MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
2
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục trong xu hướng hiện nay không chỉ hướng vào mục tiêu tạo ra nguồn
nhân lực có tay nghề, kiến thức chuyên sâu, mà còn hướng đến sự phát triển đầy đủ, tạo ra
giá trị và năng lực cho mỗi cá nhân. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế -
xã hội và giao lưu quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều, phức tạp ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển nguồn nhân lực này, trong đó một bộ phận không nhỏ là
sinh viên. Nếu không có năng lực để ứng phó vượt qua những thách thức đó và hành động
theo cảm tính, thì những đối tượng này rất dễ gặp rủi ro và thất bại trong cuộc sống.
Chính vì vậy trong Diễn đàn thế giới về giáo dục cho mọi người họp tại Senegan
(2000) Chương trình hành động Dakar đã đề ra 6 mục tiêu, trong đó mục tiêu 3 nói rằng
“Mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học được tiếp cận chương trình giáo dục kĩ năng
sống phù hợp”, và mục tiêu 6 yêu cầu “Khi đánh giá chất lượng giáo dục cần phải đánh
giá kĩ năng sống của người học”. Như vậy, học kĩ năng sống là quyền của người học và
chất lượng giáo dục phải được thể hiện cả trong kĩ năng sống của người học [15].
Hiện nay, giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên là một vấn đề hết sức quan trọng
trong đào tạo đại học cũng như trong sự nghiệp giáo dục nói chung, nhằm cung ứng
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với yêu cầu ngày càng cao của xã hội hiện nay đã và đang đặt ra cho các trường đại học,
cao đẳng nhiệm vụ không ngừng đổi mới công tác đào tạo, nhằm trang bị cho sinh viên
những kiến thức toàn diện về tri thức khoa học, đạo đức, lối sống, kỹ năng nghề nghiệp,
kỹ năng ứng phó với những đòi hỏi của cuộc sống đang chuyển biến nhanh chóng từng
ngày.
Bên cạnh việc cung cấp một lượng kiến thức lớn và chuyên sâu để làm nền tảng tri
thức giúp cho người học thành công trong học tập và lao động, thì việc trang bị cho sinh
viên những kỹ năng thuộc về xã hội cũng không kém phần quan trọng trong giáo dục hiện
nay. Những kỹ năng này được nhiều nhà chuyên gia trên thế giới nhận định rằng nó vô
cùng cần thiết cho sự phát triển một cách toàn diện của người học. “Với IQ người ta tuyển
lựa bạn nhưng với EQ người ta đề bạt bạn” [26]. Ngày nay, người ta không chỉ quan tâm
đến chỉ số IQ (Intelligence Quotient: Chỉ số thông minh) mà ngày càng chú ý hơn đến chỉ
số EQ (Emotional Quotient: Chỉ số thông minh cảm xúc). Bên cạnh đó, sự chủ động trong
tiếp cận và giải quyết công việc cũng như sự năng động và nhạy bén trong tiếp cận các
vấn đề xã hội luôn được đánh giá cao. Tuy nhiên, những điều này lại là kết quả của một
quá trình tích lũy lâu dài và không phải là những điều mà kiến thức lý thuyết có thể đưa
lại.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và đào tạo đã thực hiện giáo
dục kỹ năng sống với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là tổ chức UNICEF tại
3
Việt Nam. Tuy nhiên, giáo dục kỹ năng sống hiện nay chỉ mới chú trọng vào việc xây
dựng, nội dung này cho các đối tượng là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông
mà chưa quan tâm nhiều đến đối tượng bậc Cao đẳng và Đại học. Trong khi thực tế cho
thấy sinh viên hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn trong khả năng thích ứng với xu thế
chung, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kỹ năng sống cần thiết.
Nhận thấy khiếm khuyết của nền giáo dục đại học Việt Nam về giáo dục kỹ năng
sống và trước nhu cầu cao của xã hội, các doanh nghiệp, các trung tâm đào tạo huấn luyện
ngắn hạn về kỹ năng sống đã mọc lên như nấm và thu hút khá đông người theo học. Một
số trường đại học trước tình hình này cũng đã bước đầu chú trọng hơn đến việc giáo dục
kỹ năng sống cho sinh viên. Và một trong nhiều hình thức nhằm giáo dục kĩ năng sống
cho sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng hiện nay, thì việc tăng cường thực hành
kỹ năng sống, thông qua việc khuyến khích sinh viên tham gia các hoạt động tình nguyện
là một trong những giải pháp được nhiều sự lựa chọn của các trường hiện nay. Tham gia
hoạt động tình nguyện mang đến cho sinh viên cơ hội được trải nghiệm thực tế, rèn luyện
và vận dụng các kiến thức đã học vào môi trường thực tế, giúp sinh viên khám phá lĩnh
vực mà mình thật sự có tài năng và phát triển các kĩ năng mới - thậm chí là làm việc thực
sự đúng với ngành nghề đang học.
Như vậy, rõ ràng việc tăng cường giáo dục, rèn luyện các kỹ năng sống trong những
năm đại học cho sinh viên để giúp họ rút ngắn khoảng cách từ biết, hiểu, đến làm việc
có năng suất cao một cách chuyên nghiệp, thích nghi nhanh hơn với công việc, hợp
tác được với đồng nghiệp… là điều hết sức cấp bách. Và việc biến những kiến thức về
kỹ năng sống thành kỹ năng thực thụ đòi hỏi sự thực hành và rèn luyện thường xuyên.
Trong rất nhiều hình thức giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên hiện nay, thì việc tạo một
môi trường trải nghiệm thực tế, chẳng hạn như tham gia hoạt động tình nguyện, nhằm
giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng sống, là điều hết sức cần thiết. Tuy vậy, những quan sát
thực tế cho thấy, tỷ lệ sinh viên chưa quan tâm nhiều tác động của việc tham gia hoạt
động tình nguyện đến sự hình hành và rèn luyện kỹ năng sống ở một số trường đại học
còn khá cao.
Đào tạo thích ứng với nhu cầu xã hội là con đường tất yếu mà mọi trường Đại học
phải đạt tới, trong đó có Đại học Thủ Dầu Một. Với qui mô gần 12.000 sinh viên, Đại học
Thủ Dầu Một là trường đại học công lập duy nhất của tỉnh Bình Dương, với định hướng
trở thành một trong những trường đại học uy tín đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
bồi dưỡng nhân tài phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Bình Dương và
trên cả nước. Để thực hiện được sứ mạng đó, bên cạnh công tác đào tạo kiến thức chuyên
môn, thì giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên cũng là một trong những công tác trọng tâm
của nhà trường. Tuy nhiên, việc rèn luyện kỹ năng sống cho sinh viên thông qua hình thức
tham gia hoạt động tình nguyện có phải là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất trong
4
công tác giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên của trường hiện nay hay không. Và sinh
viên của Trường Đại học Thủ Dầu Một có nhận thấy được sự tác động của việc tham gia
tình nguyện đối với sự hình thành kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp và kỹ năng
làm việc nhóm không, vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này.
Chính vì lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tác động của việc tham gia
các hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành kỹ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc
nhóm của sinh viên trường đại học Thủ Dầu Một hiện nay” với mong muốn là thông qua
đó, có thể giúp cho Nhà trường, và đặc biệt là sinh viên có cái nhìn khái quát hơn về vấn
đề này.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Tìm hiểu những tác động của việc tham gia hoạt động tình nguyện đối với sự hình
thành kỹ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu
Một hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
− Thứ nhất, tình hình tham gia hoạt động tình nguyện của sinh viên trường Đại học Thủ
Dầu Một hiện nay. Việc tham gia được xem xét ở các khía cạnh sau:
+ Nơi tham gia hoạt động
+ Các loại hình tham gia hoạt động
+ Mức độ tham gia
+ Động cơ tham gia hoạt động
− Thứ hai, mối quan hệ giữa việc tham gia các hoạt động tình nguyện với sự hình thành kĩ
năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm.
− Thứ ba, đánh giá tác động của việc tham gia các hoạt động tình nguyện đến sự hình thành
kỹ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một. Sự tác
động được xem xét ở các khía cạnh sau:
+ Hiệu quả của việc tham gia các hoạt động tình nguyện đến sự hình thành kỹ năng giao
tiếp và kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một.
