Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

một số vấn đề về tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của nó và một số biện pháp để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.21 KB, 28 trang )

Lời nói đầu
Chúng ta biết rằng duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là yêu cầu cần thiết để
tăng trởng kinh tế và là mục tiêu hàng đầu, tập trung các chính sách kinh tế
của chính phủ. Một trong những công cụ mà chính phủ sử dụng để tác động
vào nền kinh tế đó là chính sách tỉ giá.
Tỷ giá hối đoái xuất hiện cùng với sự xuất hiện của thơng mại quốc tế
trên cơ sở sản xuất, trao đổi và sử dụng những lợi thế khác nhau trong phân
công lao động quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà
các quá trình quốc tế hoá đã bao trùm tất cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh và trong cuộc sống thì sự gia tăng của hiệp tác quốc tế nhằm phát huy
và sử dụng những lợi thế so sánh của mình làm cho việc quản lý tỷ giá hối
đoái ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy
việc quản lý tỷ giá hối đoái đòi hỏi phải có sự quan tâm sâu sắc của chính phủ
để có thể đa ra những chính sách tỷ giá hợp lý nhất, phù hợp với điều kiện của
nền kinh tế để có thể cạnh tranh đợc trên thị trờng quốc tế từ đó đạt đợc mục
tiêu phát triển kinh tế.
Để có thể hiểu biết thêm về tỷ giá hối đoái, về những ảnh hởng của nó
đến thị trờng, đến nền kinh tế vĩ mô, trong khuôn khổ đề tài này, em xin trình
bày một số vấn đề về tỷ giá hối đoái, ảnh hởng của nó và một số biện pháp
để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của tỷ giá hối đoái trong giai đoạn
hiện nay. Trong đề án này có những nội dung chính nh sau:
Chơng I : Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái
Chơng II: Hệ thống tỷ gía hối đoái ở Việt Nam
Chơng III: Những giải pháp hoàn thiện tỷ giá hối đoái
Vì chuyên môn và kiến thực tế còn hạn chế cộng với những hạn chế
trong việc thu thập tài liệu, do đó trong đề án này không tránh khỏi những
khiếm khuyết. Vì vậy, em mong đợc sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô và các
bạn, giúp em có cách nhìn sâu hơn về vấn đề và hoàn thành tốt hơn cho những
công trình tiếp theo.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến quý
báu của các thầy, cô giáo trong khoa đặc biệt là thầygiáo-Tiến sĩ Nguyễn Hữu


Tài và cô giáo Cao Thị ý Nhi cùng tập thể bạn bè đã giúp em hoàn thành đề
án này.
1
Chơng I
tổng quan chung về hệ thống
tỷ giá hối đoái
I. Một số vấn đề về tỉ giá hối đoái và các khái niệm có
liên quan.
Để có thể đi sâu nghiên cứu tỷ giá hối đoái, trớc hết chúng ta cần phải
xem xét một số khái niệm có liên quan đến vấn đề này.
1. Thị trờng ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Vì các nớc khác nhau thì sử dụng những đồng tiền khác nhau hay những
phơng thức thanh toán khác nhau nên khi muốn mở rộng quan hệ thơng mại
quốc tế thì cần phải có một nơi để có thể trao đổi tiền giữa các nớc với nhau,
đó chính là thị trờng ngoại hối. Nh vậy thị trờng ngoại hối là thị trờng quốc tế
trong đó đồng tiền quốc gia này có thể đổi lấy tiền của quốc gia khác.
Thông thờng tỷ giá hối đoái đợc hiểu là số lợng đơn vị nội tệ cần thiết để
mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối; là hệ số quy đổi của một
đồng tiền này sang một đồng tiền khác đợc xác định bởi mối quan hệ cung
cầu trên thị trờng tiền tệ. Trong kinh tế học khi phân tích về tỷ giá hối đoái,
ngời ta thờng sử dụng các kí hiệu sau :
* e-Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nớc ngoài
* E-Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ
Chính sách tỷ gá hối đoái của mỗi quốc gia thờng liên quan đến sức cạnh
tranh quốc tế của quốc gia đó. Nếu e giảm tức là giá trị của đồng nội tệ giảm
thì giá cả của hàng hoá trong nớc sẽ rẻ tơng đối so với giá cả của hàng hoá ở
nớc ngoài, vì thế xuất khẩu sẽ có xu hớng tăng, nhập khẩu có xu hớng giảm,
khả năng cạnh tranh của quốc gia này tăng lên.
2. Tỷ giá hối đoái thực tế.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Để hiểu đợc vấn

đề này phải phân biệt đợc tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực.
2
Tỷ giá hi đoái danh nghĩa là một khái niệm tiền tệ phản ánh mức giá tơng đối
của hai đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực lại phản ánh mức giá tơng đối
giữa hai loại hàng hoá. Chính xác hơn, tỷ giá hối đoái thực là mức giá tơng đối
của những hàng hoá mậu dịch tơng ứng với các hàng hóa phi mậu dịch. Nh
vậy điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tơng ứng với giá so sánh giữa hàng hoá
thơng mại hoá và hàng hoá không thơng mại hoá đem lại đồng thời sự cân
bằng nội và cân bằng ngọai. Cân bằng nội có nghĩa là thị trờng hàng hoá
không thơng mại hoá đợc thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm
hụt cán cân vãng lai đợc tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nớc ngoài.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực (RER)
là vị trí cạnh tranh quốc tế của quốc gia có đồng tiền tơng ứng. Tỷ giá hối đoái
thực giảm xuống phản ánh mức tăng chi phí sản xuất của những hàng hoá mậu
dịch trong nớc. Nếu không có sự tăng giá tơng ứng ở các quốc gia khác thì
việc đó đồng nghĩa với việc suy giảm vị trí cạnh tranh đó : họ sản xuất hàng
hoá mậu dịch kém hiệu quả hơn các nớc khác.
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỉ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phơng pháp nghiên
cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phơng thức cờng độ, tốc độ tác
động của các yếu tố cụ thể, song nhìn chung có một số yếu tố quan trọng, trực
tiếp cấu thành NP và tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái, đó là :
-Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nớc
-Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hởng đến cung cầu ngoại tệ, thông
qua đó tác động lên mức tỉ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi
sức mua của đồng tiền
-Chênh lệch mức giá giữa các nớc, giữa thị trờng tín dụng nội địa và quốc
tế
-Thực trạng hoạt động của các thị trờng tài chính, ngoại hối và các xu h-

ớng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hởng đến tỷ giá
-Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trờng Tài chính trong nớc
và quốc tế
- Các phơng thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà nớc
3
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xã hội và các chính sách lớn của Nhà nớc
trong lĩnh vực kinh tế, tài chính tiền tệ
II. Các hệ thống tỷ giá
Tỷ hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tợng tham gia
vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thơng mại hay nhà đầu t. Tỉ giá
hối đoái cũng có vaii trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỉ giá có
thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số phụ thuộc vào
cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau của nhà nớc
khác nhau đến tỉ giá hối đoái đã tạo nên những cơ chế tỉ giá hối đoái khác
nhaugiữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỉ giá cơ bản là: cơ chế tỉ giá hối đoái cố
định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng tiền) và cơ chế tỉ giá
thả nổi (tỉ giá đợc xác định dựa vào cung cầu trên thị trờng). Mỗi quốc gia
trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau về mức độ cố định thả
nổi tỉ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định hay thả nổi tỉ giá
hối đoái. Điều này đã đa đến các nguyên tắc khác nhau về điều hành tỉ giá hối
đoái hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó
đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế tỉ giá hối đoái ở trên thế giới
1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ tỷ giả hối đoái ổn
định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng vào
đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định ngời ta có thể sử dụng
các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính bằng
tiền nớc họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nớc thành vàng

chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao dịch
tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền đồng
tiền trong nớc với số vàng nhà nớc có. Chính phủ chỉ có thể phát hành tiền
bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi tiền
giấy của họ thành vàng thì lợng tiền lu hành sẽ giảm đi. Dới chế độ bản vị
vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung tiền bị hạn chế nghiêm
4
ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá trị vàng tơng đơng trong
kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất giá,
việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng đợc thực hiện bằng vàng nh vậy
nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối trong thơng
mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã đợc sử dụng hầu nh suốt thế
kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở các nớc. Bản vị vàng có một u điểm lớn và một nhợc
điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn toàn mức cung tiền
nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền
liên tục trên quy mô lớn và tỉ lệ lạm phát một cách thờng xuyên cao. Tuy
nhiên do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá
và tiền lơng nội địa mà phải mất nhiều năm để điều chỉnh hoàn toàn theo mức
giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kì của bản vị vàng là thời kì trong đó
các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thơng dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu
dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
Dới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đợc cố định một cách
vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế, trong đó
các tỷ giá hối đoái thông thờng đợc cố định nhng một đôi lúc các nớc đợc
phép thay đổi tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này đợc ra đời gần cuối thế
chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia đợc tổ chức ở Brentton Woods
New Hampshire để hoạch định" một hệ thống tỷ giá hối đoái có trật tự thuận
lợi cho luồng thơng mại tự do". Theo hệ thống này tỉ giá chính thức giữa đồng

tiền của các nớc thành viên đợc hình thành trên cơ sở so sánh hàm lợng vàng
của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng) và chỉ đợc phép dao động trong
biên độ 1% của tỉ giá chính thức đã đợc đăng kí tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì
thế hệ thống tỉ giá này còn đợc biết với đến với tên gọi bản vị đôla. Theo chế
độ bản vị đô la, các đồng tiền đợc chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo
vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố định, các ngân hàng trung ơng cam kết mua
hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lợng đôla hiện có của họ. Họ
cam kết can thiệp vào thị trờng ngoại hối để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định
theo đồng đôla.
5
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không còn
sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể in
thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nớc. Nếu tình trạng thâm hụt ngân
sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của mình
để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nớc sẽ cạn kiệt dự trữ ngoại hối,
lúc đó nhà nớc sẽ phải phá giá tỉ giá hối đoái của mình chuyển sang một nớc giá
trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thờng xuyên sức cạnh tranh và
loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay đợc coi là bền vững thì sẽ tạo
cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, nh vậy sẽ thúc
đẩy đầu t và thơng mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự hạn chế đối
với chính sách tiền tệ trong nớc vì do tỷ giá hối đoái cố định nên không
khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không
cần thiết phải có sự quan tâm thờng xuyên của ngân hàng trung ơng. Tỷ giá
hối đoái cố định sẽ là tối u nếu các ngân hàng trung ơng có thể thực hiện đợc
sự điều chỉnh cho tới mức tỉ giá tơng đối cân bằng và thực hiện việc cố định tỉ
giá ở mức đó; cơ chế tỉ giá cố định trực tiếp đặt ra sự tuân thủ đối với chính
sách tiền tệ và có thể đợc coi là phù hợp trong tình huống các công cụ tài
chính và thị trờng tài chính cha phát triển đủ mức cho sự vận hành của chính
sách tiền tệ theo cơ chế thị trờng.

Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trờng hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh
hởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn
định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hởng tới dự trữ ngoại hối; tỉ giá hối đoái
cố định có thể làm ngời ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trờng sẽ buồn tẻ, khó
có thể xác định đâu là tỉ giá hối đoái tối u, hay hợp lý cho một nền kinh tế,
mặc dù cả chính phủ và nhân hàng trung ơng đều cần thiết phải hiểu hơn ai
hết đâu là mức cân bằng. Tỉ giá hối đoái danh nghĩa cố định có thể là quan
trọng nhng nó không quyết định tỉ giá hối đoái thực tế mà nó chỉ đợc coi là
chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỉ giá hối đoái cố định đòi hỏi
ngân hàng trung ơng phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị trờng ngoại hối để
đảm bảo mức tỉ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó có thể đa ra về mức độ
cần can thiệp nh thế nào để tác dộng vào nền kinh tế nhằm đạt đợc mục tiêu
can thiệp. Ngân hàng trung ơng cần thiết phải duy trì một mức nhất định về dự
trữ ngoại hối, nh vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. Tỉ giá hối đoái này cũng
6
phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác, và đó là điều đôi khi gây
bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ nào đó.
* Tỷ giá hối đoái thả nổi:
Là tỷ giá hối đoái đợc hình thành trên cơ sở diễn biến cung cầu. Có hai
loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng
nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức là
đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân bằng)
Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lợng trong nớc và tỷ giá hối đoái
thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lợng ở nớc ngoài và tỉ giá
hối đoái thực tế. Do đó khi nền kinh tế trong nớc và nớc ngoài đều ở trong tình
trạng cân đối hoặc ở mức sản lợng tiềm năng,thì chỉ có một tỉ giá chính thức
duy nhất đồng thời tơng ứng với sự cân bằng bên ngoài.ở bầt kì mức tỉ giá hối
đoái nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có sức cạnh tranh kém hơn. Nhập
khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn, nền kinh tế sẽ bị thâm hụt trong tài
khoản vãng lai. Ngợc lại ở bất kì một mức tỷ giá hối đoái thực tế nào thấp hơn

với xuất khẩu cao hơn và nhập khâủ thấp hơn, nền kinh tế nội địa sẽ có một
khoản thặng d trong vãng lai. Chỉ có một tỉ giá hối đoái thực tế duy nhất tơng
ứng với sự cân đối bên trong và bên ngoài.
Khi tỷ giá thả nổi tự do, thì không có sự can thiệp nào trên thị trờng
ngoại hối và không có khoản chuyển nhợng ròng về tiền giữa các nớc với nhau
vì cán cân thanh toán luôn bằngkhông. Và về lâu dài, tỉ giá hối đoái danh
nghĩa sẽ phải điều chỉnh để đạt tới mức tỉ giá hối thực tế duy nhất cần thiết
cho sự cân đối bên trong và bên ngoài trong sự cân bằng dài hạn .
Ưu điểm của tỷ giá hối đoái thả nổi là nó đợc hình thành trên cơ sở cung
cầu trên thị trờng. Qua cơ chế thị trờng các nguồn lực đợc phân bổ một cách
thành công và có hiệu quả. Cung cầu nội tệ và ngoại tệ sẽ đợc tự cân bằng trên
thị trờng. Ngân hành trung ơng sẽ không cần cũng nh không có phải có trách
nhiệm can thiệp vào thị trờng hối đoái mà chủ yếu thực hện theo yêu cầu của
khách hàng. Nhìn chung, tình hình thị trờng trong nớc sẽ không bị ảnh hởng
bởi các luồng vốn bên ngoài và vì vậy ngân hàng trung ơng có thể theo đuổi
chính sách tiền tệ một cách độc lập không phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
của quốc gia khác.
7
Tuy nhiên cơ chế này cũng có những nhợc điểm vì thị trờng luôn có rủi
ro, nhiều khi quá tải sẽ dẫn đến tỉ giá hối đoái không ở mức phù hợp với các
chỉ số kinh tế cơ bản của nền kinh tế, thậm chí tồn tại trong thời gian khá dài.
Hơn nữa khuynh hớng của tỉ giá trong tơng lai sẽ không chắc chắn, điều đó sẽ
khó khăn trong việc lập kế hoạch và tính toán giá cả. Những biến động không
chắc chắn của tỉ giá hối đoái có thể đợc khắc phục bằng các công cụ phòng
tránh rủi ro(nh hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa chọn) nhng sẽ gây ra thay đổi rất
lớn trong giá thành sản phẩm. Mặt khác sự tự do hoạt động của chính sách
tiền tệ trong nớc có thể bị lợi dụng, chẳng hạn nh chính phủ, do không có
trách nhiệm phải ngăn chặn sự mất giá của đồng tiền, nên có thể dễ thực hiện
việc lạm phát qua đờng ngân sách và tiền tệ.
Nh vậy trong chừng mực nào đó có thể nói rằng tỉ giá hối đoái thả nổi

