Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận học phần lịch sử địa phương ĐÌNH TÂN TRẠCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.77 MB, 38 trang )

Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Khoa Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
… …
Huỳnh Tấn Lập
Tiểu luận học phần lịch sử địa phương
ĐÌNH TÂN TRẠCH
Sinh viên thực hiện: Huỳnh Tấn Lập
Nghành: sư phạm lịch sử
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Kim Ánh
Bình dương ngày 5 tháng 11năm 20
1
Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Khoa Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
… …
Huỳnh Tấn Lập
Tiểu luận học phần lịch sử địa phương
ĐÌNH TÂN TRẠCH
Sinh viên thực hiện: Huỳnh Tấn Lập
Nghành: sư phạm lịch sử
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Kim Ánh
Bình dương ngày 5 tháng 11năm 20
2
Nhận xét của giảng viên












3
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo nhà trường cùng quý thầy
cô đã tổ chức cho tôi tiếp cận được học phần lịch sử địa phương để tôi
thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử của
địa phương nơi chính mình được sinh ra để càng ngày càng yêu quê
hương đất nước mình hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô th.s Nguyễn Thị Kim Ánh đã giảng
dạy em học phần này và đã giúp em về phương pháp để em hoàn
thành bài tiểu luận về đình Tân Trạch này.
4
Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đở của cán bộ ủy ban nhân
dân xã Tân Trạch, trưởng làng Tân Trạch bác sáu GIÀU , trưởng ban
Qúy Tế bác sáu Nhánh, bác giữ đình kiêm luôn tổ chức các việc lễ hội ở
đình bác ba THUỂ đã giúp đở con trong quá trình con hoàn thành bài
tiểu luận.
Mở đầu
1 .Lý do chọn đề tài
Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tân Uyên, một huyện lị của
tỉnh Bình Dương có lịch sử hơn 300 năm với vị trí nằm phía đông của
tỉnh Bình Dương. Huyện Tân Uyên có 22 đơn vị hành chính, gồm: 19 xã:
Tân Định, Bình Mỹ, Tân Bình, Tân Lập, Tân Thành, Đất Cuốc, Hiếu
Liêm, Lạc An, Vĩnh Tân, Hội Nghĩa, Tân Mỹ, Tân Hiệp, Khánh Bình, Phú
Chánh, Thường Tân, Bạch Đằng, Tân Vĩnh Hiệp, Thạnh Phước, Thạnh
Hội, 3 thị trấn: Uyên Hưng, Tân Phước Khánh, Thái Hòa. Trong đó có 2
cù lao là lá phổi của Tân uyên là Cù lao rùa và cù lao Bạch Đằng .Tân

5
Uyên đặc biệt là nơi có các di chỉ khảo cổ học như là di chỉ khảo cổ cù
lao Rùa , Vườn Dũ, Gò Đá, Phú Chánh.Bạch Đằng tự hào là nơi có
nhiều đình, miễu nhất Bình Dương như đình Tân Trạch, Điều Hòa, Bình
Hưng…và còn 3 ngôi đình khác cũng ở cù lao Bạch Đằng .Vì thế tôi là
con dân của vùng đất Tân Uyên anh hùng trong 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ với các anh hùng liệt sĩ ở đây.Với chiến khu D
gắn liền với vị thi tướng rừng xanh Huỳnh Văn Nghệ.
Từ các điều lý thú trên tôi muốn tìm hiểu về vùng đất mà tôi đã
sinh ra về văn hóa, con người ở đây nhưng với kiến thức và trình độ của
sinh viên năm 3 đại học chuyên nghành sử tôi xin tìm hiểu và viết một
bài tiểu luận nhỏ về ngôi đình trên cù lao Bạch Đằng quê hương tôi.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa giúp địa phương có những
chính sách phù hợp đề bảo tồn và tu bổ di tích lịch sử của địa phương
chúng ta.
6
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là tìm hiểu lịch sử hình thành , kiến trúc
cách bố trí việc thờ phụng trong đình và tìm hiểu về lễ hội tiêu biểu ở
đình
Phạm vi nghiên cứu là ngôi đình Tân Trạch ở cù lao Bạch Đằng từ
khi hình thành và qua thời gian trùng tu cho đến thời nay.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Các thư tịch cổ viết về đình Tân Trạch
Lịch sử đình Tân Trạch do ban quý tế đình Tân Trạch hoàn thành
8/2003
Bản danh sách câu đối Việt -Nho do các vị khách đến viến thăm và
tham dự lễ xuân kỳ ở đình viết tặng đình .
4. Nguồn tư liệu
Nguồn sử liệu thành văn từ bảo tàng và các thư tịch cổ của đình.

