MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA, GIÁO DỤC...........4
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố, giáo dục..............4
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá,
giáo dục....................................................................................7
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ VĂN
HÓA, GIÁO DỤC VÀ NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM.........................................................10
2.1. Một số vấn đề thực tiễn về văn hóa, giáo dục............10
2.2. Nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn
hóa, giáo dục..........................................................................14
KẾT LUẬN...............................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................23
1
MỞ ĐẦU
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra,
nó chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp
năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa
rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con
người tồn tại, khơng chỉ cần những sản phẩm vật chất mà cịn có nhu cầu hưởng
thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì
nhu cầu văn hóa tinh thần địi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh
thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con
người và xã hội. Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng
thời cũng là mục tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng thì mọi sự phát triển đều
do con người quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao,
càng tồn diện con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát
triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để
tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất
nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng;
phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu
này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền
vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của Chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Văn hóa là động lực của sự phát triển,
bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và
nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn
trong con người đóng góp vào sự phát triển xã hội. Văn hóa là một trong bốn trụ
cột của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, vì vậy Đảng và Nhà nước
luôn chú trọng đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa của đất nước.
Bên cạnh văn hóa, giáo dục - đào tạo là một lĩnh vực luôn được Đảng và Nhà nước
ta xem trọng. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã thực sự coi
giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trị chính yếu của Nhà nước, được ưu
tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội khác. Giáo dục và đào tạo là quá trình trao truyền và bồi dưỡng tri thức
cho cá nhân và cộng đồng của thế hệ đi trước cho các thế hệ đi sau, để từ đó họ có
thể tiếp nhận, rèn luyện, hịa nhập và phát triển trong cộng đồng xã hội. Quá trình
giáo dục và đào tạo cũng như quá trình tự giáo dục, tự đào tạo diễn ra suốt vòng
đời của con người thông qua hệ thống giáo dục trong nhà trường và hệ thống giáo
dục xã hội. Mục tiêu của nền giáo dục và đạo tạo của bất cứ qụốc gia nào cũng đều
hướng tới phát triển con người cả về thể lực, trí lực, tri thức và tình cảm, xây dựng
các thế hệ công dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển giáo dục
đào tạo chính là xây dựng nền móng văn hóa dân tộc, là cơ sở để phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giáo dục và đào tạo là cơ sở thiết
2
yếu để đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục và đào tạo khơng
chỉ là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến đào tạo nguồn nhân lực cho nền sản xuất
xã hội mà còn là trung tâm đào tạo nhân tài cho đất nước. Hiền tài là nguyên khí
quốc gia, có vai trị to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình phát
triển nền kinh tế tri thức hiện nay, vai trò của nhân tài nói riêng, của đội ngũ trí
thức nói chung ngày càng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng; khơng chỉ đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội mà cả trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, trong
đối nội và đối ngoại.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA, GIÁO DỤC
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố, giáo dục
Về văn hóa:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đến sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Người đã chỉ rõ: Văn hóa là tồn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử
dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc
sống lồi người. Đây là ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi đến thắng lợi.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch
sử, nó làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước. Tư tưởng ấy, đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta hết sức coi trọng ngay từ những năm trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Người khẳng định rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Văn hóa đã thấm sâu vào tồn bộ đời
sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp. Văn hóa khơng tách rời kinh tế, chính trị, một
mặt nó chịu sự chi phối của kinh tế và chính trị, nhưng mặt khác, văn hóa có tác
động trở lại to lớn đến kinh tế và chính trị. Người coi văn hóa nghệ thuật cũng là
mặt trận, và anh chị em nghệ sỹ là những chiến sỹ trên mặt trận ấy. Người nhấn
mạnh: Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh
một phần rất quan trọng. Văn hóa cũng như chính trị, kinh tế và tín ngưỡng, đạo
1
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H. 2011, tập 3, tr. 458.