+ Nhận thức của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một về vai trò của việc tham gia các hoạt động
tình nguyện đến sự hình thành kỹ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm.
− Thứ tư, đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động tình nguyện
trong việc hình thành kĩ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra, đề tài sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
− Thu thập tài liệu và số liệu thứ cấp liên quan đến đề tài đang nghiên cứu.
− Nghiên cứu, khái quát và làm rõ một số lý thuyết cũng như khái niệm nhằm làm cơ
sở lý luận trong việc nghiên cứu đề tài. Tìm ra mối quan hệ giữa việc tham gia các hoạt
5
động tình nguyện với sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm. Từ đó,
chỉ ra được sự tác động của việc tham gia các hoạt động tình nguyện đến sự hình thành
hai kĩ năng này cho sinh viên.
− Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp một phần nhỏ những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động tình nguyện trong việc hình thành kĩ năng giao
tiếp và kĩ năng làm việc nhóm cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một nói riêng, và của sinh
viên Bình Dương nói chung.
4. ĐỐI TƯỢNG – KHÁCH THỂ - PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của việc tham gia các hoạt động tình
nguyện đối với sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên
trường đại học Thủ Dầu Một hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là sinh viên hệ chính qui tham gia hoạt động tình
nguyện đang theo học tại trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và kinh phí nên đề tài không thể nghiên cứu trên bình diện
rộng như tác giả mong muốn. Chính vì thế, đề tài chỉ nghiên cứu:
− Về không gian:
Đề tài tập trung nghiên cứu tại trường Đại học Thủ Dầu Một.
− Về thời gian:
Thời gian thực hiện nghiên cứu: Từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014.
− Về nội dung:
Đề tài chỉ tập trung tìm hiểu sự tác động của việc tham gia các hoạt động tình
nguyện đến sự hình thành kỹ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại
học Thủ Dầu Một.
5. Ý NGHĨA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
5.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu có một số đóng góp:
6
Việc nhận định một cách cụ thể tác động của việc tham gia các hoạt động tình
nguyện đến sự hình thành những kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm cho sinh
viên là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Nó không chỉ giúp cho sinh viên trong
việc học tập mà còn góp phần lớn trong việc hình thành những kỹ năng giao tiếp và kỹ
năng làm việc nhóm cần thiết cho sinh viên trong cuộc sống và trên con đường lập
nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay, đa số sinh viên chưa thật sự xem trọng và chưa nhận thức
đúng về vai trò của các hoạt động tình nguyện đến sự hình thành hai kỹ năng nói trên. Vì
vậy, đề tài mong muốn bổ sung vào hệ thống lí luận các tài liệu tham khảo cho sinh viên,
nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề này.
Bên cạnh đó, trong quá trình ứng dụng lý thuyết công tác xã hội và xã hội học
nhằm đối chiếu với thực tiễn đã giúp tác giả có thể hiểu sâu sắc hơn các lý thuyết đã được
học.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho các cấp quản lí, đặc biệt là
các tổ chức Đoàn – Hội có cái nhìn tổng quát về sự tác động của các hoạt động tình
nguyện đến sự hình thành kỹ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên,
những mong muốn của sinh viên về việc tham gia các hoạt động tình nguyện. Đây là cơ
sở để các tổ chức Đoàn – Hội xây dựng các hoạt động tình nguyện phù hợp cho sinh viên,
thúc đẩy sinh viên tham gia tích cực vào các hoạt động tình nguyện và rèn luyện kĩ năng
cho sinh viên.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KỸ THUẬT NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài nghiên cứu thực nghiệm xã hội học nên phương pháp nghiên cứu
chính được sử dụng là phương pháp nghiên cứu định lượng. Thông qua việc thu thập, xử
lý và phân tích các thông tin định lượng, cũng như các dữ liệu thống kê sẵn có, đề tài sẽ
tìm hiểu các hoạt động tình nguyện chủ yếu mà sinh viên Đại học Thủ Dầu Một tham gia,
đồng thời, chỉ ra sự tác động của việc tham gia đó đến việc hình thành kĩ năng giao tiếp
và kĩ năng làm việc nhóm cho sinh viên. Từ đó, có cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên
cứu và dự báo xu hướng biến đổi trong tương lai.
Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để giải thích
rõ hơn mối quan hệ giữa việc tham gia các hoạt động tình nguyện với việc hình thành kĩ
năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên. Từ đó, đưa ra những đánh giá sát
thực về hiệu quả tích cực của các hoạt động tình nguyện mang lại cho việc hình thành kỹ
năng mềm cho sinh viên. Đồng thời, tác giả sẽ có những đề xuất mang tính giải pháp phù
hợp với tình hình thực tế.
6.2. Kỹ thuật nghiên cứu
7
6.2.1.Kỹ thuật thu thập thông tin
6.2.1.1. Kỹ thuật thu thập thông tin định lượng
Bằng cách phỏng vấn dựa trên bảng hỏi anket, thông tin định lượng được thu thập
sẽ phản ánh được nội dung chính đó tác động của việc tham gia hoạt động tình nguyện
đối với sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại học
Thủ Dầu Một hiện nay.
Để đảm bảo các thông tin thu thập mang tính đại diện, đòi hỏi người nghiên cứu
phải nắm được tổng số sinh viên toàn trường, cũng như số lượng sinh viên của từng năm
học. Nhưng do một số hạn chế về thời gian và kinh phí tổ chức nên chúng tôi quyết định
tiến hành chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu cụm kết hợp ngẫu nhiên phân tầng.
Quy trình chọn mẫu được tiến hành như sau:
− Bước 1: Coi mỗi khoa của trường Đại học Thủ Dầu Một là một cụm mẫu. Lập danh sách
tất cả các khoa làm khung mẫu.
− Bước 2: Trên cơ sở khung mẫu, chọn ra 10 khoa trong hai lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tự
nhiên bằng phương pháp ngẫu nhiên phân tầng có tỉ lệ (hay còn gọi là mẫu tỉ lệ hay mẫu
hạn ngạch) theo tiêu chí là khoa được chọn phải có sinh viên năm 2, năm 3, năm 4 (hoặc
năm cuối đối với hệ cao đẳng), và sinh viên được chọn phải là sinh viên có tham gia hoạt
động tình nguyện (bằng cách sử dụng câu hỏi lọc trong lúc khảo sát) và đang học từ năm
2 trở lên. Theo đó, tỉ lệ được lập dựa trên tổng mẫu là 6:3:1 tương đương với tỉ lệ sinh
viên năm 2, năm 3 và năm 4 là 90:45:15.
− Việc lựa chọn theo những tiêu chí trên có ý nghĩa rằng, những sinh viên này có thể cung
cấp nhiều thông tin nhất cho vấn đề cần tìm hiểu, đáp ứng mục tiêu của cuộc nghiên cứu
đề ra.
− Với dung lượng mẫu là 150, việc chọn mẫu được thể hiện qua sơ đồ sau đây:
Mẫu chọn
100%
n=150
Lĩnh vực xã hội Lĩnh vực tự nhiên
8
60% 40%
n
11
=90 n
12
=60
Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 2 Năm 3 Năm 4
60% 30% 10% 60% 30% 10%
n
111
=54 n
112
=27 n
113
=9 n
121
=36 n
122
=18 n
123
=6
Trong đó:
• Lĩnh vực xã hội bao gồm: khoa Khoa học giáo dục, khoa Công tác xã hội, khoa Quản trị
kinh doanh, khoa Ngoại ngữ, khoa Ngữ Văn.
• Lĩnh vực tự nhiên bao gồm: khoa Điện – Điện tử, khoa Công nghệ thông tin, khoa Kiến
trúc, khoa Xây dựng, khoa Môi trường.
− Cấu trúc bảng hỏi gồm 22 câu hỏi trong đó có những câu hỏi đóng, câu hỏi mở, câu hỏi
có nhiều lựa chọn và câu hỏi kết hợp. Nội dung chính bao gồm hai phần cơ bản sau:
• Phần 1: Gồm 3 câu hỏi về giới tính, ngành học và năm đang theo học của đối tượng
nghiên cứu, dùng để mô tả đặc điểm mẫu điều tra và phân tổ chính khi xử lý thông tin
định lượng.