hay cố định cũng đều có những u điểm và hạn chế. Việc lựa chọn một cơ chế
tỉ giá cố định hay thả nổi ở mức nào đó chắc chắn sẽ phụ thuộc vào từng quốc
gia với những diều kiện kinh tế và thị trờng khác nhau hay nói chung là phụ
thuộc vào lý do riêng nhằm mục đích phát huy những điểm mạnh và khắc
phục những hạn chế của mỗi cơ chế ở mỗi môi tròng kinh tế xã hội khác nhau.
Những quốc gia chủ trơng thả nổi tỉ giá hối đoái cho rằng: Nếu áp dụng cơ
chế này, thị trờng ngoại hối có tính minh bạch cao, thị tròng hoạt động hiệu
quả, và hơn nữa thị trờng phải để tự nó tự điều chỉnh. Chính sách tiền tệ phải
đợc thiết lập một cách độc lập, phù hợp với tình hình kinh tế trong nớc (nghiã
là đạt đợc sự ổn định mức giá chung của nền kinh tế), và tỉ giá hối đoái cần
phải đợc thả nổi theo bất kì hớng nào mà do thực tế đem lại mức tỉ giá hối
đoái đó.
Trong khi đó , những quốc gia chủ trơng cố định tỉ giá (tức là chủ trơng
gắn vào một hay một số đồng tiền chủ chốt, hoặc các đối tác kinh doanh chính
của nớc đó) với mục tiêu dung hoà các yếu tố chính trị, kinh tế và thơng mại.
Các nhà kinh tế công nhận tầm quan trọng và lợi ích của việc gắn đồng tiền
này trong việc thực hiện một chính sách tiền tệ chặt chẽ và tỉ giá hối đoái cố
định đợc a thích hơn bất kì một dạng thả nổi nào, vì tỉ giá hối đoái cố định
không đợc coi là công cụ độc lập hữu hiệu của chính sách tiền tệ trong dài
hạn. Những lợi ích do tỉ giá cố định đem lại đợc coi là nhiều hơn cái giá phải
trả cho những hậu quả mà nó gây ra cho nền kinh tế.
8
Các nhà nghiên cứu về tỉ giá hối đoái thờng tập trung vào vai trò của tỉ
giá trong việc bảo đảm cho nền kinh tế một mức sản lợng kinh tế cao, trong
điều kiện có rất nhiều bất ổn, hay các cú sốc trong nớc và quốc tế tác động
đến nền kinh tế. Và vì vậy, các nhà khoa học cho rằng, cơ chế tỉ giá hối đoái
thả nổi có khả năng đối phó tốt nhất đối với các cú sốc trong một nền kinh tế.
Vì sự thay đổi tỉ giá hối đoái sau mỗi cú sốc sẽ là cách hữu hiệu nhất nhằm
khôi phục lại mức sản lợng trở lại trạng thái cân bằng. Trong khi đó các nhà
kinh tế học cũng thừa nhận cơ chế tỉ giá hối đoái cố định có khả năng đối phó

một cách tốt nhất với sự mất cân đối về tiền tệ của nền kinh tế, vì rằng sự tăng
hay giảm ra từ dự trữ ngoại hối sẽ làm giảm sự tác động của sự mất cân đối
tiền tệ. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng những nớc có nền kinh tế mở cửa cao thì
nên sử dụng tỷ giá hối đoái cố định, vì với cơ chế tỉ giá thả nổi thì có rất nhiều
sự biến động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa mọt cách mạnh mẽ, tác động đến
giá thành sản phẩm, giá cả hàng hoá mạnh đến mức mà không có một sự thay
đổi nào của tỉ giá hối đoái nào có thể điêù chỉnh đợc, thậm chí chỉ `là mức
mong muốn; tuy nhiên sự mở cửa của nền kinh tế lại cần thiết phải duy trì chế
đô tỉ giá hối đoái thả nổi nhằm đảm bảo để cho chính sách tiền tệ không bị
ảnh hởng bởi các cú sốc từ bên ngoài trong chừng mực mà bản thân nền kinh
tế cần phải đối phó.
3 Sự can thiệp của nhà nớc vào hệ thống tỉ giá hối đoái.
Hệ thống tỷ giá hối đoái do ngân hàng trung ơng trực tiếp can thiệp là
can thiệp theo trách nhiệm (trong trờng hợp tỉ giá cố định) và can thiệp tự do
(áp dụng với cả tỉ giá cố định và thả nổi).
Ngân hàng trung ơng có thể sử dụng một số công cụ khác nhau để tác
động vào nền kinh tế thông qua cơ chế về tỉ giá hối đoái. Công cụ thứ nhất có
thể sử dụng là lãi suất chiết khấu, việc tăng giảm lãi suất chiết khấu có thể làm
ảnh hởng đến cung cầu tiền vì thế sẽ làm ảnh hởng đến tỉ giá hối đoái. Khi
ngân hàng trung ơng tăng lãi suất chiết khấu các ngân hàng thơng mại sẽ phải
tăng tỉ lệ dự trữ thực tế và làm cho mức cung tiền giảm, và nh vậy sẽ tác động
tới tỉ giá hối đoái. Thứ hai là ngân hàng trung ơng có thể tác động vào tỉ giá
hối đoái bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trờng, khi mà giá của đồng nội tệ
giảm so với đồng ngoại tệ ngân hàng trung ơng có thể đem ngoại tệ ra bán
nhằm cứu giá trị của đồng bản tệ. Ngợc lại khi giá trị của đồng tiền nớc ngoài
giảm mà muốn làm tăng tỉ trọng xuất khẩu ngân hàng trung ơng có thể làm
9
tăng giá trị của đồng tiền nớc ngoài bằng cách mua thêm nhiều ngoại tệ trên
thị trờng ngoại hối làm cho cầu ngoại tệ tăng lên thì có thể làm cho tỉ giá hối
đoái chuyển dịch.