Nguồn sử liệu điền dã từ chuyến đi thực tế ở đình Tân Trạch và
đình ở Tân Trạch.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic để tổng hợp khái quát
nét cơ bản của đình Tân Trạch và quá trình hình thành của đình và kế
thừa những đề tài nghiên cứu lịch sử trước đó.
6 .Đóng góp của đề tài
Khái quát tổng thể quá trình hình thành ,trùng tu và bố trí của ngôi
đình Tân Trạch và lòng biết ơn các vị anh hùng liệt sĩ trong 2 cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ.
7. Bố cục của đề tài
7
Chương 1 Khái quát sơ lược về xã Bạch Đằng
Chương 2 Quá trình hình thành và trùng tu đình Tân Trạch
Chương 3 Kiến trúc và việc thờ phụng trong đình Tân Trạch
Chương 4 Sơ lược về lễ hội của đình
8
Chương 1 khái quát sơ lược về xã Bạch Đằng
1.1 vị trí địa lí
Bạch Đằng là một xã thuộc Tân Uyên được sông Đồng Nai bao
bọc gọi là Cù Lao qua quá trình hình thành và bị chia cắt về vị trí hành
chính nên cù lao Bạch Đằng là xã có nhiều đình nhất trong các xã Tân
Uyên nói riêng và Bình Dương nói chung.
Bạch Đằng có 6 đình như đình Tân Trạch, An Chữ, Điều Hòa, Bình
Hưng,Thạnh Phước và còn một ngôi đình khác.
Bạch Đằng có 2 ngôi nhà cổ là nhà ông Đỗ Cao Thứa( Thạnh
Phước, Bạch Đằng, Tân Uyên ) và nhà ông Nguyễn Văn Đằng(Thạnh
Phước, Bạch Đằng, Tân Uyên). Ngoài ra còn có di tích khảo cổ ở cù lao
này.
1.2 khí hậu

Cù lao Bạch Đằng được bao bọc bởi con sông đồng nai có khí hậu
mát mẻ là lá phổi của huyện Tân Uyên. Cù lao có khí hậu nhiệt đới thích
hợp cho việc trồng lúa nước và các loại cây ăn quả.
1.3 Thổ nhưỡng
Là vùng bình nguyên trẻ bị phong hóa mạnh bởi khí hậu và theo
các quy luật địa lý địa hình trở nên bằng phẳng chịu ảnh hưởng của
dáng đất móng đá vừa được phù sa của sông Đồng Nai bồi đắp.
Vì khí hậu và điều kiện như thế nên ở Bạch Đằng thích hợp cho
việc trồng cây ngắn ngày và cây ăn quả đặc biệt là bưởi Bạch Đằng là
nổi tiếng nhất.
9
Chương 2 Q uá trình hình thành và trùng tu đình Tân
Trạch
2.1 Q uá trình hình thành
Ấp Tân Trạch xưa kia thuộc tỉnh Biên Hòa. Theo địa bạ thời Minh
Mạng ( lập trong những năm 1836-1837) thôn Tân Trạch thuộc Chánh
Mỹ Trung, thuộc Phước Chánh với một số thông tin như sau:
“ Tân Trạch thôn ở xứ Bồ Lao Tân Trạch
Đông giáp địa phận thôn Điều Hòa, có lập cột gỗ làm giới
Tây giáp hai thôn Bình Chữ, Tân Trúc, có rạch nhỏ làm giới, lại
giáp thôn Bình Chữ Trung, có lập cột gỗ làm giới
Nam giáp sông lớn lấy giữa dòng sông làm giới
Bắc giáp địa phận thôn Bình Hưng, có lập cột gỗ làm giới
Thực canh ruộng đất: 91 mẫu 4 sào 12 thước 8 tấc
Điền tô điền: 64 mẫu 4 sào và 3 tấc ( 43 sở và các sư chùa Phước
Điền ở thôn Bình Hưng đồng canh 8 sào 1 thước 6 tấc).
Đất trồng dâu mía là 27 mẫu 12 thước 5 tấc
Dân cư thổ 2 mẫu 5 sào
Mộ địa 1 khoãnh
Rừng chằm 1 khoãnh