• Phần 2: Gồm 19 câu hỏi về các hoạt động tình nguyện hiện nay mà các bạn sinh viên
tham gia, mức độ tham gia, nhận thức về vai trò và sự tác động của việc tham gia hoạt
động tình nguyện đến sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh
viên hiện nay.
6.2.1.2. Phương pháp phỏng vấn sâu: bằng hình thức phỏng vấn sâu, nghiên cứu định
tính nhằm hỗ trợ trong việc khai thác sâu những suy nghĩ, quan điểm, nhận thức của sinh
viên về vai trò của kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm, cũng như những tác động
của việc tham gia hoạt động tình nguyện đến sự hình thành hai kĩ năng này. Tác giả chọn
những bạn sinh viên trong khu vực khảo sát – là những người có thành tích nổi bật trong
hoạt động tình nguyện, và có thái độ tích cực, nhiệt tình trong quá trình trả lời phiếu khảo
sát.
Bên cạnh đó, để đảm bảo có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề đang nghiên cứu,
chúng tôi tìm hiểu quan điểm từ phía các nhà lãnh đạo của các tổ chức Đoàn – Hội, các
phòng ban như Bí thư Đoàn trường, Phó Chủ tịch Hội Sinh viên, Trưởng phòng Công tác
sinh viên.
Hình thức: phỏng vấn bán cấu trúc, dựa theo danh mục các câu hỏi mà đề tài
nghiên cứu quan tâm.
6.2.1.3. Phương pháp chọn mẫu phỏng vấn sâu:
9
− 06 sinh viên: gồm có 2 sinh viên năm 2, 2 sinh viên năm 3 và 2 sinh viên năm 4 (hoặc
năm cuối), trong đó có 2 sinh viên chỉ tham gia hoạt động trong trường, 2 sinh viên chỉ
tham gia hoạt động ngoài trường và 2 sinh viên tham gia cả hai. Việc chọn mẫu như trên
nhằm giúp người nghiên cứu khai thác sâu những thông tin về quan điểm của sinh viên,
giúp người nghiên cứu có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu.
− 02 cán bộ chuyên trách của những nơi tổ chức hoạt động tình nguyện mà sinh viên
thường tham gia (gồm có 01 Bí thư Đoàn trường Đại học Thủ Dầu Một, 01 Phó giám đốc
Trung tâm hoạt động Thanh niên tỉnh Bình Dương) nhằm tìm hiểu những hoạt động tình
nguyện chính hiện nay mà sinh viên tham gia, đồng thời khai thác sâu những thông tin
liên quan đến công tác giáo dục kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm cho sinh viên
thông qua các hoạt động tình nguyện.
Tóm lại, toàn bộ mẫu điều tra có 150 đối tượng điều tra định lượng, 8 đối tượng điều
tra định tính.
6.2.2.Phương pháp xử lý và dữ liệu phân tích
Các tư liệu thu thập từ nhiều nguồn như sách, báo, tạp chí, Internet… sẽ được tiến
hành tổng kết và điểm luận theo chủ đề, đề mục cụ thể và rõ ràng nhằm có một cái nhìn
bao quát về các hoạt động tình nguyện nói chung và tác động của nó đến việc hình thành
kĩ năng mềm cho sinh viên nói riêng. Ngoài ra, các tài liệu này cũng sẽ dùng để phân tích
những hiệu quả tích cực của các hoạt động tình nguyện mang lại trong việc hình thành kĩ
năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một.
Các thông tin định lượng, thu thập từ bảng hỏi anket được xử lý và hệ thống theo
nội dung dựa vào phần mềm SPSS 20.0. Các câu hỏi mở cũng sẽ được mã hóa lại và cũng
được xử lý như những câu hỏi đóng.
Đối với các cuộc phỏng vấn được ghi âm bằng phương pháp phỏng vấn sâu sẽ
được gỡ băng phỏng vấn và phân tích thông tin được ghi nhận.
7. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Thuận lợi
− Đề tài được thực hiện ở tại trường nơi tác giả đang học tập và hoạt động nên có
nhiều thuận lợi trong quá trình thu thập thông tin. Các bạn sinh viên đây rất nhiệt tình
trong việc trả lời các câu hỏi phỏng vấn đã giúp cho người nghiên cứu có được những
thông tin xác thực nhất về vấn đề nghiên cứu.
10
− Sự tận tình của giáo viên hướng dẫn đã giúp cho tác giả rất nhiều trong suốt quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
7.2. Hạn chế của đề tài
− Về thời gian và kinh nghiệm: Do đề tài được thực hiện trong quá trình học với lịch học
khá dày nên tác giả không có nhiều thời gian làm bài. Bên cạnh đó, tác giả chưa có nhiều
kinh nghiệm và kỹ năng trong nghiên cứu khoa học, nên trong quá trình làm bài còn rất
nhiều thiếu sót.
− Về nội dung: Do hạn chế về thời gian và kinh phí nên đề tài chưa đi sâu khai thác tác
động của việc tham gia hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành nhiều kỹ năng sống
khác mà chỉ tập trung ở hai kỹ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm.
− Về phương pháp chọn mẫu: với phương pháp chọn mẫu như trên (xem phần “Phương
pháp nghiên cứu và kỹ thuật nghiên cứu”), điều đầu tiên khẳng định là mẫu thiết kế của
đề tài không mang tính chất đại diện cho khu vực rộng, mà phần nào chỉ đại diện cho địa
bàn nơi khảo sát. Vì vậy, việc so sánh kết quả của nghiên cứu này với nghiên cứu khác chỉ
mang tính tham khảo cũng như việc suy rộng nghiên cứu cần được cân nhắc trước khi sử
dụng.
8. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài chia thành 03 phần: Phần Mở đầu, Phần Nội dung và Phần Kết luận – Kiến
nghị. Trong phần Nội dung, tác giả chia thành 03 chương, trong đó: Chương I: Cơ sở lí
luận và thực tiễn, Chương II: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và mẫu nghiên cứu, Chương
III: Đánh giá tác động của việc tham gia các hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành
kỹ năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hoạt động tình nguyện vốn diễn ra trong đời sống của người dân Việt Nam từ thời
xa xưa trên tinh thần “Lá lành đùm lá rách”. Hoạt động này trở thành phong trào thì có
thể kể đến các phong trào tình nguyện ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, thời kỳ kiến quốc. Hoạt động tình nguyện ngày càng đi vào cuộc sống trên nhiều lĩnh
vực hoạt động khác nhau, đặc biệt, trong hơn 10 năm trở lại đây, hoạt động tình nguyện ở
11
Việt Nam có nhiều khởi sắc. Hoạt động tình nguyện tại Việt Nam hết sức đa dạng và
phong phú cả về nội dung, tổ chức và hình thức hoạt động [34].