3
đức đều được phát triển tự do. Ngòi bút của các bạn cũng là những chiến sỹ anh
dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ
quốc. Do vậy, văn hóa khơng đứng ngồi chính trị mà ở trong chính trị, gắn bó mật
thiết với chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, văn hóa là một kiến trúc thượng tầng;
những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ
điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế
ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội,
phát triển kinh tế và “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường
cho quốc dân đi”, “phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ”. Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu
biết lẫn nhau. Với nhận thức như vậy, bằng sự nỗ lực hoạt động không mệt mỏi
trên mặt trận văn hố thơng qua sách, báo, văn thơ... Hồ Chí Minh làm cho các dân
tộc hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và con đường
cách mạng chân chính cần phải thực hiện. Luận điểm này đã trở thành “sợi chỉ đỏ”
xun suốt q trình phát triển văn hóa Việt Nam, nâng cao sức tỏa sáng để tiếp
tục làm nền tảng tinh thần vững chắc cho đổi mới và phát triển. Văn hóa chính là
phương thức sinh hoạt của dân tộc, của cộng đồng, gia đình, cá nhân... phù hợp với
các đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống của dân tộc, phục vụ mục
tiêu phát triển đất nước. Do vậy, tính chất của văn hóa cũng thay đổi cùng với
những biến đổi trong mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong từng
thời kỳ. Ngày 23/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khai mạc Hội nghị Văn hóa
tồn quốc, Người thiết tha mong muốn: Nền văn hóa mới của nước nhà sẽ lấy hạnh
phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở; văn hóa phải làm cho mọi người có tinh
thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung mà qn lợi ích riêng; đối với xã hội, văn
hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả nam và nữ, ai
cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng những hạnh phúc mà mình đáng được
hưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cái văn hóa mới này cần phải có tính khoa
học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại. Nay
nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa
hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của Nhân dân. Nền văn hóa mới bắt
nguồn từ trong Nhân dân sẽ ln ln tìm tịi những con đường để làm sao có thể
kể một cách chân thật hơn, chân thành hơn cho Nhân dân nghe về những mối lo âu
và suy nghĩ của Nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc
xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta. Để đảm bảo xây dựng văn hóa trong tổ
chức Đảng, Người luôn nhấn mạnh: Đảng một mặt phải làm cơng việc giải phóng
dân tộc, một mặt phải giáo dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hóa những
4
phần tử xấu, sửa chữa những thói xấu cịn lại. Phải cố gắng sửa chữa cho tiệt nọc
các chứng bệnh, khiến cho Đảng mạnh khoẻ, bình an.
Về giáo dục:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và phát triển
sự nghiệp giáo dục và đã có những chỉ dẫn rất sâu sắc và tồn diện, bao gồm các
vấn đề từ vai trị, vị trí, mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục; nguyên lý, phương
châm giáo dục; phương thức, phương pháp giáo dục cho đến tổ chức quản lý, xây
dựng đội ngũ giáo viên; chủ trương, chính sách đối với giáo dục.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục có một vị trí và vai trị vơ cùng quan
trọng. Vai trị của giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là nhằm phát triển
toàn diện con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con người, có
vai trị huấn luyện, bồi dưỡng, hướng tới việc xây dựng và phát triển con người
Việt Nam mới - con người XHCN. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai
trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định nền giáo dục mới sẽ “đào tạo các em nên những người cơng dân hữu
ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn tồn những năng lực
sẵn có của các em”2. Trong buổi nói chuyện với học sinh các Trường Trung học
Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương ở Hà Nội, Người nói: “Học bây giờ với
học dưới chế độ thực dân phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: Yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức...Học để phụng sự
ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh” 3. Nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là phải chú trọng giáo dục toàn
diện. Người yêu cầu phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng, giác ngộ xã
hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất; đồng thời phải ra sức tẩy
sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân cịn sót lại như thái độ thờ ơ với xã
hội, xa vời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp. Nội
dung giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người mới, phải coi
trọng cả tài lẫn đức, coi trọng đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
đánh giá cao vai trị của thầy giáo, cơ giáo đối với xã hội. Người nhấn mạnh: "Có
gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng
là thầy giáo - là người vẻ vang nhất..., những người thầy giáo tốt là những anh
hùng vơ danh... Nếu khơng có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao
mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là
vẻ vang”4.
2
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H. 2011, tập 4, tr. 34.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H. 2011, tập 6, tr. 467.
4
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H. 2011, tập 14, tr. 402-103.
3
5
Với một tầm nhìn thời đại và tư duy tồn cầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
ra những mục tiêu của giáo dục là “đào tạo các em nên những người cơng dân hữu
ích cho nước Việt Nam, phát triển toàn diện con người, thúc đẩy hoàn toàn những
năng lực sẵn có của các em”. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. “Học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; “Học để sửa chữa
tư tưởng”; “Học để tu công đạo đức cách mạng”; “Học để tin tưởng”..., phải đào
tạo ra những con người vừa hồng, vừa chuyên, vừa có đức, vừa có tài. Ngày
21/10/1964, trong bài nói chuyện tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh những nội dung cốt yếu trong giảng dạy và học tập: “Dạy cũng
như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái
gốc, rất là quan trọng. Nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vơ dụng.
Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng, một dạ phục
vụ nhân dân”5. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục đó, nhà trường và thầy giáo
phải dạy cho học sinh các nội dung giáo dục như thể dục, trí dục, mỹ dục và đức
dục. Ngành giáo dục cần phải thực hiện tốt phương châm, phương pháp giáo dục –
đào tạo với 3 nội dung: Một là, kết hợp học với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn.
