vừa là trò chơi. Chính điều này giúp kích
thích trẻ có hứng thú tham gia hoạt động… ở đây trẻ sẽ bộc lộ, phát huy được
nhiều thế mạnh của bản thân.

5
Hiện nay, ở một số trường mầm non, giờ đóng kịch theo các tác phẩm văn
học chưa được quan tâm đúng mức hoặc tổ chức còn nhiều hạn chế. Giáo viên
mầm non chưa thực sự nhận thức được vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa đặc biệt

của việc hình thành KNGT trong giờ đóng kịch. Do đó họ chưa dành thời gian,
tâm sức, cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động này trong giờ học.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài:
“Hình thành kỹ năng giao tiếp thông qua giờ đóng kịch chuyển thể từ tác phẩm
văn học cho trẻ 4 đến 5 tuổi trường mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận
Châu – Sơn La”. Nhằm đưa ra một số biện pháp hình thành KNGT cho trẻ 4
đến 5 tuổi qua giờ đóng kịch chuyển thể từ các TPVH trong trường mầm non.
2. Lịch sử vấn đề
Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc
sống là một việc làm hết sức cần thiết và có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong sự nghiệp chăm lo đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người
tương lai của đất nước. Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ
trên con đường đi đến xây dựng một xã hội giàu mạnh, ấm no, văn minh và hạnh
phúc. Ngày nay, giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh
giá một cách toàn diện sâu sắc thì công tác chăm sóc, giáo dục trẻ càng mang
một ý nghĩa nhân văn cụ thể, càng trở thành một đạo lý của thế giới văn minh.
Qua quá trình tìm hiểu về sự hình thành KNGT cho trẻ MGN (4 đến 5
tuổi) qua giờ đóng kịch chuyển thể từ các tác phẩm văn học và việc xây dựng
một số biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động đó. Tôi đã tiếp cận với
một số công trình nghiên cứu trong cũng như ngoài nước như các nghiên cứu ở
nước ngoài: của V.Vseptrenko và Mkbôgôlupx kaia với nhan đề “Đọc và kể
chuyện văn học ở vườn trẻ”, công trình “Những bước phát triển của trẻ em.
Những phương pháp và điều kiện cho trẻ em vui chơi” của Ylira Fllneky và
Radda Barmen, công trình “Về văn học của trẻ mẫu giáo” do tập thể giáo viên
Hanjoachim Horst, Cholothaues cộng hòa dân chủ Đức viết và hoàn thiện năm
1976. Tại Việt Nam cũng được các nhà giáo dục quan tâm và nghiên cứu như:
Nghiên cứu ngôn ngữ của Nguyễn Xuân Khoa về “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
qua thơ, truyện, phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo từ 0 đến 6
tuổi”, luận án tiến sĩ Hoàng Thị Hồng Mát “Dạy trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện sáng
tạo nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc”, khóa luận tốt nghiệp “Tìm hiểu sự

hình thành và phát triển nhân cách của trẻ 5 đến 6 tuổi thông qua trò chơi đóng
kịch theo tác phẩm văn học” của tác giả Lưu Hồng Nhung, khóa luận “Hướng
dẫn trẻ 5 đến 6 tuổi trường mầm non Thảo Nguyên Mộc Châu – Sơn La đóng

6
kịch theo cốt truyện nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ” của tác giả Nguyễn Thị
Thủy và còn rất nhiều những công trình khác nữa . Ở những công trình này,
theo những mục đích nghiên cứu khác nhau, chúng tôi nhận thấy các tác giả chủ
yếu quan tâm đến những vấn đề khái quát về giờ đóng kịch hoặc vai trò của
đóng kịch tới sự hình thành và phát triển nhân cách, đóng kịch với đời sống tinh
thần, đóng kịch với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em chứ chưa đi sâu nghiên
cứu tác động đặc biệt của giờ đóng kịch đối với việc hình thành KNGT cho trẻ
lứa tuổi mầm non.
Xuất phát từ thực tế đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hình thành kỹ năng
giao tiếp thông qua giờ đóng kịch chuyển thể từ tác phẩm văn học cho trẻ 4 đến 5
tuổi trường mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La”.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của các môn khoa học liên quan đến đề tài: Tâm lý
học, Giáo dục học, Văn học… và xuất phát từ tình hình thực tế về giờ đóng kịch
chuyển thể từ các TPVH với việc hình thành KNGT cho trẻ ở lứa tuổi 4 đến 5
tuổi, tôi tiến hành nghiên cứu và xây dựng một số biện pháp nâng cao hiệu quả
việc hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng
Bôm – Thuận Châu – Sơn La qua giờ đóng kịch chuyển thể từ TPVH.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận: đọc tài liệu, tổng hợp, phân tích các tài liệu có liên
quan tới cơ sở lý luận.
Nghiên cứu cơ sở thực tiễn: điều tra thực tiễn việc tổ chức giờ đóng kịch
chuyển thể từ các TPVH ở trường mầm non. Điều tra trình độ nhận thức cũng
như sự đánh giá và thực hiện của giáo viên mầm non về vai trò, ý nghĩa và tầm
quan trọng của giờ đóng kịch chuyển từ các TPVH tới sự hình thành KNGT của