Tác giả Hữu Nam trong bài viết “Vài nét về phong trào tình nguyện ở Việt Nam”
(2001),cũng đã nhấn mạnh đến tác động của hoạt động tình nguyện trong thời gian gần
đây đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, góp phần lớn trong công cuộc phát triển
đất nước. Tuy vẫn tồn tại một số mặt hạn chế do còn nặng về hình thức, các hoạt động
thiếu sự phối hợp đồng bộ, chỉ đạo nhất quán, chưa coi trọng huấn luyện kỹ năng, nhưng
phong trào tình nguyện ở Việt Nam nhìn chung đã có những tiến bộ đáng kể. [5]
Trong bài viết “Hoạt động tình nguyện và cơ hội việc làm của sinh viên” (2013)
đăng trên Hội thảo khoa học: “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực các ngành
khoa học xã hội và nhân văn”, hai tác giả Nguyễn Thị Hồng Thắm và Lê Thị Ngọc Anh
đã đề cập đến những lợi ích, tình hình và một số giải pháp mở rộng và nâng cao chất
lượng hoạt động tình nguyện. Tác giả cho rằng, rèn luyện những kỹ năng và kiến thức xã
hội, cơ hội được trải nghiệm thực tế và thực hành ngành nghề chuyên môn là điều sinh
viên có thể thu nhận được khi tham gia. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động này vẫn
chưa thu hút sự quan tâm sinh viên, đồng thời kết quả mang lại còn khá khiêm tốn. [17]
Cũng bàn về các hoạt động tình nguyện của sinh viên, trong báo cáo “Student
volunteering in England: a critical moment, Education & Training” (Tạm dịch là: Hoạt
động sinh viên tình nguyện ở Anh – Một phân tích về giáo dục và huấn luyện), hai tác giả
Jamie Darwen và Andrea Grace Rannard đã mô tả những thách thức và cơ hội mà hoạt
động tình nguyện của sinh viên các trường đại học Anh đang đối mặt, và những đóng góp
của nó vào một số hoạt động cốt lõi của giáo dục đại học, bao gồm cả dạy và học, việc
làm và tham gia cộng đồng. Bài viết đã có ý nghĩa đối với quản lý giáo dục đại học, sử
dụng lao động, cộng đồng và sử dụng lao động tham gia học cao cấp trong giáo dục đại
học. Tác giả cho rằng, hoạt động tình nguyện của sinh viên sẽ không đáp ứng đầy đủ tiềm
năng của nó đối với giáo dục đại học ở Anh, nếu không có sự tác động mạnh mẽ hơn bằng
tất cả các nguồn lực, đặc biệt nguồn lực từ phía thể chế chính sách cấp quốc gia. [30]
Hoạt động tình nguyện đã được mô tả trong nhiều cách khác nhau. Trong bài viết
“Student learning from community engagement”(Tạm dịch là: Sinh viên học được từ sự
ràng buộc cộng đồng) hai tác giả Juliet Millican và Tom Bourner cho rằng, hoạt động tình
nguyện của sinh viên thường đề cập đến các hoạt động diễn ra bên ngoài các chương trình
giảng dạy. Tuy nhiên, nó cũng có thể được liên kết chặt chẽ hơn để học tập trong các
chương trình giảng dạy, thông qua sự tự nguyện và được xem là một phần công việc học
tập của sinh viên. Ở Anh, loại hoạt động này đã được gọi là "hoạt động tình nguyện học
tập liên kết" hay "học tập cộng đồng tham gia".
Bài viết đã mô tả một số tác động của hoạt động tình nguyện đối với sinh viên,
cộng đồng, nhà tuyển dụng và các trường đại học của mình. Và bài viết này đã lập luận
12
rằng hoạt động tình nguyện sinh viên đã có đóng góp giá trị cho lĩnh vực giáo dục đại
học, đặc biệt là: dạy và học; việc làm, phát triển kỹ năng, kinh doanh và tham gia công
cộng. Hoạt động tình nguyện mở rộng các kinh nghiệm đại học; tăng cường học tập từ
một khóa học thông qua việc áp dụng một kỷ luật trong một bối cảnh thực tế; cải thiện
việc làm và tạo cơ hội cho sinh viên tham gia với một cộng đồng rộng lớn hơn. Tuy nhiên,
sự phát triển tương lai của hoạt động tình nguyện sinh viên phụ thuộc nhiều vào sự tiến bộ
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thể chế chính sách. [32]
Trong một bài viết khác “University Support for Student Volunteering in England:
Historical Development and Contemporary Value” (Tạm dịch là Sự hỗ trợ của các
trường đại học đối với sinh viên tình nguyện ở Anh: Sự phát triển mang tính lịch sử và
giá trị đương đại”, tác giả Georgina Brewis và Clare Holdsworth cho thấy rằng, sinh viên
đóng góp đáng kể cho cuộc sống đại học và cộng đồng rộng lớn hơn thông qua hoạt động
tình nguyện cả chính thức và không chính thức. Và nghiên cứu cũng cho thấy rằng sinh
viên đã có kinh nghiệm tốt hơn về hoạt động tình nguyện và xác định tác động lớn hơn về
phát triển cá nhân của họ, kỹ năng mềm, việc làm và nâng cao nhận thức cộng đồng. [31]
Từ những bài viết trên đã cho thấy một bức tranh chung về hoạt động tình nguyện
của sinh viên hiện nay. Các tác giả mặc dù cách xa về mặt địa lí nhưng đều có chung một
cách nhìn nhận về những tác động to lớn của các hoạt động tình nguyện đến sự phát triển
của cộng đồng, của nền giáo dục và đặc biệt là sự phát triển của sinh viên. Các tác giả đều
đồng quan điểm rằng, tham gia hoạt động tình nguyện sẽ giúp cho sinh viên phát triển về
cả năng lực, kiến thức, kĩ năng cũng như nhân cách cho bản thân để lấy đó làm nền tảng
trở thành những công dân tiên tiến và có ích.
Trong bài viết “ Đoàn thanh niên – Hội sinh viên đồng hành với sinh viên trong
việc nâng cao kỹ năng sống – Kinh nghiệm từ Đại học An Giang” tác giả Nguyễn Minh
Quân đã nêu bật một số các hoạt động của tổ chức Đoàn – Hội đã mang lại hiệu quả tích
cực cho sinh viên trong việc nâng cao kỹ năng sống, như phong trào 5 xung kích phát
triển kinh tế xã hội, 4 đồng hành với thanh niên lập thân lập nghiệp; cuộc vận động Tuổi
trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác, Sinh viên 5 tốt; Xây dựng môi trường sống lành
mạnh…Tác giả nhấn mạnh đến vai trò của tổ chức Đoàn – Hội trong sự hình thành và
phát triển kỹ năng sống cho sinh viên, trong đó, đặc biệt chú trọng đến hai nhóm kỹ năng
tự bảo vệ bản thân và kỹ năng tự khẳng định bản thân trong thời đại mới. Bên cạnh đó, kỹ
năng giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm cũng là những kỹ năng hết sức cần thiết trong
thời đại hội nhập quốc tế. [13]
Cũng liên quan đến vấn đề trên, trong bài viết “Lí do tham gia hoạt động tình
nguyện”, tác giả Vũ Khâm đã đưa ra một loạt các lí do mà các bạn trẻ hiện nay thường
nói đến khi tham gia các hoạt động tình nguyện. Trong đó, việc được học hỏi và phát triển
kĩ năng mới là lí do hàng đầu của các bạn trẻ hiện nay. Theo tác giả, tham gia tình nguyện
13
là một phương tiện hoàn hảo để giúp bạn trẻ khám phá lĩnh vực mà mình thực sự có tài
năng và phát triển các kĩ năng mới.
Trong bài viết, tác giả cũng đưa ra một bằng chứng hết sức thuyết phục về vai trò
của hoạt động tình nguyện và kĩ năng đến cơ hội việc làm, qua một điều tra của
TimeBank (5) thông qua Reed Executive (6) với 200 doanh nghiệp hàng đầu của Anh cho
thấy:
• 73% nhà tuyển dụng sẽ chọn một ứng viên có kinh nghiệm làm tình nguyện hơn
là một người chưa từng trải qua công việc này
• 94% nhà tuyển dụng cho rằng công việc tình nguyện giúp bổ sung kỹ năng
• 94% những nhân viên đã từng tham gia hoạt động tình nguyện để học những kỹ
năng mới đã gặt hái được kết quả như tìm được việc làm đầu tiên, được tăng lương hoặc
thăng tiến. [35]
Từ kết quả nghiên cứu trên, ta thấy, các nhà tuyển dụng rất quan tâm đến thành tích
tham gia các hoạt động tình nguyện ngoài kết quả học tập. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, vì
khi tham gia hoạt động tình nguyện mang đến cho sinh viên cơ hội được trải nghiệm, rèn
luyện và vận dụng các kiến thức đã học vào môi trường thực tế, giúp sinh viên khám phá
lĩnh vực mà mình thật sự có tài năng và phát triển và hoàn thiện kĩ năng sống giúp tăng
khả năng làm việc hiệu quả sau này.