Hai là, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. Ba là, học tập là công việc suốt
đời của mỗi người.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hố, giáo dục
Về văn hóa:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cơng cuộc đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
(1960), Đảng ta đã xác định rằng văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến
hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng
khoa học kỹ thuật. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12 – 1976)
xác định xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới… tiến hành đấu
tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội V của Đảng
(3 – 1982) cũng chỉ rõ nền văn hóa mới mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa
có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu
sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V cũng
đã nêu đầy đủ, sâu sắc nội hàm khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”. Đại hội lần thứ VI của
Đảng (1986) khẳng định: “Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt
động văn hóa, văn học, nghệ thuật; xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ
nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”. Năm 1991, trước những biến động phức tạp của
tình hình thế giới, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, Đảng trình Đại hội
VII “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”,
xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
5
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H. 2011, tập 14, tr. 400.
6
sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Quan điểm "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” được nhấn mạnh trong Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa VII. Tiếp đó ngày 16/07/1998, tại Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Nghị quyết về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nghị
quyết đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể. Đây là nghị quyết bổ
sung, hoàn thiện một bước quan trọng đường lối xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới, với xu hướng
phát triển của thời đại từ quan niệm về văn hóa; vị thế, vai trị của văn hóa đối với
sự phát triển; từ quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản
để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội”. Quan điểm này được làm sâu sắc hơn trong văn kiện Đại hội lần thứ X của
Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tại Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
khẳng định “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Nhằm thúc đẩy sự
phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị khóa X ra Nghị quyết số 23
NQ/TW, ngày 16/6/2008 về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan
trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân,
thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần
xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người
Việt Nam. Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn
học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng
con người”. Ngày 14/05/2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong
đó tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định,
“Phát triển con người tồn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát
7
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa.
Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi
dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam
là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” 6.
Điều này càng thể hiện rõ, cùng với việc làm tốt công tác xây dựng Đảng, phát
triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, việc thực hiện tốt định hướng phát triển
văn hóa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung
của đất nước.
Về giáo dục:
Tiếp thu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta
ln khẳng định vai trị hết sức quan trọng của giáo dục, coi phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000
đã xác định tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH
đó là: (1) Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con
người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (2) Thực sự coi giáo
dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu; (3) Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; (4) Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ KH&CN và củng cố quốc phịng, an
ninh; (5) Thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; (6) Giữ vai trò
nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hố các loại hình giáo dục đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý. Cương lĩnh (bổ sung và phát triển
năm 2011) đã đưa ra những quan điểm, định hướng lớn về phát triển giáo dục và
đào tạo, chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho
phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội”7. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2010-2020 xác định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” 8. Các văn kiện quan trọng khác của
Đảng, Nhà nước trong nhiệm kỳ đại hội XI, XII tiếp tục cụ thể hóa chủ trương đổi
mới giáo dục và đào tạo. Hội nghị Trung ương 6, khóa XI khẳng định:“Đổi mới
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, t.II, tr.330.
7
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb CTQG- Sự thật. H 2011, tr 77.
8
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb CTQG- Sự thật. H 2011, tr 131.
8
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một yêu cầu khách quan và cấp bách”,
đòi hỏi phải: đổi mới tư duy, đổi mới mục tiêu đào tạo; hệ thống tổ chức, loại hình
giáo dục và đào tạo; nội dung, phương pháp dạy và học; cơ chế quản lý; xây dựng
đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện đảm bảo..,
trong tồn hệ thống, tiếp tục cần được cụ thể hóa trong từng giai đoạn. Nghị quyết
Đại hội XIII khẳng định: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân
tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng
một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu
vực và thế giới”9.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA, GIÁO
DỤC VÀ NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Một số vấn đề thực tiễn về văn hóa, giáo dục
Gian lận điểm thi THPT tại các tỉnh (2018):
Chưa bao giờ kỳ thi vào đại học, cao đẳng lại vướng phải bê bối gian lận kỷ lục
như kỳ thi THPT Quốc gia năm 2018. Bê bối này khiến cho những giọt nước mắt
của học sinh đã rơi vì suy sụp, bất cơng; nhiều thầy cơ phải vướng vào vịng lao lý.
Những sai phạm trong kỳ thi đã làm mất niềm tin của người dân về một kỳ thi
khách quan, trung thực và về hình ảnh nhà giáo.