trẻ 4 đến 5 tuổi ở trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu –
Sơn La.
Tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của các biện pháp.
Xử lí kết quả nghiên cứu.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn: tiếp tục tổng hợp và phân tích để xây
dựng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu

7
Hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi người dân tộc thiểu số miền núi
trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La qua giờ đóng
kịch chuyển thể từ các TPVH.
5.2. Địa bàn nghiên cứu
Trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La.
5.3. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn
La (6 giáo viên).
5.4. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của đề tài. Chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu việc hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi qua giờ đóng kịch từ
TPVH tại trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La.
Nhận thức của giáo viên mầm non về việc hình thành KNGT cho trẻ thông qua
giờ đóng kịch chuyển thể từ TPVH. Từ đó, chúng tôi đưa ra một số biện pháp
hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi thông qua giờ đóng kịch chuyển thể từ
TPVH.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài, lựa chọn, tổng hợp, hệ thống hóa
các vấn đề khái quát trong tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát.
Khảo sát hoạt động dạy và học ở độ tuổi 4 đến 5 tuổi tại trường Mầm non
Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La.
Phỏng vấn, trao đổi với giáo viên, phụ huynh, học sinh.
Sử dụng phiếu điều tra.
Phân tích, tổng hợp.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sử dụng các phương pháp đã đề xuất tác động đến trẻ nhóm thực nghiệm.
Dùng phương pháp thống kê xử lý các số liệu đã thu được


8
7. Giả thuyết khoa học
Thực tế giáo viên mầm non đã nhận thức được ý nghĩa, vai trò tầm quan
trọng của giờ đóng kịch chuyển thể từ TPVH đối với việc hình thành KNGT cho
trẻ 4 đến 5 tuổi. Tuy nhiên việc lựa chọn, tổ chức, thực hiện hoạt động còn gặp
khó khăn chưa đạt được hiệu quả cao trong hoạt động. Nếu khóa luận đề xuất
được những biện pháp phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của giờ đóng
kịch dựa vào TPVH về việc hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi, đa số trẻ là
người dân tộc thiểu số góp phần nâng cao chất lượng dạy học mầm non tại
trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng Bôm – Thuận Châu – Sơn La nói riêng và
hoàn thiện nhân cách trẻ nói chung.
8. Những đóng góp của khóa luận
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến sự hình
thành KNGT cho trẻ 4 dến 5 tuổi.
Tìm hiểu thực trạng việc tổ chức các giờ đóng kịch dựa theo TPVH nhằm
hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi tại trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng
Bôm – Thuận Châu – Sơn La.
Đề tài hoàn thành sẽ được lưu trữ tại thư viện trường Đại học Tây Bắc, là

tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành Mầm non, khoa Tiểu học – Mầm
non và những người quan tâm đến vấn đề này.
9. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận. Trong chương này chúng tôi đi vào nghiên cứu
những vấn đề đặc điểm tâm sinh lý trẻ mầm non nói chung và trẻ 4 đến 5 tuổi
nói riêng. Hình thành KNGT cho trẻ 4 đến 5 tuổi và vai trò, ý nghĩa của giờ
đóng kịch chuyển thể từ các TPVH đối với việc hình thành KNGT cho trẻ 4 đến
5 tuổi. Hình thức dạy học thông qua việc đóng kịch.
Chương 2: Thực trạng dạy học ở trường Mầm non Hoa Quỳnh Chiềng
Bôm – Thuận Châu – Sơn La. Ở đây chúng tôi đi vào tìm hiểu về đặc điểm tình
hình nhà trường, khả năng nhận thức của giáo viên mầm non về tầm quan trọng
của giờ đóng kịch được chuyển thể từ các TPVH, thực trạng việc tổ chức hoạt
động này như thế nào và tìm hiểu về đặc điểm của trẻ.
Những vấn đề nghiên cứu chính là cơ sở để chúng tôi đề xuất một số biện
pháp tổ chức giờ đóng kịch chuyển thể từ các TPVH.