Trong giáo trình chuyên đề “Giáo dục kĩ năng sống”, PGS.TS Nguyễn Thanh
Bình đã đề cập đến một cách tiếp cận mới đối với quá trình giáo dục nói riêng và quá
trình sư phạm, quá trình đào tạo nói chung. Đó là giáo dục kĩ năng sống, tiếp cận kĩ năng
sống trong giáo dục. Cách tiếp cận này sẽ giúp cho những người làm công tác giáo dục
tiến hành quá trình đào tạo, giáo dục một cách phức hợp, trong đó có sự kết hợp hài hòa
kiến thức. thái độ, giá trị, hành vi để có năng lực đáp ứng các thách thức trong xã hội hiện
đại đầy những bất định một cách tích cực, hiệu quả và mang tính xây dựng. [16]
Tài liệu được viết chủ yếu dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả trong hợp tác
với UNESCO Hà Nội về giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam và hai chu kì đề tài cấp bộ về
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT. Điểm nổi bật nhất của tài liệu bên cạnh trình
bày những vấn đề chung về kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống, tác giả còn cho thấy
một bức tranh tổng quát về tình hình giáo dục kĩ năng sống tại Việt Nam hiện nay. Và ông
đưa ra kết luận rằng, học kĩ năng sống là quyền của người học và giáo dục kĩ năng sống là
nhiệm vụ quan trọng của nền giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam hiện
nay chưa thực hiện được quyền và đảm bảo cho người học được tiếp cận chương trình
giáo dục kĩ năng sống phù hợp.
Cũng bàn về kĩ năng sống, trong bài viết “9 kĩ năng cần thiết cho sinh viên” được
đăng trên tạp chí Pháp luật và xã hội năm 2013, tác giả Mai Thanh cho rằng, đối với sinh
viên, để thành công, ngoài kiến thức chuyên môn, sinh viên cần phải nâng cao kĩ năng
sống của bản thân và tác giả đã đưa ra 9 kĩ năng cần thiết nhất đối với sinh viên hiện nay.
Trong đó có kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm. [43]
14
Tác giả cho rằng, giao tiếp xã hội là yếu tố quan trọng, góp phần tạo dựng nên
thành công trong bất kỳ lĩnh vực gì. Một học giả người Mĩ Kinixti nói rằng “Sự thành
công của một người chỉ có 15% dựa vào kỹ thuật chuyên ngành, còn lại 85% phụ thuộc
vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người đó”. Và trong cuộc sống hàng
ngày, con người thường xuyên phải tương tác với nhau trong nhiều môi trường khác nhau,
chẳng hạn như trong môi trường làm việc. Do đó, khả năng làm việc theo nhóm là yếu tố
cần thiết và là tố chất quan trọng đối với những ứng viên muốn thành công khi được
tuyển dụng, khi khởi nghiệp và khi hành nghề.
Trong bài viết “Thực trạng một số kĩ năng của sinh viên hiện nay”, Thạc sĩ Lê Thị
Bích Huệ đã cho thấy một thực trạng đáng lo ngại về sự thiếu hụt kỹ năng sống của sinh
viên hiện nay. Tác giả cho rằng, sự thiếu hụt đó đã gây ảnh hưởng lớn đến sự thành công
của sinh viên trong công việc cũng như trong cuộc sống. Bằng chứng là theo điều tra mới
nhất của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, có đến 13% sinh viên sau khi tốt nghiệp
phải đào tạo lại và bổ xung kỹ năng mới, gần 40% phải được kèm cặp tại nơi làm việc và
41% cần làm quen với công việc qua một thời gian nhất định mới có thể thích ứng. Còn
theo kết quả nghiên cứu trên 2.000 sinh viên tại Hà Nội, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí
Minh…,hiện có 83% sinh viên tốt nghiệp được đánh giá là thiếu kỹ năng mềm, 37%
không tìm được việc làm phù hợp vì nhiều nguyên nhân, trong đó, do thiếu yếu tố kỹ
năng là chủ yếu. [9]
Có thể thấy kỹ năng sống có tầm quan trọng đặc biệt và việc giáo dục kỹ năng
sống cho sinh viên là một việc làm cần thiết nhằm giúp họ có những năng lực cần thiết để
thành đạt trong công việc, trong cuộc sống sau này. Để giáo dục kỹ năng sống cho sinh
viên có hiệu quả, tác giả Nguyễn Đắc Thanh trong bài viết “Một số định hướng giáo dục
kỹ năng sống cho sinh viên hiện nay” cho rằng, trước tiên cần phải xác định mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục kỹ năng tương ứng với các ngành nghề và các hình thức cần
được tiến hành đồng bộ. Từ những khảo sát thực tế, tác giả đã đưa ra một số định hướng
như lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động giảng dạy các môn học;
đưa hoạt động giáo dục kỹ năng sống như một hoạt động ngoại khóa bắt buộc; xây dựng
môn giáo dục kỹ năng sống thành một môn học độc lập, mời các cựu sinh viên thành đạt
của khoa, trường về báo cáo kinh nghiệm; giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên thông qua
các hoạt động Đoàn thanh niên, Hội sinh viên [11]. Có thể thấy, trong 5 định hướng mà
tác giả đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên, có tới 2
định hướng đề cập đến vai trò của việc tham gia hoạt động ngoại khóa, hoạt động Đoàn –
Hội mà trong đó chủ yếu là các hoạt động xã hội đến sự hình thành và rèn luyện kỹ năng
sống cho sinh viên.
Cũng bàn về giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên, Tiến sĩ Phạm Thị Bích Thủy
trong đề tài nghiên cứu khoa học “Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên Đại
học Thủ Dầu Một” được thực hiện năm 2013, đã tiến hành khảo sát thực trạng kỹ năng
15
sống và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trong nhà trường dựa trên bảng điều tra 100
sinh viên và 23 giảng viên thuộc 3 ngành hệ cao đẳng: Ngoại ngữ, Sư phạm Văn và Giáo
dục Tiểu học. Kết quả cho thấy thực trạng về nhận thức vai trò của kỹ năng sống và giáo
dục kỹ năng sống của sinh viên và giảng viên Đại học Thủ Dầu Một, và cho rằng các kỹ
năng học và tự học, giao tiếp ứng xử và tạo lập mối quan hệ, kỹ năng làm việc nhóm là
những kỹ năng quan trọng hơn cả. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã đưa ra một số hoạt động
nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho sinh viên và kết quả cho thấy, việc tham gia các hoạt
động, xã hội, từ thiện; các hoạt động sinh hoạt tập thể; các lớp học tập huấn kỹ năng sống
là những hình thức mang lại hiệu quả nhiều nhất cho sinh viên rèn luyện và trao dồi kỹ
năng sống. [22]
Từ một vài nghiên cứu trên, tuy chưa nhiều nhưng có thể thấy được vai trò của
việc tham gia hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành kỹ năng sống cho sinh viên.
Tóm lại, thông qua quá trình tìm hiểu và tổng kết các công trình cũng như các bài
viết, chúng tôi nhận thấy rằng, việc nghiên cứu những tác động của việc tham gia hoạt
động tình nguyện đối với sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm cho
sinh viên cần có cái nhìn tổng thể và toàn diện. Do một số hạn chế về thời gian và tài liệu,
nên tác giả chưa cập nhật được nghiên cứu gần với đề tài nhất. Nhưng qua quá trình tổng
quan, có thể nhận thấy rằng, kĩ năng sống (đặc biệt là kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm
việc nhóm) rất quan trọng trong cuộc sống hiện nay. Và việc tham gia hoạt động tình
nguyện đã có những tác động nhất định đối với sự hình thành kĩ năng sống cho sinh viên.
Ngoài ra, các yếu tố chủ quan (về quan niệm, nhận thức của sinh viên) và yếu tố khách
quan (các hoạt động tình nguyện của các tổ chức trong và ngoài nhà trường) giữ một vị trí
quan trọng dẫn đến các tác động của việc tham gia hoạt động tình nguyện đối với sự hình
thành kĩ năng giao tiếp và làm việc nhóm của sinh viên. Từ đó, tác giả đưa ra các vấn đề
cơ bản nêu trên khi tìm hiểu về vấn đề này.