Một công cụ nữa mà ngân hàng trung ơng có thể sử dụng nữa là phá giá
đồng tiền. Phá giá hay nâng giá là việc giảm bớt hay tăng lên tỉ giá hối đoái
mà đợc chính phủ cam kết ủng hộ, đây là một phơng pháp điều chỉnh tỉ giá
hối đoái danh nghĩa (theo hớng làm giảm giá nội tệ so với đồng ngoại tệ). Ph-
ơng pháp này đã đợc khẳng định về mặt lý thuyết và đã đợc hầu hết các nớc
trên thế giới áp dụng.
Trong ngắn hạn, khi giá cả và tiền lơng điều chỉnh một cách chậm chạp
việc phá giá làm tăng giá trong nớc của hàng nhập khẩu và làm giảm giá ngoài
nớc của hàng xuất nớc đó. Cả hai loại tác động này đều cải tiến mức cạnh
tranh quốc tế, các nguồn lực sẽ đợc thu hút vào nền kinh tế nội địa và đặc biệt
là đợc thu hút vào các ngành xuất khẩu mà giờ có thể cạnh tranh có hiệu quả
hơn trên thị trờng nớc ngoài. Tuy nhiên việc phá giá có thể không cải thiện đ-
ợc tài khoản vẵng lai trong thời gian trớc mắt thậm chí có thể dẫn đến thâm
hụt nhng khi xét về lâu dài, khi những ngời mua và ngời bán điều chỉnh lợng
xuất khẩu và nhập khẩu thì sẽ tạo ra thặng d trong tài khoản vãng lai của cán
cân thanh toán.
Trong dài hạn, nếu nền kinh tế không thực sự phát triển, việc phá giá sẽ
làm tăng mức tiền lơng và giá danh nghĩa để cho phù hợp với mức giá nhập
khẩu cao hơn làm cho tất cả các biến số thực tế khác không thay đổi. Cuối
cùng là phá giá sẽ không có tác động gì cả.
Nh vậy phá giá thờng đợc các chính phủ sử dụng để điều chỉnh kinh tế
trong ngắn hạn, nhng nếu không xem xét một cách kĩ lỡng thì việc phá giá sẽ
gây ra những hậu quả khôn lờng. Thứ nhất phá giá sẽ làm tăng lạm phát vì nó
làm tăng giá vật t, thiết bị nhập,thu hẹp lãi của các doanh nghiệp sản xuất, sẽ
ảnh hởng đến nguồn thu tài chính và làm cho lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn,
đồng thời lạm phát tăng sẽ làm tăng tỷ giá, càng phá giá càng không kiểm soát
nổi tiền tệ. Thứ hai là phá giá sẽ dẫn đến tăng giá hàng nhập, hạn chế tốc độ
phát triển kinh tế, tăng tỉ lệ thất nghiệp. Mặt khác khi nội tệ giảm giá sẽ làm
cho nhiều chủ đầu t dịch chuyển tài sản từ nội tệ sang đồng ngoại tệ, lúc này
cầu về ngoại tệ tăng cũng có nghĩa là giá nội tệ ngày càng giảm. Để cân bằng

10
lại và kiềm chế lạm phát thì chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ, tức là
lãi suất tín dụng cho sản xuất tăng, hạn chế tốc độ tăng trởng, lạm phát tăng,
tất cả các tình hình trên tác động xấu đến xuấtt khẩu.
Một số nớc thực hiện phá giá vã đã thất bại nh Mê-xi-cô là một điển hình
: Năm1976, tỷ giá tăng từ 12,5 Peso /1USD tới 22 Peso /1 USD, song do tỉ lệ
lạm phát khá cao nên nhập khẩu gia tăng đáng kể, làm cho tỉ giá thực giảm,
do vậy cán cân thơng mại vẫn bị thâm hụt.Đến năm 1982, Mexicô gặp
khó khăn trong thanh toán nợ, thâm hụt tài chính là 15 % GDP, lạm phát lên
tới 59 %. Khi đó chính phủ lại quyết định phá giá một lần nữa, nhng kết quả là
tỉ giá hối đoái thực giảm xuống,cán cân thơng mại xấu đi và sau đó một thoài
gian việc phá giá đồng bản tệ từ 3283 Pêso /1 USD lên 7200 Pêsô /1 USD đã
làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính càng trở nên trầm trọng (hàng
chục tỉ đôla chạy ra nớc ngoài, gánh nặng nợ nớc ngoài tăng 57 %, chỉnh phủ
phải vay 20 tỉ đôla để hỗ trợ kinh tế trong điều kiện bất lợi ).Nguyên nhân là
do việc phá giá diễn ra trong lúc lạm phát đang ở mức rất cao, thâm hụt thơng
mại rất lớn và nguồn vốn nớc ngoài giảm mạnh.
Nếu quốc gia thực hiện việc phá giá vào thời điểm tỉ giá hối đoái thực
đang trong tình trạng nội tệ bị đánh giá quá cao, thì việc phá giá sẽ có hiệu
quả trong việc lấy lại mức cân bằng tỉ giá hối đoái. Và nếu việc phá giá này đi
kèm với những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, thì sẽ gây đợc hiệu ứng tích
cực trung hạn hay dài hạn đối với tỉ giá hối đoái thực. Do vậy việc phá giá
danh nghĩa làm cho E tăng trong tỉ giá hối đoái thực nhằm cố gắng loại bỏ
tình trạng mất cân bằng thông qua hình thức tạo ra sự giảm giá trong thực tế,
nhng phải không có bất kì mức tăng tơng ứng nào của giá. Mức tăng này có
thể phát sinh từ các chính sách mở rộng tín dụng, các chính sách tài khoá mở
rộng, tiền lơng Nếu việc phá giá danh nghĩa đợc thực hiện đồng thời với các
chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính không đi đôi với chỉ số tiền lơng thì
chắc chắn sẽ đạt đợc sự giảm giá trên thực tế và khiến cho tỉ giá hối đoái thực
trở về mức cân bằng.

Nh vậy không phải phá giá cũng mang lại kết quả nh ý muốn có khi
không đẩy mạnh đợc xuất khẩu mà lại gây ra hiệu quả khó lờng. Mặt khác,
xuất khẩu tăng hay giảm không chỉ phụ thuộc vào tỉ giá mà còn phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác, ví dụ nh đồng YEN tăng giá liên tục so với đồng USD
trong mấy thập kỉ qua nhng hàng hoá của Nhật vẫn tiệp tục cạnh tranh trên thị
11
trờng quốc tế và cả thị trờng Mĩ là bởi vì hàng hoá của Nhật có chất lợng cao
và giá thành thấp.
Về nguyên tắc, cũng có một số phơng pháp khác có thể sử dụng thay thế
cho biện pháp phá giá đồng tiền, mặc dù không phải lúc nào cũng đạt đợc mọi
kết quả mong muốn. Các biện pháp đó là đánh thuế nhập khẩu đồng thời với
hỗ trợ xuất khẩu; duy trì chế nhiều tỉ giá hối đoái danh nghĩa và các chính
sách về thu nhập.
12
Chơng II
Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I. Sơ lợc về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ năm
1955 đến nay.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nớc trên thế giới
đang áp dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhng các nớc xã hội chủ
nghĩa, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nớc luôn can thiệp mạnh vào
mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn
tại, và phát huy tác dụng, thay vào đó là tỉ giá cố định, Việt Nam cũng không
nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỉ giá chính thức của VND đợc công bố vào ngày
25 / 11 / 1955, là tỷ giá giữa VND và đồng nhân dân tệ trung quốc là 1NDT
=1470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng Liên Xô là 1 Rúp bằng 735
đồng Việt Nam. Tỷ giá này đợc xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ của 34
mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai nớc nhằm giả quyết
nhu cầu thanh toán giữa hai nớc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nớc khác đợc thiết lập dựa trên

tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), nhà nớc còn đa ra hai
loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỉ giá kết toán nội bộ (tỷ giá giữa các
đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thơng). Nh vậy hệ thống tỉ giá
ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá, tỷ giá đợc xác định trên ý
đồ phục vụ kế hoạch của nhà nớc, các quyết định này không xuất phát từ nhu
cầu thực tại của nền kinh tế thị trờng trong và ngoài nớc, tỷ giá giữ vai trò thụ
động, cha phải là công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ
thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý đều hành của nhà
nớc trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sở dĩ có tình trạng nh vậy là vì một số nguyên
nhân, thứ nhất là do việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân
sách nhà nớc làm cho việc tính toán và thu chi ngân sách bị sai lệch nghiêm
trọng, công tác điều hành ngân sách nhà nớc khó khăn, làm giảm hiệu quả
hoạt động của ngân sách nhà nớc. Từ năm 1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô
viện trợ cho nớc ta khoảng 15 % thu nhập của cả nớc, bình quân từ 1,2 đến 1,5
13
tỉ rúp trong 1 năm nếu tính theo tỉ giá kết toán nội bộ thì số viện trợ này khoảng
1/3 tổng thu ngân sách, nhng nếu tính sức mua trên thị trờng của đồng rúp thì tỉ
trọng này vào khoảng 6070 %. Vì vậy nhu cầu đổi mới cơ chế tỉ giá nói
riêng,đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì
nếu để tỉ giá cũ làm cho việc bù lỗ nhập khẩu vợt mức chịu đựng của ngân sách
nhà nớc, thủ tiêu động lực xuất khẩu.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI, nhà nớc bắt đầu thực hiện công cuộc
đổi mới nền kinh tế, từng bớc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển
dần sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Đây là thời kì có sự
chuyển biến mạnh mẽ trong t duy quản lý và diều hành kinh tế của nhà nớc,
nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kì quan trọng trong cải cách
đợc đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nớc chính công bố xoá bỏ tỉ giá kết
toán nội bộ, xoá bỏ mội chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thơng. Tỷ giá

chính thức đuợc Ngân hàng nhà nớc chính thức công bố căn cứ vào chỉ số lạm
phát, lãi suất trên thị trờng, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến giá trên
thị trờng tự do và giá vàng trên thị trờng quốc tế và trong nớc. Trên cơ sở tỉ giá
này, các ngân hàng thơng mại xây dựng cho mình một tỉ giá dùng để giao dịch
hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên
đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trờng ngoại hối, xoá bỏ tình
trạng bất hợp lý trong mua bán thanh toán, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đã có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhng tỷ
giá vẫn có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm
1991, đồng Việt Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mĩ. Nguyên nhân chính là
do ảnh hởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính
của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. chính vì vậy vào cuối
năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đã can thiệp để nâng giá đồng Việt Nam
trên thị trờng ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích chống lạm phát bằng
cách giữ cho hàng nhập khẩu đợc ổn định vì từ năm 1990 trở lại đây, Việt
Nam đã nhập khẩu một số lợng lớn lợng nguyên, nhiên vật liệu để đáp ứng nhu
cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nớc, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của
nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm cho giá
thành sảm phẩm sản xuất trong nớc tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đã tăng. Trong
14
điều kiện nền kinh tế có nhiều nhân tố gây bất ổn địnhkhác thì việc giá thành
hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ do ngoại kiều gửi về Việt Nam khá lớn
làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác ngân hàng nhà nớc kiên trì quan điểm ổn
định tỉ giá bằng cách can thiệp vào thị trờng ngoại tệ, nhu cầu về ngoại tệ của
các doanh nghiệp cơ bản đợc đáp ứng, lạm phát gần nh đợc chặn lại, tạo lòng
tin cho dân chúng và sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả đợc tâm lý
đầu cơ. đó là những nguyên nhân cơ bản nhất khiến cho xu hớng lên giá của
đồng Đô la sẽ bị chặn lại, tỉ giá VND/USD không những không tăng mà còn
giảm xuống. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại trong viêc điều chỉnh này về tỷ

giá hối đoái quá mạnh đã gây sức rất ép lớn đối với sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng quan trọng của Việt Nam và là một
thị trờng vừa lớn lại vừa gần. Tỉ giá hối đoái do thị trờng quy định của Trung
Quốc đã bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1991, biến động khoảng từ 6-8
NDT / 1 đô la và có thời gian ngắn lên 10 NDT
Nh vậy, trong cùng điểm thời gian (tháng 8/1991) khi đồng Việt Nam lần
đầu tiên đạt mức tỉ giá danh nghĩa nh năm 1991 thì đồng Nhân dân tệ bị phá
giá 50%. Trong khi đó mức lạm phát ở Việt Nam là 67%, còn tại Trung Quốc
là 25%, do đó mức tăng trong sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc là rất
đáng kể và các nhà máy Việt Nam đã phải vất vả vì tình trạng này.
Nhà nớc đã đối phó với tình trạng này bằng cách vẫn giữ ổn định tỉ giá và
phát động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhập khẩu bằng hạn
nhập (Quota), cấm nhập khẩu cũng nh hạn chế cấp tín dụng cho nhập khẩu
cùng với một số chính sách u đãi đối với nhà xuất khẩu nh : Giảm thuế, bảo
hiểm giá đối nông sản xuất khẩu, trợ giá đối với những sản phẩm xuất khẩu
mới Nhng do biên giới với Trung Quốc rất dài, dễ qua lại và do việc buôn
lậu mang lại rất nhiều lợi nhuận nên hầu nh không thể ngăn chặn việc buôn
bán tại vùng này tuy có thể làm cho những hoạt động đó mang lại ít lợi nhuận
hơn. Tất nhiên những biện pháp này sẽ không giúp đợc gì cho các nhà xuất
khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu mức giá bằng USD vẫn không thay
đổi).
Diễn biến cụ thể của tỉ giá hối đoái trong 2 năm 1991, 1992 nh sau:
15
Năm 1991 :
Tháng 12 / 90 1 / 91 3 / 91 6 / 91 12 / 91
VNĐ/USD 7400 7900 8830 10050 12550
VNĐ/NDT 1350 1370 1460 1850 2350
Năm 1992 :
Tháng 12/91 1/92 3/92 6/92 9/92 12/92 1/93
VND/USD 12.900 11.800 11.550 10.285 10.950 10.720 10.500

Đến cuối năm 1992, đồng Việt Nam tăng 20 % so với đồng đô la vì thế
vào năm 1993, sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trờng sẽ bị giảm
mạnh. Sau đó Nhà nớc lại tăng giá đồng đô la trong cuối quý I năm 1993 là
cho đồng Nhân dân tệ tăng gía, sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị
trờng Việt Nam giảm
Tỷ giá năm 1993 của đồng Việt Nam so với đô la là
Tháng 12/92 1/93 3/93 6/93 7/93 9/93 12/93
VND/USD 10.720 10.500 10.500 10.580 10.680 10.750 10.835
Trong năm 1993, tỷ giá VNĐ/USD có xu hớng ổn định, Ngân hàng Nhà
nớc đã thành công trong việc giữ cho đồng Việt Nam không lên giá, điều này
giúp cho hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh đợc, kích thích xuất khẩu đợc
giúp Việt Nam có thể hạn chế đợc ảnh hởng của đồng đô la với nền ngoại th-
ơng của mình
Ngày 20/09/1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nớc ban hành quyết định số
203 / QĐ - NH9 về việc thành lập thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân
hàng Nhà nớc thực hiện vai trò là ngời mua bán cuối cùng trong ngày. Tỉ giá
chính thức vẫn đợc Ngân hàng Nhà nớc công bố, chỉ có biên độ dao động là
thay đổi. Trong 3 năm 9396, đồng đô la hầu nh không tăng theo giá trị thực
của nó trên thị trờng, trong khi thị trờng dờng nh đợc thả nổi theo cung cầu.
Nguyên nhân của tình trạng trên là lợng vốn của nớc ngoài đầu t vào Việt
Nam trong thời kỳ này tăng rất nhanh, chính sách thắt chặt tiền tệ của chính
phủ đã kiềm chế đợc lam phát ở mức vừa phải và do chênh lệch lãi xuất giữa
VNĐ và USD quá lớn nên rất nhiều nhà đầu t đã bán đô la để lấy VNĐ gửi tiết
kiệm lấy lãi
16
Tình trạng giá trị đồng nội tệ cao đã làm cho vào năm 1996, mức thâm
hụt cán cân thơng mại nớc ta lên đến 16 %, cao gấp rỡi so với các nớc có mức
độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu về USD lại tăng gây sức ép giảm giá
VND
Nh vậy có thể nói toàn bộ việc điều hành tỉ giá hối đoái của Ngân hàng