9
Chương 3: Một số biện pháp tổ chức và gợi ý hoạt động cụ thể của giờ
đóng kịch chuyển thể từ TPVH. Trong chương này chúng tôi đề xuất các biện
pháp tổ chức giờ đóng kịch theo các TPVH: lựa chọn các TPVH để xây dựng
giờ đóng kịch, cho trẻ làm quen với TPVH đó, chuyển thể tác phẩm đó viết
thành kịch bản, hướng dẫn trẻ thực hiện nhập vai, tổ chức tập luyện, cho trẻ thực
hành biểu diễn.
Tác giả gợi ý một số hoạt động cụ thể, cấu trúc giáo án giờ đóng kịch,
thiết kế giáo án mẫu.

10
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 4 đến 5 tuổi
Trẻ em là đối tượng được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu,
các nhà tâm lý học cũng đã khẳng định nhịp độ phát triển của tuổi mầm non là
rất cao so với các độ tuổi sau này. Ở tuổi mầm non và đặc biệt là tuổi mẫu giáo,
sự tích lũy tri thức diễn ra rất mạnh, ngôn ngữ được hình thành, các quá trình
nhận thức được hoàn thiện, trẻ nắm được các phương pháp đơn giản của hoạt
động trí tuệ. Đây là giai đoạn trẻ cần được sự giáo dục – xã hội hóa một cách
tích cực. Giai đoạn này được chia làm hai thời điểm: tuổi nhà trẻ từ 1 – 3 tuổi,
tuổi mẫu giáo từ 3 – 5 tuổi. Đặc biệt trẻ 4 đến 5 tuổi, đây là độ tuổi MGN, là giai
đoạn “hoàn thiện hoạt động vui chơi và hình thành – xã hội trẻ em”. Khi trẻ
bước sang độ tuổi này, hoạt động vui chơi không chỉ là phát triển mạnh như lứa
tuổi MGB nữa mà nó đã đạt tới dạng chính thức. Chính trẻ trưởng thành được là
nhờ trò chơi, đó là điều mà các nhà giáo dục cần thấu hiểu.
Suốt cả cuộc đời, từ trẻ tới già, ở độ tuổi nào con người cũng đều tham gia
vào hoạt động vui chơi, nhưng chỉ ở tuổi mẫu giáo mà ở chính giữa cái tuổi ấy
(4 đến 5 tuổi) thì hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất, cũng
tức là nó đạt tới dạng chính thức và biểu hiện đầy đủ nhất đặc điểm của hoạt
động vui chơi, nhiều hơn cả là trò chơi đóng vai theo chủ đề, hay trò chơi đóng
kịch, đặc biệt là đóng kịch dựa theo TPVH. Có thể nói rằng hoạt động vui chơi ở
lứa tuổi MGN đang phát triển tới mức hoàn thiện. Ở lứa tuổi này, trong hoạt
động vui chơi trẻ đã thể hiện rõ rệt tính tự lực, tự do và chủ động. Ở độ tuổi này
cũng chính là thời kỳ mà kiểu tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh nhất.
Tuy nhiên nó chưa thể tách rời những hoạt động vật chất và hoạt động thực tiễn
của trẻ (vì đây là nguyên tắc cơ bản của hoạt động con người).
Trong lứa tuổi ấu thơ, tình cảm là lĩnh vực thống trị tất cả các mặt hoạt
động tâm lý của đứa trẻ. Đặc biệt ở tuổi MGN (4 đến 5 tuổi) thì đời sống tình
cảm của trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc hơn
so với độ tuổi trước đó. Ở độ tuổi này quan hệ của trẻ với những người xung
quanh được mở rộng ra một cách đáng kể, do đó tình cảm của trẻ cũng được

phát triển về nhiều phía đối với những người trong xã hội. Có thể nói đây là
nguồn xúc cảm mạnh mẽ nhất và quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của
trẻ MGN.
Khi trẻ ở lứa tuổi 3 đến 4 tuổi mới chỉ bắt đầu xuất hiện các động cơ như:
muốn tự khẳng định mình, muốn được sống và làm việc giống như người lớn,