Vụ nâng, sửa điểm bị phát hiện ở các tỉnh như Hà Giang, Sơn La, Hịa Bình,
như một cơn “địa chấn” của ngành Giáo dục năm 2018. Trong số những địa
phương có gian lận điểm thi được tìm ra, Hà Giang là địa phương đầu tiên. Ngay
sau khi Bộ GD&ĐT công bố điểm thi vào chiều tối 11/7/2018, trên mạng xã hội,
một số phóng viên tiếp cận được thông tin băn khoăn về phổ điểm thi bất thường
tại địa phương này. Theo kết quả chấm thẩm định ở Hà Giang, có hơn 100 bài thi
được nâng từ 1 đến 8 điểm. Khơng ít thí sinh có tổng điểm chênh lên hơn 20 điểm
so với điểm chấm thẩm định. Cá biệt có những thí sinh có tổng điểm được làm tăng
lên đến 26,8 điểm; thậm chí 29,95 điểm so với điểm chấm thẩm định.
Sau Hà Giang, thì dư luận tiếp tục đặt nghi vấn gian lận điểm thi ở Sơn La và
Hịa Bình. Kết quả chấm thẩm định bài thi tại Sơn La cho thấy, hành vi nâng điểm
được thực hiện từ trực tiếp bài thi của thí sinh nên sự phát hiện khó hơn cho cơ
quan điều tra. Sau năm ngày làm việc liên tục, chiều 23/7/2018, tổ công tác công
bố hàng loạt sai phạm tại Sơn La. Theo đó, có hàng trăm bài thi cũng bị can thiệp
trực tiếp. Bất thường điểm thi của Hịa Bình thể hiện đầu tiên ở số lượng thí sinh
9
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, t.II, tr.330.
9
đạt điểm từ 9 trở lên ở mơn Tốn. Ngày 21/7, Bộ GD&ĐT thành lập 3 tổ chấm
thẩm định tại các Hội đồng thi tỉnh Hịa Bình. Theo đó, Hội đồng chấm thẩm định
của Bộ GD&ĐT về Hịa Bình làm việc, rút toàn bộ số bài từ 8 điểm trở lên để
chấm lại. Kết quả chấm thẩm định cho thấy, 100% bài chấm thẩm định có kết quả
giống kết quả như ban đầu công bố. Đến ngày 24/7, Bộ GD&ĐT cơng bố kết quả
chấm thẩm định tại Hịa Bình khơng thay đổi so với kết quả đã công bố trước đó.
Tuy nhiên, Hội đồng thẩm định đã chỉ ra việc lập một số biên bản trong khi thực
hiện các bước chấm thi trắc nghiệm cịn sơ sài. Sau đó, Bộ GD&ĐT đã có cơng
văn gửi Bộ Cơng An điều tra làm rõ sự việc. Đến chiều 3/8, Cơ quan An ninh điều
tra Bộ Công An đã ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam 2 người liên quan
đến kỳ thi THPT quốc gia 2018 tại tỉnh Hồ Bình. Những gian lận điểm trong kỳ
thi THPT Quốc gia 2018 được làm rõ, đã có những đối tượng phải tra tay vào cịng
do cố tình làm sai quy chế. Đến nay, 11 người bị bắt trong vụ việc vẫn đang được
Bộ GD&ĐT phối hợp với các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ. Hầu hết những
trường hợp được nâng điểm được cho là con lãnh đạo UBND thành phố, UBND
huyện, sở GD&ĐT, cục trưởng, công an, giáo viên và nhiều cán bộ ở lĩnh vực
khác.
Sai phạm nghiêm trọng xảy ra tại nhiều di tích ở Thanh Hóa:
Hàng loạt những sai phạm nghiêm trọng đã xảy ra tại nhiều di tích trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa nhưng lại chỉ được xử lý theo kiểu “kiểm điểm, rút kinh nghiệm
sâu sắc”, rồi sau đó vẫn… y nguyên hoặc “phạt cho tồn tại”, khiến cho dư luận bức
xúc. Chỉ tính từ năm 2019 cho tới nay, có thể dễ dàng điểm mặt, chỉ tên những di
tích bị vi phạm nghiêm trọng: Đầu năm 2020, báo chí phát hiện hàng loạt cơng
trình nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi, khu lưu trú... được xây dựng tràn lan
trong khu vực bảo vệ I của danh thắng quốc gia Kim Sơn (xã Vĩnh An, Vĩnh Lộc)
chưa được các cấp có thẩm quyền cho phép xây dựng. Điều đáng nói là khi báo chí
phản ánh, UBND huyện Vĩnh Lộc mới chỉ đạo kiểm tra và phát hiện trong vùng lõi
danh thắng Kim Sơn có hàng loạt cơng trình đang xây dựng.