1.2. Hướng tiếp cận và lý thuyết áp dụng
1.2.1. Tiếp cận theo nhu cầu
Tiếp cận theo nhu cầu là một hướng tiếp cận nhân văn hiện sinh. Nói đến thuyết
nhu cầu không thể không nhắc đến Abraham Maslow, nhà khoa học xã hội nổi tiếng
người Mĩ đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người vào những năm 1950.
Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần
được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả
về thể chất lẫn tinh thần. Maslow cho rằng hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu và
những nhu cầu của con người được sắp xếp theo một thứ tự ưu tiên từ thấp tới cao. Theo
tầm quan trọng, cấp bậc nhu cầu được sắp xếp thành năm bậc sau: [6]
(1) Nhu cầu sinh lí: Đây là nhu cầu cơ bản nhất để duy trì cuộc sống của con người
như nhu cầu về đồ ăn, nước uống, không khí, nhu cầu về tình dục…. Nếu thiếu những nhu
16
cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu
này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác
của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.
(2) Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh: Con người cần có một môi trường sống an
toàn, sức khỏe để đảm bảo sự tồn tại của họ. Nhu cầu an toàn nếu không được đảm bảo
thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ
không thực hiện được.
(3) Nhu cầu xã hội hay nhu cầu liên kết và chấp nhận: A.Maslow coi đó là nhu cầu
thuộc về nhóm xã hội của con người, sự mong muốn được quan tâm của các thành viên
trong nhóm xã hội (gia đình, người thân, bạn bè…). Ở cấp độ này con người có nhu cầu
cần được yêu thương và thừa nhận, khẳng định vai trò, vị trí của họ trong xã hội, cảm giác
thuộc về một nhóm nào đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển tâm lý và quan hệ xã
hội của cá nhân.
(4) Nhu cầu được tôn trọng: Con người luôn cần được đối xử bình đẳng, được lắng
nghe và không bị coi thường. Đây là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi con người.
(5) Nhu cầu được hoàn thiện và phát triển: Bậc cuối cùng và cao nhất trong hệ
thống thứ bậc nhu cầu của Maslow có tác động lớn nhất đến sự hoàn thiện nhân cách. Đó
là nhu cầu được tự khẳng định mình, có cơ hội học hỏi và phát triển bản thân, được
nghiên cứu, được sáng tạo, được thể hiện năng lực… để phát triển toàn diện. Nhu cầu này
được A.Maslow cho là nhu cầu quan trọng, song chúng được xếp ở thang bậc cuối cùng
bởi nó chỉ được đề cập tới khi những nhu cầu cơ bản ở các thang bậc nền tảng đã được
đáp ứng.
Theo quan điểm này thì hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu. Và trên thực
tế cho thấy, việc một sinh viên tham gia các hoạt động tình nguyện có thể vì nhiều lí do
khác nhau. Tuy nhiên, dù sinh viên tham gia tình nguyện với lí do gì đi nữa thì cũng xuất
phát từ nhu cầu cá nhân của bản thân sinh viên.
Dựa trên lý thuyết này, có thể nhìn nhận việc được tham gia các hoạt động tình
nguyện, được bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng sống là những nhu cầu hết sức quan trọng của
sinh viên hiện nay. Nó thuộc nhóm các nhu cầu cấp cao, bao gồm nhóm nhu cầu xã hội,
nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được hoàn thiện, phát triển.
Với nhu cầu xã hội hay nhu cầu liên kết và chấp nhận: Khi tham gia hoạt động tình
nguyện, sinh viên trở thành thành viên của một nhóm nào đó, chẳng hạn nhóm tình
nguyện bảo vệ môi trường, nhóm dạy học tình thương cho trẻ em đường phố, nhóm thanh
niên tình nguyện mùa hè xanh…Trong quá trình tham gia đó, sinh viên muốn được để thể
hiện năng lực của bản thân mình, được cống hiến và được thừa nhận giá trị của mình
trong nhóm, được sự quan tâm và yêu thương của các thành viên khác. Điều này ảnh
17
hưởng lớn đến sự phát triển tâm lí và kĩ năng sống của sinh viên, đặc biệt là kĩ năng giao
tiếp và kĩ năng làm việc nhóm.
Với nhu cầu được tôn trọng: Sinh viên tham gia vì cảm thấy được tôn trọng, cả về
nhân cách, phẩm chất và các giá trị của con người. Khi tham gia hoạt động tình nguyện có
thể xuất phát từ những động cơ khác nhau, có người tham gia vì lý tưởng cao đẹp muốn
giúp đỡ người khác, cũng có người tham gia chỉ vì cảm thấy vui. Nhưng dù vì lí do gì thì
cũng cần nên tôn trọng và đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên trong việc tiếp cận
thông tin và tạo điều kiện để sinh viên nâng cao kĩ năng sống trong quá trình tham gia
hoạt động tình nguyện.
Với nhu cầu được hoàn thiện và phát triển: Việc được nâng cao và rèn luyện kĩ
năng sống là nhu cầu quan trọng hướng đến sự phát triển toàn diện cho sinh viên. Trong
quá trình tương tác khi tham gia hoạt động tình nguyện, bên cạnh việc rèn luyện và trao
dồi những khả năng vốn có của mình, sinh viên còn có thể học hỏi thêm nhiều điều bổ ích
từ các thành viên khác trong nhóm. Chẳng hạn, có một số sinh viên trước đây chưa bao
giờ biết lập kế hoạch, nhưng khi tham gia công tác mùa hè xanh, sinh viên biết phối hợp
chặt chẽ với nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ, biết lên kế hoạch và phân công nhiệm vụ
cho từng thành viên phù hợp với sở trường, năng lực. Điều đó giúp sinh viên hoàn thiện
và phát triển những kĩ năng cần thiết giúp ích cho cuộc sống.
Trong đề tài này, chúng ta cố gắng đo lường được sự thay đổi của bản thân sinh
viên khi tham gia hoạt động tình nguyện. Việc thay đổi này dù theo chiều hướng nào cũng
sẽ cho ta thấy mức độ thỏa mãn nhu cầu này dưới tác động của việc tham gia hoạt động
tình nguyện đối với sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh
viên.
1.2.2. Lý thuyết học tập xã hội
Thuyết học tập xã hội được khởi nguồn từ quan điểm học tập của Jean Gabriel
Tarde (1843-1904). Thuyết học tập xã hội cho rằng việc học tập của con người (cả về kiến
thức, thái độ và hành vi) được thực hiện thông qua ba qui luật, đó là sự tiếp xúc gần gũi,
bắt chước người khác và sự kết hợp cả hai. Tuy nhiên, việc học tập của mỗi cá nhân còn
phụ thuộc vào các yếu tố bên trong cá nhân như động cơ học tập, sự cần thiết và giá trị
đối với bản thân, sự trải nghiệm, kinh nghiệm sống, nền tảng kiến thức và khả năng phân
tích.
18
Lý thuyết này được sử dụng để điều chỉnh hành vi của cá nhân trong nhóm. Tuy
nhiên, trong quá trình vận dụng thuyết học tập vào thực tế, có một số nguyên tắc cần được
chú ý. Thứ nhất, hiệu quả sẽ đạt được ở mức cao nhất của học tập quan sát là hành vi sẽ
được thực hiện lại một cách cụ thể, thông qua việc tái tổ chức và tập diễn lại hành vi
mang tính tượng trưng. Thứ hai, là mã hóa hành vi mẫu bằng lời nói hoặc hình tượng hóa.
Các cá nhân có thể sẽ bắt chước hành vi được làm mẫu nếu như nó thích hợp, đúng đắn
hay sẽ mang lại kết quả mà họ cho là có giá trị. [9]
Từ đó có thể thấy, nếu xem hoạt động tình nguyện như là một hình thức hoạt động
nhóm thì việc ứng dụng lý thuyết học tập xã hội là hết sức phù hợp. Vì dựa trên quan
điểm này cho rằng, trong nhiều trường hợp, một người sẽ học tập hành vi của người khác
và hành vi này sẽ được củng cố nếu được lặp lại nhiều lần, có sự khích lệ hoặc không bị
chỉ trích. Khi tham gia vào một tổ chức hoạt động tình nguyện nào, cá nhân sẽ có cơ hội
tiếp xúc với rất nhiều người khác nhau cả về kiến thức, trình độ lẫn kinh nghiệm sống.