11
muốn nhận thức sự vật và hiện tượng xung quanh nhưng khi trẻ bước sang lứa
tuổi 4 đến 5 tuổi thì các động cơ ấy đều được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt
những động cơ đạo đức, thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có
một ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi. Những
động cơ này gắn liền với việc lĩnh hội có ý thức những chuẩn mực về những quy
tắc đạo đức hành vi trong xã hội. Thời điểm này, những động cơ xã hội trẻ muốn
làm một cái gì đó cho người khác, mang lại niềm vui cho người khác bắt đầu
chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Và trong động cơ hành
vi của trẻ 4 đến 5 tuổi còn có thêm yếu tố thi đua giữa mình với các bạn, giữa tổ
mình với các tổ khác. Yếu tố thi đua kích thích trẻ hoạt động một cách tích cực.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng động cơ hành vi của trẻ MGN
đã trở nên nhiều màu, nhiều vẻ. Có thể kể đến như động cơ khẳng định, động cơ
nhận thức, muốn khám phá thế giới xung quanh, động cơ thi đua, động cơ xã
hội Trong những động cơ đó có thể có sự pha trộn mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Do đó cần phải quan tâm đến nội dung động cơ của trẻ, cần phải phát huy động
cơ tích cực và uốn nắn động cơ tiêu cực. Giai đoạn này cũng là giai đoạn các kỹ
năng học tập về nhận thức và ngôn ngữ của trẻ đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy,
mọi sự can thiệp sớm trong việc cải thiện các khả năng GT, ngôn ngữ và ứng xử
của trẻ cần phải đưa vào trong giai đoạn này.
1.2. Giao tiếp và sự hình thành kỹ năng giao tiếp
1.2.1. Giao tiếp
1.2.1.1. Khái niệm
Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lý học. Tư

tưởng về GT được đề cập đến từ thời cổ đại qua thời kỳ phục hưng và đến giữa
thế kỷ XX thì hình thành nên một chuyên ngành Tâm lý học giao tiếp. Ngay từ
khi còn là các tư tưởng về GT đến khi xuất hiện Tâm lý học giao tiếp thì khái
niệm, bản chất GT chưa bao giờ được thống nhất hoàn toàn. Mỗi tác giả mới chỉ
đề cập đến một mặt, một khía cạnh của hoạt động GT.
Tuy mới hình thành mấy chục năm gần đây nhưng trong chuyên ngành
Tâm lý học đã có nhiều ý kiến, quan điểm, thậm chí trái ngược nhau về GT. Khi
tìm hiểu khám phá bản chất GT các nhà Tâm lý học trong nước và ngoài nước
đã có các quan điểm làm sáng tỏ về GT:
* Trên thế giới
Nhà tâm lý học người Mỹ Osgood C.E cho rằng GT bao gồm các hành
động riêng rẽ mà thực chất là chuyển giao thông tin và tiếp nhận thông tin. Theo

12
ông, GT là một quá trình hai mặt: liên lạc và ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên
ông chưa đưa ra được nội hàm cụ thể của liên lạc và ảnh hưởng lẫn nhau. Sau
ông, nhà tâm lý học người Anh M.Argyle đã mô tả quá trình ảnh hưởng lẫn
nhau qua các hình thức tiếp xúc khác nhau. Ông coi GT thông tin mà nó được
biểu hiện bằng ngôn ngữ hay không bằng ngôn ngữ giống với việc tiếp xúc
thân thể của con người trong quá trình tác động qua lại về mặt vật lý và
chuyển dịch không gian. Đồng thời, nhà tâm lý học Mỹ T.Sibutanhi cũng làm
rõ khái niệm liên lạc như là một hoạt động mà nó chế định sự phối hợp lẫn
nhau và sự thích ứng hành vi của các cá thể tham gia vào quá trình GT hay
như là sự trao đổi hoạt động đảm bảo cho sự giúp đỡ lẫn nhau và phối hợp
hành động. Ông viết: “Liên lạc trước hết là phương pháp hoạt động làm giản
đơn hoá sự thích ứng hành vi lẫn nhau của con người. Những cử chỉ và âm
điệu khác nhau trở thành liên lạc khi con người sử dụng vào các tình thế tác
động qua lại”.
Các tác giả trên mới chỉ dừng lại ở sự mô tả bề ngoài của hiện tượng
GT. Cũng có nhiều ý kiến phản đối những cách hiểu trên, chẳng hạn như nhà

nghiên cứu người Ba Lan Sepanski đưa ra sự phân biệt giữa tiếp xúc xã hội
và tiếp xúc tâm lý (không được phép đồng nhất giữa liên lạc và ảnh hưởng lẫn
nhau). Đồng quan điểm với ông có một số nhà nghiên cứu khác như
P.M.Blau, X.R.Scott…
Các nhà tâm lý học Liên Xô cũ cũng rất quan tâm tập trung vào nghiên
cứu hiện tượng GT. Có một số khái niệm được đưa ra như GT là sự liên hệ và
đối xử lẫn nhau (từ điển tiếng Nga văn học hiện đại tập 8, trang 523 của NXB
Matxcơva), GT là quá trình chuyển giao tư duy và cảm xúc (L.X.Vgôtxki). Còn
X.L.Rubinstein lại khảo sát GT dưới góc độ hiểu biết lẫn nhau giữa người với
người.
Trường phái hoạt động trong tâm lý học Xô Viết cũng đưa ra một số khái
niệm về GT như là một trong ba dạng cơ bản của hoạt động con người, ngang
với lao động và nhận thức (B.G.Ananhev); GT và lao động là hai dạng cơ bản
của hoạt động của con người (A.N.Lêônchep); và GT là một hình thức tồn tại
song song cùng hoạt động (B.Ph.Lomov).
Một nhà tâm lý học nổi tiếng khác, Fischer cũng đưa ra khái niệm về GT
của mình: GT là một quá trình xã hội thường xuyên bao gồm các dạng thức ứng
xử rất khác nhau (lời lẽ, cử chỉ, cái nhìn). Theo quan điểm ấy, không có sự đối
lập giữa GT bằng lời và GT không bằng lời. GT là một tổng thể toàn vẹn.
* Ở Việt Nam