Tại di tích quốc gia Hồ Đồng Vụa (Nga Sơn) hiện đang bị xâm hại nghiêm
trọng bởi hàng loạt các cơng trình xây dựng sai phép diễn ra trong suốt thời gian
dài, làm ảnh hưởng đến cảnh quan cũng như môi trường sinh thái trong quần thể
khu danh lam thắng cảnh này. Mặc dù đã bị các cơ quan chức năng tỉnh Thanh Hóa
nhiều lần kiểm tra, lập biên bản yêu cầu dừng việc xây dựng trái phép, thế nhưng
những sai phạm này đến nay vẫn chưa được xử lý. Vụ việc này chưa được xử lý,
vụ việc khác đã lại xảy ra. Nghiêm trọng hơn khi mới đây, việc tu bổ, phục hồi di
tích cấp tỉnh chùa Bạch Tượng, xã Nga Giáp (huyện Nga Sơn) đã bị các cơ quan
chức năng tỉnh Thanh Hóa phát hiện có nhiều hạng mục khơng đúng với hồ sơ
thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó, dù Sở Văn
10
Hóa Thể Thao Du Lịch (VHTTDL), UBND huyện Nga Sơn đã ra nhiều văn bản
yêu cầu dừng thi công đầu tư xây dựng, phục hồi cơng trình khơng tn thủ đúng
quy định, tuy nhiên các hạng mục sai phạm vẫn ngang nhiên hoàn thiện và đưa vào
sử dụng, trước sự bất lực của chính quyền địa phương. Hiện các cơ quan chức năng
đã có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa xem xét, cho thu hồi quyết
định cơng nhận xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với chùa Bạch Tượng. Điều đáng
buồn hơn, khi mới đây Sở VHTTDL Thanh Hóa lại chỉ ra hàng loạt sai phạm liên
quan đến việc tu bổ, phục hồi tại các di tích như chùa Thanh Hà, chùa Đại Bi, chùa
Đơng Tác, chùa Giáp Hoa, chùa Tam Giáo, chùa Linh Ứng, chùa Liên Hoa...
Nguyên nhân là việc tu bổ, phục hồi các di tích trên do nhà chùa thực hiện, vai trị
của cấp chính quyền chưa được quan tâm. Nhắc lại hàng loạt vi phạm di tích
nghiêm trọng ở Thanh Hóa, nhiều chuyên gia đã hơn một lần cho rằng xử phạt vi
phạm di tích “cho vui” hoặc theo kiểu “giơ cao đánh khẽ”. Vụ việc nghiêm trọng ở
danh thắng quốc gia Kim Sơn sau hàng loạt cuộc họp, thanh tra thì hình thức xử lý
cao nhất chỉ là kiểm điểm trách nhiệm. UBND xã Vĩnh An và Phòng VHTT thuộc
UBND huyện Vĩnh Lộc khi ấy chỉ “nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu
sắc”.
Đối với di tích quốc gia Hồ Đồng Vụa, trước thực trạng xây dựng, khai thác
dịch vụ trái phép, các cơ quan chức năng tỉnh Thanh Hóa cũng đã có nhiều văn bản
đề nghị UBND huyện Nga Sơn có hình thức xử lý trách nhiệm đối với cá nhân, tập
thể trong vụ việc này, đồng thời khẩn trương chấm dứt hợp đồng giao khoán Hồ
Đồng Vụa, thu hồi diện tích đất thầu; phối hợp với gia đình ơng Hoàng Minh
Thanh (bên thầu) tổ chức tháo dỡ các hạng mục cơng trình xây dựng trái phép, trả
lại ngun trạng cho di tích. Tuy nhiên đến nay sai phạm trên vẫn tồn tại và khơng
được xử lý. Cịn về xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân khi để xảy ra sai phạm tại di
tích này chỉ dừng ở mức “làm cho có”, do đó hơn hai năm nay chưa có dấu hiệu
cho thấy lãnh đạo địa phương phải chịu xử lý ở những mức có tính răn đe hơn. Vụ
việc được giới chuyên gia di sản đánh giá nghiêm trọng ở cơng trình chùa Bạch
Tượng cuối cùng cũng thành ra “đánh trống bỏ dùi”. Việc chỉnh sửa kiến trúc của
di tích này theo đúng quy định là bất khả thi bởi lý do cơng trình xây dựng lớn nên
việc phá, dỡ gặp nhiều khó khăn và gây lãng phí tiền của đóng góp của nhân dân.
Trước thực trạng sai phạm nghiêm trọng xảy ra ở nhiều di tích, Sở VHTTDL
Thanh Hóa đã có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Chỉ thị tăng
cường công tác quản lý hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị di
sản văn hoá vật thể trên địa bàn tỉnh.
Hai vụ việc trên đây chỉ là một trong những sai phạm tiêu biểu liên quan đến
lĩnh vực văn hóa, giáo dục, ngồi ra thì cịn có rất nhiều vụ việc sai phạm khác
cũng như những hạn chế, yếu kém cần phải được giải quyết. Những hạn chế, yếu
kém trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục có thể kể đến như sau:
11
Thứ nhất, về văn hóa: So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại, thì thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương
xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và mơi trường văn hóa
lành mạnh. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng
và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi
còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu,
vùng xa với đơ thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Mơi trường
văn hóa cịn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ
tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng ngày càng gia tăng. Cịn ít những tác
phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác
phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động
lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được
ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây
lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền
thơng có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích. Cơ chế, chính sách về
kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực
cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho hoạt động văn hóa cịn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ,
hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý
văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cịn nhiều hạn chế, bất cập.
Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa
nước ngồi đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân,
nhất là lớp trẻ. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên là do nhiều cấp ủy,
chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết
liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng cịn chậm, thiếu đồng bộ và
trong một số trường hợp thiếu khả thi. Cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm
được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí bng lỏng; kỷ luật, kỷ cương
khơng nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và cịn dàn trải.
Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có
hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Thứ hai, về giáo dục: Hạn chế, yếu kém đầu tiên đó là cơng tác quy hoạch, sắp
xếp mạng lưới trường, lớp học ở một số địa phương cịn chưa phù hợp, thiếu
trường, lớp ở các khu đơ thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là các trường
mầm non; Hai là, tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết
triệt để. Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, phương pháp
giảng dạy chậm đổi mới; năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ quản lý trường
học còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới; Ba là, cơ sở vật chất, trường lớp học,
12
trang thiết bị dạy học nhiều nơi còn thiếu hoặc bị xuống cấp; cơng tác xã hội hóa
giáo dục chưa thực sự hiệu quả. Nguồn kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất cịn hạn
hẹp; cơng tác xã hội hóa giáo dục chưa thực sự hiệu quả; Bốn là, trách nhiệm giải
trình cịn thấp.Việc thực hiện tự chủ đại học chưa gắn liền với đổi mới quản trị nhà
trường, số lượng cơ sở đào tạo được tự chủ toàn diện chưa cao, tình trạng sinh viên
tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm cịn nhiều. Phương thức dạy nghề
trong các trường phổ thơng vẫn cịn nặng về kiến thức lý thuyết, việc phối hợp
giữa nhà trường phổ thông với các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất... chưa hiệu quả; Năm là, sự lựa chọn về các trường học khá hạn chế, tỷ lệ học
sinh đến trường ở cấp trung học cơ sở còn thấp, đào tạo chưa gắn kết với thị trường
lao động và sự cần thiết phải cải cách giáo dục một cách hệ thống và bài bản. Việc
tiếp cận công nghệ, mô hình giáo dục nước ngồi, các chương trình học bổng nói
chung ở các địa phương vùng sâu, vùng xa cịn rất ít. Các điều kiện đảm bảo chất
lượng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Sáu là, thiết kế,
cấu trúc của chương trình giảng dạy, cách đánh giá cũng như phương pháp dạy và
học cần phải đổi mới nhằm đảm bảo chất lượng của sinh viên khi ra trường. Cấu
trúc và nội dung, thời lượng các môn học cần phải điều chỉnh cho hợp lý, cân đối
và hấp dẫn; Bảy là, đổi mới giáo dục phổ thơng chưa đảm bảo lộ trình. Việc thực
hiện chương trình, kế hoạch giáo dục ở một số địa phương còn chưa nghiêm túc;
chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn thấp so với yêu cầu; Tám
là, công tác phát hiện và xử lý vi phạm còn chậm và chưa nghiêm. Việc ban hành
văn bản còn chậm, chưa đồng bộ; công tác xử lý vi phạm sau thanh tra ở một số
địa phương chưa nghiêm. Công tác truyền thông chưa thực sự chủ động, việc xử lý
thơng tin có lúc chưa kịp thời; Chín là, số lượng sinh viên du học tăng lên đáng kể
trong giai đoạn 2011 - 2016. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Ðào tạo ghi nhận
con số sinh viên du học đạt 130.000 sinh viên vào năm 2016. Đây là một tín hiệu
rất rõ về sự khơng hấp dẫn của giáo dục đại học trong nước.
2.2.
Nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, giáo dục
Về văn hóa:
Khi nhìn lại dịng chảy lịch sử của đất nước ta có thể thấy, nhận thức của Đảng
ta về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã từng
bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (7/1998), đã
ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”, cho thấy sự chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng
về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng
Đảng. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn
13
hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình
cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội” 10.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức
cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa,
quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước phát triển trong quan
điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân
cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đại hội xác định
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Để đạt
được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động phải được triển khai đồng bộ, chú
trọng việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”,
phong trào “Người tốt, việc tốt”, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người…
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan điểm về văn
hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra u cầu đa dạng hóa các hình
thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống… Đại hội XI khẳng
định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển, coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân”11. Đại hội đề ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ VIII của Đảng”, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X,
XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 356 – 357.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011)”,Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Sđd, tr.