Nhà nớc từ 1990 đến trớc tháng 3 / 1997 là áp dụng chính sách tỉ giá cố định
có điều tiết nhẹ của Nhà nớc, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VNĐ theo
USD qua 1 tổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu qua đô la Mỹ, DM, bảng Anh, ) trong đó
đôla Mỹ chiếm tỉ trọng lớn. Thực tiễn đã chứng minh chính sách này chỉ phù
hợp với giai đoạn tiền tệ còn cha ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ
ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia mỏng. Xu hớng của tỉ giá trong thời gian này là
tăng quá chậm so với tốc độ tăng trởng lạm phát (tính theo chỉ số liên hoàn
qua nhiều năm), VND đợc đánh giá quá cao so với giá trị thực của nó. Từ năm
19921996, tỷ giá tăng khoảng 5,2 % trong khi lạm phát tăng 40%). Yêu cầu
chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hớng mạnh vào xuất khẩu
trong điều kiện tiền tệ khá ổn định (lạm phát thấp, lãi suất giảm, cán cân thanh
toán tổng thể có bội chi nhỏ, dự trữ ngoại tệ khá hơn ) buộc chính sách tỉ giá
hối đoái phải điều chỉnh lại, vì thế đến năm 1997, Ngân hàng Nhà nớc có
quyết định để thay đổi biên độ giao dịch: Ngân hàng Nhà nớc nới rộng biên
độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng thơng mại so với tỉ giá chính thức do
Ngân hàng Nhà nớc công bố, lần lợt là 5% vào tháng 3/1997 rồi đến 10% vào
tháng 10/1997, từ mức 0,5 1 % đợc áp dụng trong suốt 2 năm 1995, 1996
Trong thời kỳ 1997 1998, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD xích
lại gần nhau. Thời gian này diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong
khu vực, về cuộc khủng hoảng này, nhiều nhà kinh tế cho rằng một trong
những nguyên nhân gây ra khủng hoảng là ở Thái Lan đã duy trì một cơ chế
gắn đồng Bath vào đồng đô la một cách rất cứng nhắc của Ngân hàng Trung -
ơng Thái Lan trong nhiều năm. Sau cuộc khủng hoảng này, hầu hết các đồng
tiền của các nớc trong khu vc giảm giá (tiền Indonexia mất giá 130 %, đồng
Thái Lan mất giá 100 %, đồng Malaixia mất giá 60 % ) đồng thời lợng vốn
nớc ngoài đầu t vào Việt Nam giảm sút. Xu hớng rút tiền đồng Việt Nam để
chuyển sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996 khối lợng L/c trả chậm
khá lớn và phần lớn đến hạn trả vào năm 1997, do vậy làm tăng nhu cầu mua
ngoại tệ trong nớc để trả nợ đến hạn. Tất cả các điều kiệ trên gây áp lực giảm
17

giá VNĐ. Trớc tình hình đó chính phủ đã thực hiện phá giá từ 11113VND/
USD năm 1996 lên 13980 VND/ USD năm 1998
Việc điều chỉnh tỉ giá lần này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, việc cố định một tỉ giá đợc coi là cao hơn tỉ
giá thực tế là một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, không những nó cản
trở xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế" khả năng đề kháng của
nền kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia tỉ giá cho rằng, mức tỉ giá đó là phù hợp
trong giai đoạn đó. Việc tăng tỉ giá đã góp phần giảm tỉ nhập siêu từ 20,3 % năm
1997 xuông 17,6 % năm 98
Ưu và nh ợc điểm của việc phá giá trong giai đoạn này : Nó làm cho tốc
độ xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, do vậy tỉ lệ nhập siêu giảm xuống
song" độ nhạy giữa việc thay đổi tỉ giá với việc thay đổi xuất nhập khẩu là
thấp. Bởi vì để đẩy mạnh xuất khẩu ngoài việc phụ thuộc vào tỉ giá còn phụ
thuộc vào nhiều nhân tố khác nh chất lợng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thủ tục
về xuất nhập khẩu mà ở Việt Nam vấn đề này còn rất bức xúc và thức tế đã
chứng tỏ điều đó.
Mặt khác việc tăng tỷ giá sẽ làm giá thành sản phẩm của các doanh
nghiệp tăng giảm sức cạnh tranh và đến lợt nó lại là yếu tố cản trở tăng xuất
khẩu và làm cho nợ nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu
t tăng lên. Trong năm 1998,sau khi nới rộng biên độ giao dịch, cầu ngoại tệ
trên thị trờng rất cao nên hầu nh việc mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng th-
ơng mại thờng xuyên bám sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhng giá trên
thị trờng tự do còn cao hơn nhiều, có lúc lên đến 14000 VND/ 1 USD, đây
chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do lo ngại về khả năng khủng
hoảng của VND. Đứng trớc tình hình này, những tháng đầu năm 1998, Ngân
hàng Nhà nớc đã đa ra một loạt các biên pháp nhằm ổn định thị trờng nh :
Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới, quy
định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng, đối với các tổ chức tín dụng
đợc phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là 2 lần chủ động điều chỉnh tỉ giá :
lần thứ nhất vào 16/02/1998, Ngân hàng Nhà nớc(NHNN) quyết định nâng tỷ

giá từ 11175 VND/1 USD lên 11800 VND/ 1 USD làm tỷ giá trao đổi của các
ngân hàng thơng mại(NHTM) xấp xỉ với tỷ giá trên thị trờng tự do. Lần thứ
hai diễn ra vào ngày 07/8/1998, tỷ giá chính thức đợc nâng từ 11888 VND/ 1
USD lên 11.998VND/ 1 USD, tăng 16,3 %, bên cạnh đó, biên độ giao dịch
18
cũng đợc thu hẹp lại còn 7 % chứ không phải là 10 % nh trớc đây nữa. Việc
chủ động điều chỉnh tăng tỉ giá của NHNN đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỉ
giá trên thị trờng tự do và tỷ giá của các NHTM. Vào những tháng cuối năm
1998, tỉ giá của hai thị trờng này thờng xuyên sấp xỉ nhau
Tuy nhiên để xoá bỏ hiện tợng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ và tập trung hơn
nữa ngoại tệ vào sự quản lý của Nhà nớc, ngày 12/09/1998, Chính phủ ban hành
quyết định số 173/ QĐ-TTG về mua và bán ngoại tệ đã mang lại một số kết quả
khả quan. Suốt quý IV năm 1998, doanh số mua bán ngoại tệ tăng liên tục. Quan
hệ cung cầu ngoại tệ đợc cải thiện đáng kể đã góp phần nhằm ổn định tốt hơn tỷ
giá hối đoái. Tỷ giá giao dịch của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng đợc duy trì
trong biên độ quy định, khoảng cách chênh lệch về tỉ giá giữa thị trờng ngoại tệ
liên ngân hàng và thị trờng tự do là khá thấp (< 1 %).
II.Vấn đề tỷ giá hiện nay
Từ ngày 01 /01/1999, sự kiện ra đời chính thức đồng Euro đã đem đến
cho khu vực này một chế độ không có tỷ giá hối đoái hay cũng có thể gọi là"
cơ chế tỷ giá cố định tuyệt đối. ở Việt Nam nhiều quan điểm cho rằng, cần
giảm bớt sự quản lý đối với tỉ giá bằng cách mở rộng biên độ giao dịch để
thực hiện cơ chế tỉ giá linh hoạt, có quan điểm lại cho rằng cần duy trì tỉ giá
hối đoái ổn định hơn nữa. Do cần phải thực hiện điều chỉnh tỉ giá sao cho phù
hợp với điều kiện nền kinh tế thị trờng, NHNN đã đa ra hai quyết định số 64
và 65 ngày 26/02/99 tiếp tục hoàn thiện chính sách tỉ giá trên cơ sở bám sát
các nguyên tắc điều hành tỉ giá đợc nêu trong" điều hành tỉ giá linh hoạt theo
cung cầu phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam trên cơ sở đảm
bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động xử lý có hiệu quả tỉ giá hối đoái
Thực chất hai quyết định đã nêu hoàn toàn không đề cập đến điều chỉnh mức