13
Theo “Từ điển Tâm lý học” của Vũ Dũng. GT là quá trình thiết lập và
phát triển tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. GT
bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt
động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. GT có ba khía cạnh chính: giao
lưu, tác động tương hỗ và tri giác.
Theo “Từ điển Tâm lý học” của Nguyễn Khắc Viện. GT là quá trình
truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm cho một người hay
một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (tương tác). Thông tin hay

thông điệp được nguồn phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên đều vận
dụng một mã chung.
Theo “Tâm lý học đại cương” của Trần Thị Minh Đức (chủ biên). GT là
quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức,
thông qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động
qua lại lẫn nhau.
Theo “Tâm lý học xã hội” của Trần Thị Minh Đức (chủ biên). GT là sự
tiếp xúc trao đổi thông tin giữa người với người thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, tư
thế, trang phục…
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về GT, mỗi tác giả tuỳ theo
phương diện nghiên cứu của mình đã rút ra một định nghĩa GT theo cách riêng
và làm nổi bật khía cạnh nào đó. Tuy vậy, số đông các tác giả đều hiểu GT là sự
tiếp xúc tâm lý giữa người với người nhằm trao đổi thông tin, tư tưởng tình
cảm GT là phương thức tồn tại của con người.
Nói tóm lại, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về GT và như vậy
dẫn đến rất nhiều phương pháp tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề về GT. Các
quan điểm trên đây còn nhiều điểm khác nhau nhưng đã phần nào phác họa
nên diện mạo bề ngoài của GT. Giao tiếp và hoạt động không tồn tại song
song hay tồn tại độc lập, mà chúng tồn tại thống nhất, chúng là hai mặt của sự
tồn tại xã hội của con người. GT được coi như: quá trình trao đổi thông tin;
sự tác động qua lại giữa người với người; sự tri giác con người bởi con người.
1.2.1.2. Hình thành giao tiếp
Từ khi mới sinh ra đứa trẻ dần dần lĩnh hội kinh nghiệm xã hội thông qua GT
xúc cảm với người lớn, qua đồ chơi và đồ vật xung quanh nó, qua ngôn ngữ…
Nghiên cứu của M.I.Lixinna và các nhà khoa học khác chứng minh
rằng đặc điểm GT của trẻ với người lớn và bạn cùng tuổi được thay đổi và phức
tạp dần trong suốt thời kì thơ ấu. Sự phát triển GT, sự phức tạp hoá và làm giàu

14
hình thức GT tạo nên những khả năng mới cho đứa trẻ tiếp thu kiến thức và

kĩ năng từ môi trường xung quanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng nhất đối với
sự phát triển tâm lí và hình thành nhân cách của đứa trẻ.
1.2.2. Kỹ năng giao tiếp
1.2.2.1. Khái niệm
Mỗi cá nhân cần phải được trang bị tốt với các công cụ GT hiệu quả, cho
dù đó là về mặt cá nhân, hoặc tại nơi làm việc. Trong thực tế, theo rất nhiều kinh
nghiệm quản lý, một người có khả năng GT tốt là người đó rất dễ thành công
trong công việc và trong cuộc sống. Theo từ điển khác nhau định nghĩa
của KNGT như sau:
KNGT bao gồm đọc môi, ngón tay chính tả, ngôn ngữ ký hiệu, quan hệ
giữa các cá nhân.
KNGT là khả năng sử dụng ngôn ngữ (tiếp thu) và bày tỏ (ý) thông tin.
KNGT là tập hợp các kỹ năng cho phép một người để truyền đạt thông tin
để nó nhận được và hiểu rõ. KNGT tham khảo các tiết mục của các hành vi phục
vụ để truyền đạt thông tin cho cá nhân.
KNGT là khả năng hiển thị cá nhân một cách nhất quán thể hiện khả năng
GT hiệu quả với khách hàng, đồng nghiệp, cấp dưới, và giám sát theo cách
chuyên nghiệp và trong các bộ phận cá nhân.
KNGT thường được hiểu là nghệ thuật, kỹ thuật thuyết phục thông qua
việc sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
KNGT là nghệ thuật là kỹ năng trao đổi tiếp xúc qua lại giữa các cá thể và
cũng có thể hiểu là các hình thức biểu lộ tình cảm, trò chuyện, diễn thuyết trao
đổi thư tín, thông tin.
KNGT là một trong những kỹ năng nền tảng, để giúp trẻ nhận biết các giá
trị sống và hình thành các kỹ năng sống. Vì thế cần được quan tâm và giúp trẻ
phát triển một cách tiệm tiến, từng bước một trong suốt chiều dài phát triển nhân
cách của trẻ.
1.2.2.2. Các hình thái đặc điểm của kỹ năng giao tiếp
Theo định nghĩa ở trên ta có thể thấy chúng ta GT hàng ngày hàng giờ
dưới nhiều hình thức gián tiếp hoặc trực tiếp bằng nhiều cách thức như nói, viết,