Năm 1837 vua Minh Mạng đặt thêm huyện Phước Tuy thuộc tỉnh
Biên Hòa. Năm 1838 đặt thêm huyện Phước Bình. Năm 1840 gộp thêm
81 sách của đồng bào thượng vào tỉnh.
10
Năm 1851 bỏ hai huyện Phước Bình và Long Khánh cho quy về
phủ Phước Long và Phước Tuy kiêm nhiếp .
Huyện Ngãi An nhập về Bình An( THỦ DẦU MỘT) kiêm nhiếp.
Năm 1859 quân Pháp tấn công Gia Định 1862 triều đình ký hòa
ước ký với Pháp cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho giặc, trong đó có tỉnh
Biên Hòa.
Năm 1863 pháp chia lại các đơn vị hành chính của tỉnh Biên Hòa
lúc ấy Biên Hòa được chia làm 5 hạt.
Năm 1874 triều Nguyễn cắt nốt 3 tỉnh miền Tây cho Pháp.
Năm 1876 Pháp chia Biên Hòa thành 3 hạt ; hạt Thủ Dầu Một, hạt
Biên Hòa và Hạt Bà Rịa. Tân Trạch vẫn thuộc tổng Chánh Mỹ Trung
thuộc Biên Hòa.
Sau đó đổi Hạt thành Tỉnh sự phân chia ranh giới này kéo dài tới
năm 1945 khi cách mạng thánh tám thành công và cho đến khi ký kết
hiệp định Gionevo.
Năm 1917 địa bàn tỉnh Biên Hòa chia làm mấy tỉnh nhỏ như tỉnh
Thủ Dầu Một, Biên Hòa ,Bà Rịa nhưng làng Tân Trạch vẫn thuộc tổng
Chánh Mỹ Trung.
Và hiện giờ Tân Trạch thuộc xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương.
Cùng với quá trình khai hoang lập ấp từ cuối thế kỷ XVI làng xã ở
Bình Dương hình thành và dần dần những ngôi đình làng được xây
dựng.
Đình trước hết là nơi thờ cúng Thành Hoàng –vị thần giữ gìn và
cai quản làng xóm đồng thời đình còn là nơi diễn ra các sinh hoạt chung
của cộng đồng làng như hội họp, lễ hội…ở Nam Bộ nói chung và Bình

11
Dương nói riêng vào thời nhà Nguyễn đình còn là trụ sở hành chính của
làng nên đình có thể xem là trung tâm chính trị, văn hóa của làng với
tầm quan trọng đó nên đình được xây dựng ở vị trí trung tâm, cao ráo,
thoáng mát, thuận lợi giao thông thủy bộ.
Đình Tân Trạch được xây dựng năm Giáp Dần có diện tích
414,4m
2

Đây là nơi ghi dấu của một vùng đất có quá trình phát triển lâu
dài một công trình kiến trúc cố bộ gỗ quý và có kích thước lớn cho đến
ngày nay.
Khoảng năm 1853 trước âm mưu xâm lược Đông Dương của thực
dân pháp vua Tự Đức ban hành hàng loạt sắc phong thần cho các đình
làng chủ yếu là ở Nam Bộ nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc.
12
Sắc thần Đình Tân Trạch
Nguồn:công văn trung tâm bảo tồn di tích cố Đô Huế gởi ban hội Qúy tế đình
Tân Trạch
13
14
Vào ngày 30-12-2009 ban Quý tế đình Tân Trạch có nhận được
công văn của trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế như sau:
Nguồn: tài liệu này do trưởng ban Quý tế cung cấp
15
Mẫu sắc ấn thần phục chế:
Nguồn: mẫu sắc ấn thần phục chế của
đình Tân Trạch từ trưởng ban Qúy tế bác Sáu
Nhánh cung cấp.
2.2 Quá trình trùng tu đình Tân Trạch