tỉ giá đã hoàn thành ổn định trong thời gian này. Thế nhng đây là dấu hiệu cho
thấy xu hớng tự do hoá rõ rệt hơn tỉ giá hối đoái có sự điều tiết của Nhà nớc.
Tỉ giá thực tế ở thời điểm có quyết định mới (26/02/1999) có nhiều biểu hiện
phù hợp với sức mua, đối nội và đối ngoại của đồng tiền Việt Nam hoàn toàn
không có lý do phải có sự điều chỉnh. Bằng vào việc công bố hai loại tỉ giá : tỉ
giá chính thức và tỉ giá bình quân mua vào bán ra thực tế trên thị trờng ngoại
tệ liên ngân hàng nh trớc đây để chỉ còn công bố một tỉ giá gọi là tỉ giá giao
dịch bình quân (của đồng Việt Nam so với đôla Mỹ) trên thị trờng này đã đa
19
đến một sự thay đổi khác hẳn theo cách ổn định, công bố và điều hành tỉ giá
hối đoái lâu nay
Theo cách mới, NHNN chỉ công bố tỉ giá giao dịch bình quân trên cơ sở
tỉ giá thực tế bình quân trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao
dịch gần nhất trớc đó. Căn cứ vào đó các NHTM đợc phép kinh doanh ngoại tệ
xác định tỉ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vợt quá 0,1 % so với tỉ giá
này. Qua tỉ giá áp dụng cơ chế này, tỉ giá giao dịch bình quân mà NHNN công
bố xoay quanh mức 13.888 VNĐ / 1 USD còn tỉ giá mua bán thực tế của các
NHTM nằm trong khoảng 13902 VNĐ / 1 USD (nghĩa là chỉ tăng khoảng
0,10,3 % so với trớc đây). Riêng tỉ giá của thị trờng tự do sau khi có đột
biến tăng nhẹ (khoảng 0,3 %) do yếu tố tâm lý vào những ngày đầu, nay đã trở
về mức cũ. Chênh lệch giữa thị trờng tự do và thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng
không đáng kể (khoảng 0,1 %)
Quyết định số 65 còn quy định các NHTM đợc phép tăng tối đa 0,58 %
của tỉ giá giao dịch trần để xác định tỉ giá kỳ hạn 1 tháng, nhng nay theo quy
định số 289 / 2000 / QĐ - NHNN ngày 30/08/200, các ngân hàng chỉ đợc
phép tăng tối đa 0,2 %. Nh vậy các NH không lợi dụng đợc chênh lệch giữa tỉ
giá giao ngay và có kỳ hạn cho cuộc cạnh tranh mua bán ngoại tệ. Nhng muốn
giải pháp này hiệu quả cần phải có những quy định khác đi kèm.
20
Chơng III

Những giải pháp hoàn thiện chính sách
về tỷ giá hối đoái
I. Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh TGHĐ
trong thời gian qua
Mặc dù đã luôn đợc cố gắng hoàn thiện, nhng chính sách TGHĐ ở Việt
Nam cần phải đợc thờng xuyên điều chỉnh, phải luôn sửa đổi, bổ xung các giải
pháp. Nếu không tiếp tục sửa đổi thì có thể có một số khó khăn nh sau:
Thứ nhất là tâm lý chờ đón phá giá VNĐ vẫn luôn thờng trực gắn liền với
cách tính toán và công bố tỉ giá giao dịch bình quân của NHNN khiến tỉ giá
thực tế của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng luông có xu hớng tăng thêm với
mức đợc phép là 0,1 % tạo thành cấp số luỹ thừa liên tục của hệ số 1,001 là
khá lớn
Để tránh xu hớng này, NHNN phải thờng xuyên sử dụng dự trữ ngoại tệ
can thiệp nhằm kiểm soát tỉ giá giao dịch thực tế của thị trờng liên ngân hàng,
NHNN phải trực diện chịu áp lực thị trờng khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng,
mà khả năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng
Do thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng cha phát triển hoàn hảo, cha phản
ánh đợc toàn bộ cung cầu ngoại tệ của đất nớc nên bản thân liều lợng dự trữ
bỏ ra để can thệp hết sức hạn hẹp của NHNN nhằm kiểm soát dao động của tỉ
giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hạn hẹp tơng ứng. Theo đó xét cả về
mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn có độ cứng nhắc
khá cao
Do các khó khăn trên, việc công bố tỉ giá bình quân của NHNN sớm
muộn phải quay trở lai mức ổn định chủ quan theo hớng cố định và giảm dần
(không khác với cách tính toán và công bố tỉ giá danh nghĩa). Về bản thân
việc bỏ neo tỉ giá danh nghĩa vào những lúc thị trờng biến động phức tạp thì
chính NHNN sẽ mất quyền chủ động kiểm soát tỷ giá thực tế.
21
Cầu ngoại tệ theo hình thức giao dịch kì hạn sẽ gia tăng mạnh do tỉ lệ %
cộng thêm vào mức trần tỉ giá giao ngay xét ra là khá cao (nội dung quyết

định 65). Đây cũng là một trong những áp lực đối với tỉ giá
Việc bỏ hẳn ấn định TGHĐ danh nghĩa sẽ đa đến khó khăn nhất định
trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế nh : cán cân vay trả nợ nớc
ngoài, cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tông cầu tiền tệ của nền kinh tế,
thu chi ngân sách Đặc biệt sẽ khó tính toán các mức lãi suất danh nghĩa
trong khi chính sách lãi suất rất cần ổn định lúc này để khuyến khích đầu t.
Hiện nay có nhiều quan điểm trái ngợc nhau trong điều hành TGHĐ và
quản lý ngoại hối
+ Có quan điểm cho rằng, phải bằng mọi biện pháp để ổn định tỉ giá,
thậm chí"đông cứng để tạo động lực cho sự ổn định kinh tế, giảm rủi ro cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu t nớc
ngoài, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị và các công nghệ tiên tiến
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tránh nguy cơ tụt hậu.
Đồng nội tệ mạnh chính là một điều kiện cho một nền kinh tế vững mạnh,
tăng trởng năng động
+ Có quan điểm lại phủ nhận hoàn toàn quan điểm trên, cho rằng trong
điều kiện đồng USD đang lên giá so với các đồng khác, nếu chúng ta giữ cố
định VNĐ thì sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nớc sẽ có giá cao
tơng đối so với các nớc trong khu vực, kéo theo một môi trờng đầu t kém hấp
dẫn. Do vậy, nhất thiết phải phá giá VNĐ ở mức cao hơn các nớc khu vực đã
làm
II. Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái.
Nền kinh tế của nớc ta trong giai đoạn hiện nay vẫn là nền kinh tế trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chính vì vậy chúng ta càng cần phải
phát triển kinh tế ổn định, vững chắc với một cơ chế tỉ giá linh hoạt, không
cứng nhắc để có thể chống đối đợc các tác động tiêu cực từ phía thi trờng do
ảnh hởng cơ chế tỉ giá. Hiện nay nền kinh tế của Việt Nam tơng đối ổn định,
bội chi ngân sách có thể kiểm soát đợc, nhng nợ nớc ngoài cũng khá cao : nợ
các quốc gia khác, nợ các tổ chức quốc tế nh IMF, WB tổng số nợ là khoảng
hơn 20 tỉ đôla. Nếu tỉ giá thay đổi, cụ thể là nếu đồng đôla tăng giá thì gánh