Trong quá trình tương tác đó, cá nhân sẽ học tập được những hành vi mới nếu hành vi đó
cá nhân cho là có giá trị. Điều này có ý nghĩa trong việc giúp sinh viên hình thành và rèn
luyện kỹ năng giao tiếp cũng như kỹ năng làm việc nhóm. Một sinh viên trước đây rất
nhút nhát, không dám phát biểu ý kiến, khi tham gia vào một đội hình tình nguyện mà
trong đó đội trưởng là người rất tự tin, năng động. Bạn sinh viên này rất ngưỡng mộ và
mong muốn một ngày nào đó, mình có thể tự tin như đội trưởng của mình. Xuất phát từ
động cơ đó cùng sự cố gắng của bản thân, sau một thời gian tham gia tình nguyện, bạn
sinh viên này đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp thông qua việc học hỏi những hành
vi của đội trưởng cũng như các thành viên khác trong đội.
Bên cạnh đó, áp lực nhóm cũng có thể giúp cá nhân điều chỉnh hành vi của mình
phù hợp hơn. Đơn cử như trong một buổi họp nhóm các thanh niên của chiến dịch mùa hè
xanh, có một bạn tình nguyện viên đưa ra ý kiến rất hay về cách thức sinh hoạt của đội. Ý
kiến này được các thành viên khác rất đồng tình và đánh giá cao. Được sự khích lệ đó bạn
tình nguyện viên này cảm thấy tự tin hơn và trong các cuộc họp sau đã rất tích cực đóng
góp ý kiến cho đội. Cũng trong trường hợp đó, một tình nguyện viên khác trước đây hay
có thói quen nói chen vào lúc người khác đang phát biểu, nhưng khi được nhắc nhở và sự
phản hồi khó chịu của những người xung quanh, cá nhân này đã dần tránh việc lặp lại
hành vi không phù hợp đó.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu mà đề tài đặt ra, tác giả tập trung làm rõ các câu hỏi
nghiên cứu sau:
− Việc tham gia các hoạt động tình nguyện đã tác động như thế nào đến sự hình thành kĩ
năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay?
19
− Nhận thức về vai trò của việc tham gia các hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành
kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay
như thế nào?
1.4. Giả thuyết khoa học
− Giả thuyết 1: Việc tham gia hoạt động tình nguyện đã tác động tích cực đến sự hình
thành kĩ năng giao tiếp của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một.
− Giả thuyết 2: Việc tham gia hoạt động tình nguyện đã tác động tích cực đến sự hình
thành kĩ năng làm việc nhóm của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một.
− Giả thuyết 3: Sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay nhận thức được vai trò của việc
tham gia các hoạt động tình nguyện đối với sự hình thành kĩ năng giao tiếp và kĩ năng làm
việc nhóm
20
1.5. Khung phân tích
KĨ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM
Yếu tố khách quan
- Nơi tổ chức hoạt động
- Loại hình hoạt động
- Cách thức tổ chức
Yếu tố chủ quan
- Mức độ tham gia
- Lý do tham gia
THAM GIA HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN
KĨ NĂNG GIAO TIẾP
HÌNH THÀNH KĨ NĂNG
Nhận thức
Hiệu quả tích cực
21
1.6. Một số khái niệm liên quan
1.6.1. Hoạt động tình nguyện
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê - 1998): Tình nguyện là "Tự mình nhận lấy
trách nhiệm để làm (thường là việc khó khăn, đòi hỏi phải hy sinh), không phải do bắt
buộc"
Theo BS. Lê Thị Kim Phượng, Trung tâm Truyền thông – giáo dục sức khỏe
TP.HCM: Tình nguyện là sự tự nguyện, sẵn lòng đóng góp, một chút thời gian và kỹ
năng, kiến thức của mình để giúp đỡ cộng đồng chung quanh như hàng xóm láng giềng,
tổ dân phố, khu phố mình cư ngụ, thành phố mình ở, đất nước của mình hay rộng hơn là
các nước trên thế giới. Tình nguyện phải xuất phát từ trái tim và tình nguyện sẽ không có
giá trị nào nếu không thật sự là tình nguyện. Tình nguyện về cơ bản là cống hiến thời
gian, sức lực, kỹ năng mà không đòi hỏi lợi ích cá nhân.
Một số định nghĩa khác có liên quan như: [40]
Sinh viên tình nguyện là những sinh viên có tấm lòng nhân ái, có ý thức tự giác và
có tinh thần tình nguyện tham gia hoạt động trong các đội hình thanh niên, sinh viên tình
nguyện, sẵn sàng làm các công việc khó khăn, gian khổ mà không nhất thiết phải có
quyền lợi vật chất cho bản thân.
Đội hình sinh viên tình nguyện là tổ chức đoàn kết, tập hợp lực lượng sinh viên
tình nguyện, có sức lôi cuốn mạnh mẽ trên tinh thần tình nguyện, xuất phát từ lòng nhân
ái, tính tích cực xã hội và hoài bão lý tưởng của tuổi trẻ nhằm thực hiện những nhiệm vụ
khó khăn, đột xuất của địa phương, đơn vị vì lợi ích của xã hội và cộng đồng.
Loại hình sinh viên tình nguyện: Là tập hợp những đội hình sinh viên tình
nguyện có những đặc trưng cơ bản giống nhau về nội dung hoạt động, về thời gian hoạt
động hoặc quy mô cấp độ tổ chức hoạt động.
Phong trào sinh viên tình nguyện: Là khái niệm chỉ hoạt động xã hội có sức lôi
cuốn đông đảo sinh viên tham gia với tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao, không
quản ngại khó khăn gian khổ vì lợi ích của xã hội, cộng đồng, thông qua đó góp phần giáo
dục đạo đức, lý tưởng cho sinh viên và xây dựng tổ chức Đoàn, Hội vững mạnh.
1.6.2. Loại hình hoạt động tình nguyện trong giai đoạn hiện nay
− Loại hình sinh viên tình nguyện tham gia phát triển kinh tế
+ Sinh viên tình nguyện đảm nhận các công trình, phần việc thanh niên, sinh viên.
+ Sinh viên tình nguyện tham gia các chiến dịch tình nguyện về với đồng bào dân tộc, vùng
sâu, vùng xa để kết hợp thực hiện các chương trình như xây nhà tình nghĩa, ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tu sửa đường giao thông, thuỷ lợi
22
− Đội trí thức trẻ tình nguyện: Là loại hình hoạt động toàn diện tham gia phát triển kinh tế
xã hội ở nông thôn, miền núi. Đội gồm những đội viên đã tốt nghiệp các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề tình nguyện về công tác tại các vùng khó
khăn của đất nước trong thời gian 2 năm.
− Sinh viên tình nguyện tham gia giữ gìn và bảo vệ quốc phòng, an ninh: Đội Xung kích an
ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Sinh viên tình nguyện phòng chống tệ nạn xã hội.
− Sinh viên tình nguyện tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo:
Bao gồm các hoạt động như "Hiến máu nhân đạo", chống mù chữ, chống thất học,
cứu trợ thiên tai, chăm sức khỏe cộng đồng, giáo dục viên đường phố, giúp đỡ các gia
đình chính sách, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, sinh viên tình nguyện tham gia các chương
trình Dân số - Sức khoẻ - Môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
− Sinh viên tình nguyện bảo vệ môi trường: Ngày Thứ bảy tình nguyện, Ngày Chủ nhật
xanh, Ngày Cùng hành động, Kỳ nghỉ hồng. Chương trình Bình Dương xanh…
− Loại hình sinh viên tình nguyện tiếp sức mùa thi
Đối tượng tham gia là sinh viên tình nguyện các trường đại học, cao đẳng có tổ
chức thi tuyển sinh hoặc thanh niên tình nguyện địa phương nơi có các trường đại học,
cao đẳng tổ chức thi tuyển sinh.
1.6.3. Kỹ năng
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Kỹ năng là thói quen áp dụng vào thực tiễn những kiến
thức đã học hoặc kết quả của quá trình luyện tập”.
Theo Từ điển Giáo dục, “Kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt
động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là
hành động cụ thể hay hành động trí tuệ”.