14
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát
triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân,
tuân thủ pháp luật. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước đã khẳng định mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Văn hóa tiếp tục là vấn đề quan trọng, có tính thời sự và dành được sự quan
tâm sâu sắc.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và
xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” 12. Báo cáo chính trị tại Đại
hội XII của Đảng cũng xác định nhiệm vụ đó là: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện. Tuy
nhiên, Báo cáo chính trị của Đại hội XIII khơng chỉ dừng lại ở đó, mà cịn nhấn
mạnh u cầu về phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây chính là một bước nhận thức mới
của Đảng về mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa văn hóa và con người, nhấn mạnh
hơn đến vai trị của con người với tính chất là chủ thể và cũng là mục đích của phát
triển nền văn hóa. Phát triển nền văn hóa chính là phát triển con người và ngược
lại. Cùng với chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, sự tăng cường và gắn kết xây dựng con người và nền
văn hóa trong một thể thống nhất sẽ là cơ sở vững chắc để “khơi dậy truyền thống
yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc”, khơng chỉ làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, mà
còn trở thành động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng xác định phải quan tâm đúng mức đến xây dựng mơi trường văn hóa lành
mạnh, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Với sự đánh giá khách quan, Đảng
ta thẳng thắn chỉ rõ: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và
chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền
vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định
đúng tầm, cịn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần. Thiếu những
738.
12
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 126 – 127.
15
tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc cơng cuộc
đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Mơi trường văn hóa, xã hội tiếp
tục bị ơ nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”13.
Về giáo dục:
Tại Đại hội IV, Đảng chỉ rõ: Tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước; phát
triển giáo dục phổ thông; sắp xếp, từng bước mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp; phát triển rộng rãi các
trường dạy nghề. Ngày 11/1/1979, Bộ Chính trị khóa IV đã ra Nghị quyết số 14NQ/TW “Về cải cách giáo dục” nhằm cụ thể hóa, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Nghị quyết nêu mục tiêu của cải cách giáo
dục lần này đó là: Làm tốt việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ
cho tới lúc trưởng thành, nhằm tạo cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt
Nam mới, người lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện. Nghị quyết nêu
nguyên lý cải cách giáo dục là việc học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Đây là lần đầu tiên Đảng ta có một
nghị quyết chuyên đề về giáo dục sau khi nước nhà thống nhất, có nhiều vấn đề đặt
ra cần cụ thể hóa bằng các chính sách, đề án để thực hiện, từ xác định mục tiêu cụ
thể, sắp xếp lại cơ cấu hệ thống cho đến vấn đề biên soạn sách giáo khoa thống
nhất cho các cấp học, bậc học. Nghị quyết này đặt nền móng cho cải cách giáo dục
những năm 80 của thế kỷ XX. Do vậy, việc cải cách toàn diện nền giáo dục nước
nhà là một việc rất cần thiết và quan trọng. Nhu cầu xây dựng một hệ thống giáo
dục thống nhất là nhu cầu thực tiễn đặt ra ở nước ta.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Đảng ta xác định: Thực hiện cải cách
giáo dục một cách vững chắc; hết sức coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhiệm vụ trong những năm tới là triển khai cải cách giáo dục và phát triển sự
nghiệp giáo dục một cách tích cực và vững chắc theo những bước đi phù hợp với
yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân; ra sức phấn đấu nâng cao chất
lượng giáo dục, coi trọng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Ở miền
Nam và miền núi, đi đôi với việc nâng cao chất lượng giáo dục phải chú trọng phát
triển về số lượng trường lớp, nhất là ở bậc phổ thông, đồng thời không xem nhẹ
công tác bổ túc văn hóa và xóa nạn mù chữ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng là Đại hội đánh dấu sự đổi mới tồn diện đất nước, trong đó có đổi mới
giáo dục và đào tạo. Nghị quyết của Đại hội xác định: Giáo dục nhằm mục tiêu
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào
tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân
công lao động của xã hội.
13
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.84.