báo cáo gửi thư

15
Mặc dù có nhiều định nghĩa quan niệm khác nhau về KNGT nhưng nói
chung mọi người đều cho rằng GT là phải xây dựng bản thông điệp và gửi đi với
hi vọng người nhận sẽ hiểu được thông điệp đó, từ những lý do trên chúng ta có
thể dùng những KNGT phù hợp trong từng hoàn cảnh để có hiệu quả nhất. Có 4
hình thức trong KNGT.
Giao tiếp với chính bản thân: tự đưa ra thông tin, tự cảm nhận (suy ngẫm)
và cải thiện bản thân.
Giao tiếp nhân cách giữa cá nhân với cá nhân trong công việc cũng như
trong tình cảm, đời sống.
Giao tiếp giữa các cá nhân trong một nhóm.
Giao tiếp giữa các nhóm với nhau để hoàn thành công việc chung của tổ chức.
1.2.2.3. Sự hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 4 đến 5 tuổi
Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người, nhờ có
KNGT mà con người có thể chung sống và hòa nhập trong một xã hội không
ngừng biến đổi. Vì vậy để thực hiện các mục tiêu giáo dục thì điều cần thiết là
phải hình thành và phát triển ở các em KNGT. Dạy cho học sinh biết cách GT
có hiệu quả, chính là dạy cho các em biết cách nhận thức đúng đắn về mình,
nhận biết về đối tượng GT, biết cách tiếp cận với đối tượng GT và biết bày tỏ
thái độ, quan điểm của mình bằng lời nói cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng cả
những việc làm khi cần thiết. KNGT giúp cho học sinh biết cách giải quyết
những tình huống trong cuộc sống hàng ngày, giúp các em nói những điều muốn
nói, làm những việc nên làm, đồng thời biết lắng nghe và thấu hiểu người khác.
Đây là một nội dung vô cùng quan trọng trong giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh trong bối cảnh hiện nay. KNGT không tồn tại độc lập mà nó có quan hệ mật
thiết với kỹ năng tự nhận thức và các kỹ năng khác.
Con người là một sinh vật xã hội, ngay từ khi sinh ra, con người đã có nhu
cầu liên lạc, GT và ứng xử với môi trường và những người xung quanh để phát

triển và tồn tại. Vì thế KNGT được xem là một trong những kiến thức nền tảng
của con người. Không phải đợi đến khi trẻ đi học, thì cha mẹ mới quan tâm đến
việc dạy trẻ KNGT, mà ngay từ nhỏ đã phải có những quan tâm và tác động đến
việc phát triển kỹ năng cần thiết này.
Ngay từ khi bé chào đời, thì GT đã là một kỹ năng quan trọng giúp bé tồn
tại và phát triển, bé GT qua ánh mắt, qua các cử động của tay chân và đặc biệt là
qua tiếng khóc. Một người mẹ có sự quan tâm và gần gũi con chắc chắn sẽ hiểu
khi nào bé khóc vì đói, khi nào bé khóc vì đau, vì sợ và cả vì nhõng nhẽo nữa.