nặng về nợ ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhng xuất khẩu tăng. Ngợc lại
22
nếu đồng nội tệ tăng giá thì có thể sẽ ảnh hởng đến xuất khẩu, làm giảm sức
cạnh tranh trên thi trờng quốc tế, nh vậy phải tìm đợc một cơ chế tỉ giá phù
hợp để có thể dung hoà đợc các mâu thuẫn trên. Để quản lý ngoại hối và tỉ giá
hối đoái chỉnh phủ có thể thi hành, áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, tuy
nhiên trong khuôn khổ đề án này, em có thể đa ra một số đề nghị về việc quản
lý đó nh sau:
Ngân hàng trung ơng phải có một lợng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn : Đây là
giải pháp mà trớc đây chúng ta cũng đã quan tâm nhng do trong thời gian trớc
đây tỉ giá do ngân hàng nhà nớc công bố, còn mang nặng tính chất hành chính
cho nên nó tác động đến cung cầu nhiều hơn tác động của cung cầu đối với
nó. Trong thời kì này cung cầu có thể thay đổi song tỉ giá vẫn có thể giữ
nguyên nh cũ (nếu ngân hàng trung ơng tháy nh vậy là cần thiết). Vì thế có
những lúc lợng dự trữ ngoại tệ của ta rất mỏng nhng tỷ giá danh nghĩa vẫn
không hề thay đổi.
Trong cơ chế tỷ giá mới thì mọi vấn đề lại không phải là nh vậy, khi cung
cầu ngoại tệ thay đổi thì tỷ giá trên thị trờng sẽ thay đổi theo, nếu ngân hàng
trung ơng muốn giữ tỉ giá ổn định thì cần phải cố định tỉ giá, nhng vấn đề cố
định tỉ giá có rất nhiều ảnh hởng đến nền kinh tế và trong hoàn cảnh bây giờ
cũng không thể làm nh vạy, vì thế cần phải có những biện pháp bảo đảm cho
khả năng có thể cứu đợc tỷ giá của ngân hàng trung ơng khi có biến động trên
thị trờng. Để giải quyết vấn đề này NHNN có thể sử dụng các biện pháp hành
chính tác động đến việc mua bán ngoại tệ trên thị trờng, chính phủ nên cấm
việc mua bán ngoại tệ tự do, buộc các nhà xuất khẩu phải bán hết ngoại tệ thu
đợc cho nhà nớc (trừ những khoản dành cho chi tiêu hợp lý) và khi có nhu cầu
nhập khẩu thì có thể mua lại. Những quản lý hành chính này thờng có hiệu lực
tức thời nhng cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng vì sự khó khăn trong
mua bán ngoại tệ có thể dẫn đến sự kém lu động của nền kinh tế và có thể đẩy
nền kinh tế vào tình trạng tồi tệ vì nó làm cho các nhà đầu t nớc ngoài cảm

thấy rủi ro cao trong đồng vốn bỏ ra, môi trờng đầu t trong nớc kém hấp dẫn,
vì thế đây chỉ là biện pháp tức thời. NHNN cũng có thể sử dụng cách thứ hai
là mua bán ngoại tệ trên thị trờng mở một cách liên tục để làm cho cầu không
tăng lên một cách đột ngột ảnh hởng đến tỉ giá.
Cần phải điều chỉnh mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất : Giữa lãi suất và
tỷ giá luôn có mối quan hệ rất mật thiết với nhau và quan trọng hơn là sự
23
chênh lệch về lãi suất giữa việc gửi bằng ngoại tệ và gửi bằng ngoại tệ. Nếu lãi
suất tiền gửi ngoại tệ cao hơn gửi bằng nội tệ thì cầu ngoại tệ sẽ tăng và kéo
theo sự giảm giá của đồng nội tệ và ngợc lại.
Phải có sự quản lý đối với hàng hoá trong nớc : Điều tiết giá cả của hàng
hoá trong nớc, khuyến khích ngời Việt Nam dùng hàng Việt Nam, quản lý
chặt chẽ nguồn hàng sản xuất trong nớc cho phù hợp với yêu cầu của nguời
tiêu dùng, giúp đỡ quảng cáo và khuyến khích các dịch vụ sau bán và sẽ làm
cho đồng Việt Nam tăng giá khi hàng trong nớc vẫn bán đợc. Mặt khác nhà
nớc có thể giúp đỡ bằng cách tích cực tiếp cận và đổi mới công nghệ, kỹ thuật
phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc.
Điều chỉnh chính sách thuế quan và phi thuế quan một cách hợp lý nhằm
bảo hộ sản xuất trong nớc, tiến tới thực hiện cam kết xoá bỏ hàng rào thuế
quan. Chính sách bảo hộ nhập khẩu bằng cách tăng các mức thuế nhập khẩu,
hoặc dùng hạn ngạch, dán tem để có thể quản lý đợc nhập khẩu với các mặt
hàng xa xỉ hoặc các mặt hàng mà chúng ta đã sản xuất đợc, việc này sẽ làm
tăng mức giá cả của hàng nhập khẩu tơng đối so với hàng nội địa.
Khống chế mức lạm phát trong nớc : Lạm phát là nhân tố ảnh hởng cùng
chiều đến tỉ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội tệ. Lạm phát cao làm gia
tăng lãi suất tơng đối của tiền gửi bằng nội tệ so với đồng ngoại tệ kéo theo sự
giảm giá của đồng nội tệ, tức là lạm phát có tác động ngợc chiều với giá trị
của đồng bản tệ. Ngoài những ảnh hởng trực tiếp thì lạm phát còn có ảnh hởng
gián tiếp đến thị trờng ngoại hối. Do vậy muốn quản lý đợc thị trờng ngoại hối
và điều tiết tỉ giá hối đoái theo một mục tiêu nhất định thì Chính phủ cần

khống chế đợc tỉ lệ lạm phát một cách hợp lý. Nếu không khống chế đợc lạm
phát một cách hợp lý thì diễn biến trên thị trờng ngoại hối và tỉ giá hối đoái là
khó có thể kiểm soát đợc dẫn đến những biến động ngoài mong muốn.
Cơ chế quản lý ngoại hối cần đợc hoàn chỉnh hơn : Chính phủ cần phải
tăng cờng vai trò của mình trên thị trờng ngoại hối để có thể có những xử lý
kịp thời khi có những biến động trên thị trờng, bằng việc dự trữ ngoại hối
chính phủ có thể điều tiết tỉ giá trên thị trờng, quan tâm đến quản lý thị trờng,
đến những việc mua bán ngoại tệ bất hợp pháp,tất cả các nhu cầu hợp lý về
ngoại tệ cần phải đợc đáp ứng đầy đủ.
24
Tóm lại, mỗi giai đoạn khác nhau, Chính phủ có thể đa ra những chính
sách hợp lý khác nhau và các quy điịnh khác nhau về quản lý ngoại hối. Tuy
nhiên, trong giai đoạn nào cũng có những yếu tố cơ bản xuyên suốt, cần phải
nắm bắt đợc những yếu tố đó để đa ra đợc những quyết định phù hợp nhất.
Trên cơ sở đó nhà nớc có thể kiểm soát đợc các luồng di chuyển ngoại tệ, thu
hút ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ, ổn định tỷ giá, thực hiên chính sách tiền tệ
quốc gia.
25

×