Theo Từ điển Tâm lý học của A.M.Colmman, “Kỹ năng là sự thông thạo, hiểu biết
chuyên môn sâu, là khả năng đạt được thành tích cao trong một lĩnh vực nhất định; cụ thể
là một cách thực hiện hành vi có sự phối hợp, có tổ chức, đạt được thông qua sự huấn
luyện và thực hành”. [30]
1.6.4. Kỹ năng sống
Khái niệm kĩ năng sống
Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống và mỗi quan niệm lại được diễn đạt theo
nhiều cách khác nhau.
Theo WHO (1993), năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một cách có hiệu
quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá
nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp
và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.
Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng
23
nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng
lực tâm lý xã hội này. [19]
Theo UNICEF (UNICEF Thái Lan,1995): Kĩ năng sống là khả năng phân tích tình
huống và ứng xử, khả năng phân tích cách ứng xử và khả năng tránh được các tình huống.
Các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiên thức “cái chúng ta biết” và thái
độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế “làm gì và làm
bằng cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng. [16]
Tuy cách diễn đạt về kĩ năng sống ở mỗi tổ chức khác nhau, nhưng có thể thấy có
sự thống nhất hiểu kĩ năng sống thuộc về phạm trù năng lực (hiểu kĩ năng theo nghĩa
rộng), và kĩ năng theo cách hiểu này là năng lực bao hàm cả tri thức, thái độ và hành vi,
hành động trong lĩnh vực đó. Trong đề tài này, tác giả xem xét kĩ năng sống ở cả hai góc
độ:
− Xem kĩ năng sống là năng lực (kiến thức, thái độ, hành vi), đó chính là khả năng áp
dụng những hiểu biết và kĩ năng để thực hiện, giải quyết có hiệu quả các vấn đề
trong tình huống mới.
− Xem kĩ năng sống là khả năng tâm lí xã hội thì năng lực tâm lí xã hội đề cập tới
khả năng của con người biểu hiện những cách ứng xử đúng hoặc chính xác khi
tương tác với người khác hoặc trong tình huống khác nhau của môi trường xung
quanh dựa trên nền văn hóa đó.
Đặc tính của kĩ năng sống [33]
Theo Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình, kĩ năng sống bao gồm những đặc
tính sau:
− Đó là khả năng con người sống một cách phù hợp và hữu ích.
− Đó là khả năng con người quản lí được các tình huống rủi ro, không chỉ đối với bản thân
mà còn thuyết phục được mọi người chấp nhận các biện pháp ngăn ngừa rủi ro.
− Đó là khả năng con người quản lí một cách thích hợp bản thân, người khác và xã hội
trong cuộc sống hang ngày, điều này có thể xem như năng lực tâm lí xã hội của kĩ năng
sống.
Phân loại kĩ năng sống [39]
Phân loại kĩ năng sống của UNICEF bao gồm các nhóm:
− Các kĩ năng giao tiếp và quan hệ liên nhân cách:
+ Kĩ năng giao tiếp liên nhân cách
+ Kĩ năng thương lượng/từ chối
+ Kĩ năng lắng nghe/Sự đồng cảm
+ Kĩ năng hợp tác và làm việc theo nhóm
24
+ Kĩ năng vận động/tuyên truyền
− Các kĩ năng ra quyết định và tư duy tích cực:
+ Kĩ năng quyết định và giải quyết các vấn đề
+ Kĩ năng tư duy tích cực
− Các kĩ năng ứng phó và tự kiềm chế:
+ Kĩ năng nhằm phát triển và kiểm soát nội tâm
Kĩ năng xây dựng sự tự tin và lòng tự trọng
Kĩ năng tự nhận thức bản thân
Kĩ năng ấn định mục tiêu
Kĩ năng đánh giá/tự phân loại/tự giám sát bản thân
+ Kĩ năng kiềm chế cảm xúc
+ Kĩ năng ứng phó, xử lí với sự mệt mỏi, xâm hại và tổn thương
+ Kĩ năng nhằm kiềm chế trạng thái căng thẳng (stress)
Kĩ năng quản lí thời gian
Kĩ năng tư duy tích cực, lạc quan
Theo cách phân loại này thì hai kĩ năng mà tác giả hướng tới trong đề tài là kĩ năng
giao tiếp và kĩ năng làm việc nhóm thuộc nhóm kĩ năng giao tiếp và quan hệ liên nhân
cách. Theo tác giả Nguyễn Thanh Bình đây là nhóm kĩ năng quan trọng nhất thể hiện khả
năng thiết lập, duy trì và củng cố các mối tương tác xã hội của con người. Mỗi cá nhân
phải biết cách cư xử một cách phù hợp trong từng mối quan hệ để có thể phát triển tối đa
tiềm năng sẵn có trong môi trường của mình. [16.Tr.14]
1.6.5. Kĩ năng giao tiếp
Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp và nhiều mặt nhiều cấp độ vì vậy
khó có sự thống nhất hoàn toàn về khái niệm giao tiếp. Tuy nhiên các định nghĩa về giao
tiếp đều có những dấu hiệu cơ bản như sau:
− Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người nghĩa là chỉ riêng con người mới có
giao tiếp thật sự khi sử dụng phương tiện ngôn ngữ (nói, viết, hình ảnh nghệ thuật,…) và
được thực hiện chỉ trong xã hội loài người.
− Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người khác trên cơ sở của các
quan hệ kinh tế, chính trị,…của xã hội.
− Giao tiếp được thể hiện ở sự thay đổi thông tin và sự hiểu biết lẫn nhau, sự suy cảm và
ảnh hưởng lẫn nhau.
− Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với con người.
Vậy, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con
người qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu
biết, suy cảm ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. [40]
Kĩ năng giao tiếp
25
Kĩ năng giao tiếp là khả năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện bên ngoài và dự
đoán được diễn biến bên trong của con người với tư cách là đối tượng giao tiếp. Đồng
thời, biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách định hướng để điều
chỉnh và điều khiển quá trình giao tiếp đạt một mục đích đã định. [40]
Để hoạt động giao tiếp có hiệu quả, cần đảm bảo những yếu tố cơ bản sau [42]:
− Phải xây dựng được một bản thông điệp có hiệu quả, nghĩa là nội dung phải rõ ràng, ngôn
ngữ dễ hiểu, truyền đạt thông tin mạch lạc, giọng nói rõ ràng, đủ nghe, đồng thời phải biết
sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ phù hợp.
− Phải biết lắng nghe tích cực trong giao tiếp để hiểu rõ vấn đề, khuyến khích người nói, thể
hiện sự tôn trọng người khác.
− Nắm được môi trường xã hội khi giao tiếp (giao tiếp với ai? để làm gì? như thế nào? khi
nào? trong bao lâu? ).
1.6.6. Kĩ năng làm việc nhóm
Khái niệm nhóm
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh, nhóm là tập hợp những cá nhân hội tụ đồng thời 4
yếu tố sau: [19]
− Có mục đích chung
− Sự tương tác giữa các thành viên
− Các quy tắc chung
− Các vai trò khác nhau mà các thành viên đảm nhận
Nhóm làm việc thực chất là một tập hợp những người có các năng lực bổ trợ
cho nhau (kiến thức, kỹ năng và khả năng), cùng cam kết chịu trách nhiệm thực hiện
các mục tiêu chung. Bản chất của nhóm làm việc là sự chia sẻ, đóng góp của mỗi
thành viên vào việc thực hiện công việc chung của nhóm để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Vì vậy, mục đích của việc thành lập nhóm làm việc là để thực hiện những mục tiêu mà
một cá nhân đơn lẻ khó có thể đạt được.
Kỹ năng làm việc nhóm
Theo tác giả Bùi Loan Thùy, kĩ năng làm việc nhóm là khả năng tương tác giữa các
thành viên trong một nhóm, nhằm thúc đẩy hiệu quả công việc và phát triển tiềm năng của
tất cả các thành viên.
Một số yếu tố cần thiết để có được kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả: [3]
− Có lòng tin vào người khác, có sự tôn trọng, lắng nghe, quan tâm đến ý kiến của người
khác, có ý thức hợp tác, hoà nhập với những người cùng làm việc.