16
Đối với trẻ từ 3 – 6 tuổi là cột mốc rất quan trọng cho việc phát triển khả
năng học hỏi, hình thành và phát triển tính cách, KNGT của trẻ. Bác sĩ Thái
Thanh Thủy, Trưởng khoa tâm lý, Bệnh viện Nhi đồng 2, cho biết: trẻ có thể
cảm nhận và thể hiện những cảm xúc vui buồn khi 3 – 4 tuổi. Sang 5 tuổi, trẻ thể
hiện khả năng kiểm soát cảm xúc của mình ở những mức độ khác nhau. Lúc
này, trẻ biết tư duy, suy nghĩ về những điều cần hỏi. Vốn từ vựng tăng nhanh
giúp trẻ có thể diễn đạt tình cảm và ý tưởng gần giống người lớn. Tốc độ dẫn
truyền thông tin nhanh giúp trẻ phát triển nhận thức, tư duy từ đó phát triển
KNGT, học hỏi.
Khi ở lứa tuổi 4 đến 5 tuổi trẻ đã biết nói tốt, có số lượng vốn từ tương đối
nhiều, lúc này bé có thể sử dụng ngôn ngữ để GT, kết hợp với khả năng bộc lộ
cảm xúc thông qua GT phi ngôn ngữ qua ánh mắt với những nét mặt và các dấu
hiệu của cơ thể, nếu được đáp ứng đầy đủ sẽ giúp cho bé hình thành sự tự tin
vào bản thân cũng như xây dựng những mối tương giao với mọi người xung
quanh.
Ở lứa tuổi này, trẻ đang trong giai đoạn thích học hỏi, suy nghĩ của chúng
tỏ ra độc lập hơn. Trẻ có nhiều đòi hỏi nhưng cũng rất háo hức hợp tác; bộc lộ
các hứng thú và đam mê cao với ca hát, nhảy múa và diễn xuất; tràn trề các suy
nghĩ tưởng tượng; cố gắng phân biệt sự khác nhau giữa thực tế và hình ảnh
tưởng tượng. Trong thời gian này, ngôn ngữ và vốn từ vựng của trẻ đang phát

triển rất nhanh. Trẻ học rất nhanh, nhớ mọi thứ, nhận ra mọi sự thay đổi.
Trẻ 4 đến 5 tuổi cũng thích chơi trò đóng vai các nhân vật khác trong giờ
đóng kịch hay nhân vật ngoài thực tế và ở mức độ công phu dần. Đặc biệt trẻ 5
tuổi hầu hết trẻ ở độ tuổi này rất nghiêm túc muốn học hỏi.
Trẻ bắt đầu lên bốn luôn tràn trề năng lượng, nói luôn miệng và khá tò
mò. Trẻ háo hức muốn thể hiện cho bạn những gì bé làm được và cả bạn lẫn bé
sẽ cùng thấy thú vị, thích thú với những thành quả đạt được của nó. Chúng luôn
muốn thử môi trường xung quanh mình và lúng túng trong các cảm giác giữa an
toàn và bất an. Trẻ cũng có thể là một tên láu cá, kiêu ngạo, thích đặt chuyện và
bạn sẽ phải trải qua các cung bậc thăng trầm của cảm xúc với tuổi này của
chúng, bởi mỗi ngày trôi qua sẽ là một thách thức mới cho trẻ.
Bốn tuổi, bé chưa sẵn sàng để chú ý vào một việc gì đó trong thời gian
quá lâu.
Trẻ em ở độ tuổi này thường rất tự nhiên và chỉ hiểu theo nghĩa đen, do
đó chưa thể nói những lời hoặc những trò đùa có ẩn ý được. Các em thường

17
thích những phim video và sách hình vui, đặc biệt loại sách và phim xuất hiện
những con thú có tính hư cấu hay những người ngờ nghệch.
Với thế giới của trẻ lên 4. Trong suốt năm thứ tư này, bé sẽ tiếp tục hoàn
thiện các kỹ năng cũ đồng thời phát triển các kỹ năng mới. Mọi điều mới lạ đều
làm trẻ hứng thú. Có thể nói trẻ bây giờ đang “dư thừa” trí tò mò và năng lượng.
Trẻ 4 – 5 tuổi có những bước tiến lớn về trí tuệ, trẻ rất tò mò chúng thích
khám phá những điều mới lạ, chúng có thể kiên trì luyện tập để thành thục hơn.
và chúng tin vào những gì chúng nhìn thấy, nghe thấy và chạm tay vào. Vì vậy,
đây chính là thời điểm cung cấp, hình thành KNGT cho trẻ hiệu quả và thích
hợp. Sự hỗ trợ tích cực của giáo viên trong giai đoạn này sẽ giúp trẻ phát triển
KNGT, học hỏi của mình một cách có hiệu quả nhất.
Sự phát triển và hoàn thiện chức năng não bộ liên quan mật thiết tới tốc
độ dẫn truyền thông tin ở tế bào thần kinh, đảm bảo thông tin được truyền đi