16
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác
định: Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phải được xem là quốc sách
hàng đầu. Mục tiêu giáo dục và đào tạo: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực
thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đào tạo thế hệ trẻ theo hướng tồn diện và có năng lực
chun mơn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Ngày 14/1/1993, Đảng ta ban hành Nghị quyết số
04-NQ/HNTW “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Đây là lần đầu
tiên Đảng ta ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đáp
ứng lịng mong đợi của tồn Đảng, tồn dân ta, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên trong cả nước về việc xác định quan điểm,
chủ trương, chính sách, biện pháp tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục. Nghị
quyết không những chỉ ra những giải pháp cấp bách để xử lý những vấn đề thời sự
nóng bỏng của cơng tác giáo dục và đào tạo mà còn định hướng phát triển sự
nghiệp này theo cương lĩnh và chiến lược của Đảng đến sau năm 2000, nhằm
chuẩn bị cho nhân dân ta, đặc biệt cho thế hệ trẻ vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng, một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng
của giáo dục đào tạo “Giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu”. Coi trọng cả ba mặt của giáo dục: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ u cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với các nước trên thế
giới. Tại Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra
Nghị quyết 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về định hướng chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến
năm 2000. Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Phát triển giáo dục đào tạo là một
trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Đại hội lần thứ X
đã xác định mục tiêu giáo dục đó là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần u nước,
lịng tự tơn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp
luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, khơng cam chịu nghèo nàn, đào
tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan
tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học
công nghệ, đồng thời, tiếp tục khẳng định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp
17
hóa, hiện đại hóa đất nước”. Dựa trên cơ sở kế thừa các kỳ đại hội trước, cùng với
đó là sự biến chuyển nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực nói chung và
trong nước nói riêng, nhiều nước trên thế giới đã bước vào cuộc cách mạng thông
tin, xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức, khoảng cách về trình độ kinh
tế, khoa học công nghệ giữa nước ta với các nước phát triển trên thế giới, kể cả
một số nước trong khu vực có xu hướng ngày càng mở rộng thêm, mà nguyên nhân
quan trọng là chất lượng trí tuệ, năng lực sáng tạo và kỹ năng chun mơn cịn bất
cập của nguồn nhân lực. Điều này đặt ra cho nền giáo dục nước ta nhiều thách
thức, trước những thách thức đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta
khẳng định “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”.
Đại hội XII của Đảng xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo;
phát triển nguồn nhân lực là một trong những định hướng lớn để hiện thực hóa
mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, đại hội đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát, trong đó có nhiệm vụ: “Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” 14. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng chiến
lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với
những giải pháp đồng bộ”15. Lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan điểm đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo phải gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực.
Bởi lẽ phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công nghệ, cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Kế thừa những tư
tưởng cơ bản của các kỳ đại hội Đảng và các nghị quyết về giáo dục và đào tạo
trước đây, tại Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu”16. Giáo dục và đào tạo là chủ trương, chính sách được quan tâm hàng
đầu của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách giáo dục và đào tạo là chính sách do
Nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo những mục tiêu
cụ thể. Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục
chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”17.
Đến Đại hội lần thứ XIII, sau kết quả và hạn chế trong giáo dục và đào tạo của
nhiệm kỳ Đại hội XII đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa chủ trương về đổi
1414,15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.109.
15
16
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.114.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.114-115.
18
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng,
với nhiều điểm mới. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về đề mục, các văn kiện lần này, như trong Báo cáo Chính trị tập
trung đề cập đến giáo dục và đào tạo ở mục V, so với Đại hội XII, tên đề mục đã
thay cụm từ ” phát triển” bằng cụm từ “ nâng cao” chất lượng nguồn nhân lực và
thêm cụm từ ” phát triển con người”. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2021- 2030, vấn đề này được đề cập ở tiểu mục 3, phần V, phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội, với tiêu đề: phát triển nguồn
nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Điểm mới lần này, trực
tiếp đề cập đến giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, trước đây chỉ nhấn
mạnh “phát triển nhanh giáo dục và đào tạo”.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo,
yêu cầu phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ
trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
là động lực then chốt để phát triển đất nước”. Trước đây chỉ đề cập phương hướng
chung: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Văn kiện lần này yêu cầu xác định rõ
mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới, nhằm xây dựng con người
Việt Nam phát triển tồn diện, có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách
nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và “Chú trọng giáo dục
phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu
nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể
chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Thứ ba, nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học
đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị
công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ
chức cuộc sống, chăm sóc con người. Trước đây chỉ đề cập:“ chú trọng phát hiện,
bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”,
điểm mới lần này nhấn mạnh đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân
tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc
biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo
hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản, toàn
19
diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển
dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỉ lệ lao động khu vực phi
chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.
Thứ tư, cụ thể hóa yêu cầu hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp xếp lại
hệ thống trường học, phát triển hài hoà giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập,
giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số,
biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo.
Đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học trong điều kiện mới, tạo tiền đề và
bảo đảm điều kiện thuận lợi, để mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công
bằng thành quả của nền giáo dục. Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt
đời. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục. Thực hiện cơ chế tự chủ
đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới. Có chính sách
đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. “Có cơ chế hỗ trợ xây
dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào
tạo có uy tín trong khu vực và thế giới” 18. Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào
tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, như:
thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào
chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú
trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng
tiếng Anh. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở
trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở
các cấp học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang
tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet,
truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khố, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. ”Đào tạo con người theo
hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm cơng dân, xã hội; có kỹ
năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy
sáng tạo và hội nhập quốc tế”19.
18
19
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H. 2021, tr 234.
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H. 2021, tr 233.
20