nhanh và chính xác. Tốc độ dẫn truyền thông tin nhanh giúp trẻ phát triển nhận
thức, tư duy từ đó phát triển KNGT, học hỏi.
Bên cạnh đó, vai trò giáo dục và sự hỗ trợ của cha mẹ trong giai đoạn
cũng rất quan trọng. Trẻ nhận được những kích thích tích cực của môi trường
trong những năm tháng đầu đời thông qua các hoạt động vui chơi sẽ giúp phát
triển trí tuệ, hình thành những cảm xúc tích cực. Điều này tạo điều kiện hình
thành cho trẻ từ kỹ năng phân tích đến các KNGT.
Vì thế KNGT được xem là một năng lực cần thiết cho trẻ mở rộng quan
hệ từ trong gia đình, trường lớp cho đến ngoài xã hội. Đây là một kỹ năng phức
tạp bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, vì thế ngoài năng lực nội tại của trẻ, phụ
huynh và giáo viên cần quan tâm giúp trẻ phát triển về KNGT bằng cách kích
thích nhiều giác quan, mà chủ yếu là nghe, nhìn và đụng chạm.
1.2.2.4. Tác phẩm văn học và sự hình thành kỹ năng giao tiếp
Ngôn ngữ được xem là công cụ chính trong việc GT, từ khi sinh ra cho
đến khi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên thì trẻ GT bằng tiếng khóc, và cử chỉ,
ánh mắt
Việc giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ thông qua giờ đóng kịch theo
các TPVH, cho trẻ chơi những trò chơi phát triển ngôn ngữ, đọc sách hay kể
chuyện cho trẻ nghe là những hoạt động cần thiết để giúp trẻ đạt được sự GT tốt
nhất cũng như hình thành cho trẻ những KNGT.
Như chúng ta đã biết trong mọi thời đại giáo dục chiếm một vị trí quan
trọng trong xã hội. Trong hệ thống giáo dục quốc dân giáo viên mầm non là

18
người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo con người cho xã hội tương
lai phát triển toàn diện. Và văn học góp phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn
diện nói chung và hình thành KNGT cho trẻ nói riêng.
Văn học là suối nguồn không cạn của tri thức, là kinh nghiệm sống mà
con người cần tiếp thu và phát triển. Nó trở thành phương tiện hữu hiệu cho mục
đích giáo dục trẻ. Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nga V.G Bielinxki từng

nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục mà giáo dục là một sự
nghiệp vĩ đại vì nó quyết định số phận con người”. (V.G Bielinxki toàn tập, Tập
IV, Mátxcơva, NXB Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, 1954, trang 79).
1.2.3. Đặc điểm tiếp nhận văn học của trẻ
Văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ thơ được tiếp xúc rất sớm
ngay từ tuổi ấu thơ trẻ đã được làm quen với các giai điệu nhẹ nhàng – tha thiết
qua những lời hát ru, được nghe những câu chuyện cổ tích ly kỳ – hấp hẫn đầy
tình thương yêu và lòng nhân ái. Văn học trở thành phương tiện hữu hiệu để
giáo dục cho trẻ một cách toàn diện. Nhưng để văn học thực sự phát huy hết vai
trò đối với trẻ, trước tiên giáo viên cần nắm bắt được đặc điểm tiếp nhận TPVH
của trẻ, có như vậy giáo viên mới biết sử dụng chúng và định hướng trẻ tri giác
TPVH đạt hiệu quả mong muốn.
Trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi chưa biết đọc nên trẻ chưa tự mình tiếp xúc trực
tiếp với TPVH, nên việc nắm bắt tác phẩm ở trẻ dường như phụ thuộc vào cô
giáo. Cô giáo dẫn dắt trẻ làm quen với các TPVH không chỉ dừng lại ở việc đọc,
kể mà còn bao gồm cả việc dạy cho trẻ kể lại truyện một cách diễn cảm, sáng
tạo và đóng vai các nhân vật trong truyện (đóng kịch).
Sự tiếp nhận văn học của trẻ có những đặc điểm sau:
* Tiếp nhận gián tiếp
Trẻ mầm non chưa biết đọc cho nên chúng tiếp nhận các thể loại văn học
nghệ thuật thông qua khâu trung gian là giáo viên. Với tư cách là người trực tiếp
đọc tác phẩm rồi đọc, kể lại một cách trung thành với nội dung văn bản. Do đặc
điểm tiếp nhận gián tiếp này, trẻ thiếu đi tính chủ động, giảm trừ đáng kể khả
năng trực cảm, trực giác dựa trên sự phối hợp và hòa quyện giữa các cơ quan
cảm thụ. Như vậy việc đọc, kể các TPVH một cách diễn cảm, sáng tạo, sống
động của giáo viên ở trên lớp có ảnh hưởng rất lớn đến sự cảm thụ văn học
nghệ thuật và việc thể hiện lại tác phẩm của trẻ.
* Tiếp nhận văn học của trẻ mang tính tập thể

×