16
Điều đặc biệt là việc xác định năm xây dựng ngôi đình có rất nhiều
ý kiến không thống nhất với nhau và được các vị bô lão trong đình truy
tập lại năm xây dựng đình cho chính xác
Dựa theo tài liệu lịch sử đình thần Tân Trạch do ban Qúy tế đình
thần Tân Trạch hoàn thành 8/2003 trong quá trình trùng tu đã không
thống nhất năm xây dựng ngôi đình nên đề nghị truy tầm lại năm xây
dựng cho chính xác đại ý việc trùng tu và truy tầm lại diễn ra như sau:
Lúc bấy giờ Ban nghi lễ điều hành sữa đình gồm ông Nguyễn Văn
Báu làm trưởng ban,thư ký là ông Giáo Sanh, thủ quỹ là ông Út Ngà
cùng các vị phó ban và ủy viên trong ban đã nhờ ông giáo Thọ- chùa
Huệ Lâm định nghĩa chứng minh 2 câu:
GIÁP DẦN NIÊN KIẾT NGOẠT LƯƠNG THỜI LẠP TRỤ
(năm tháng ngày tốt dựng cột)
TRONG THU TRUNG HƯỜN KIẾT NHỰT
THƯỢNG LƯƠNG ĐẠI KIẾT LỢI
(tháng năm mùa thu ngày tốt thượng lương đại kiết lợi)
Ông nói: “ đình xây dựng năm Giáp Dần-nay được 52 năm, nhằm
năm 1914 dương lịch.
Lúc bấy giờ ban nghi lễ không quan tâm năm xây dựng nên khi
trùng tu tôn tạo lại ngôi đình hoàn tất, tổ chức lễ khánh thành ông Lê
Văn Sanh viết diễn văn khai mạc cũng căn cứ theo lời ông Giáo Thọ để
năm xây dựng là năm giáp dần nhằm năm 1914 dương lịch đây là lần
trùng tu ngôi đình lần thứ nhất 1966
Nhưng vào tháng 4 năm quý mùi (2003) ban Qúy tế cùng nhân dân
trong ấp Tân Trạch thấy ngôi đình xuống cấp ( hư xếp rong, mè, ngói…
cần tôn tạo lại. Do đó đã làm đơn xin chính quyền xã Bạch Đằng cho
17
phép tổ chức quyên góp nhân dân trong ấp và mạnh thường quân ngoài
ấp cùng nhau đóng góp sữa chữa lại ngôi đình.

Các vị trong ban Quý tế bàn bạc niên đại xây dựng ngôi Đình
không thống nhất năm xây dựng ngôi đình nên đề nghị truy tầm lại.
Sau bao nhiêu ngày truy tầm hỏi thăm các bô lão và Ban Qúy tế
các đình Bình Hưng , Điều Hòa và An Chữ…nên có nhiều tư liệu chứng
minh niên đại ngôi đình :
1. Ông HUỲNH VĂN TỬU 155 tuổi ở xóm Gò Ba Động là ông
ngoại của ông DƯƠNG VĂN THƯƠNG hiện đang ngụ tại Điều Hòa.
Ông thương nói “năm 1938 lệ Kỳ Yên đình thần ông ngoại là Hương Lễ
lo lễ nhạc cho Đình Thần Tân Trạch.
2. Lệ kỳ yên năm 1943 ông nội của Lê Cao Lập là ông Cả Lê
Văn Ngẫu làm chánh bái còn ba của ông Lê Kim Ngà là xã trưởng đứng
chánh tế, bồi tế là hai ông Võ Văn Sớm và ông Nguyễn Văn Giàu . Bốn
ông này là Ban Hội Tề của làng Mỹ Quới được sát nhập bởi ba làng :
Điều Hòa, Tân Trạch, An Chữ vào năm 1928 ( năm Mậu Thìn).
Nếu tính số tuổi của các ông vào thời điểm này (2003) thì:
Ông Lê Văn Ngẫu: 121 tuổi
Ông Lê KimTuấn:113 tuổi
Ông Võ Văn Sớm: 112 tuổi
Ông Nguyễn Văn Giàu 110 tuổi
Như vậy đình phải xây trước tuổi bốn ông.
Để truy tìm niên đại ngôi đình căn cứ nghĩa 2 câu Nho trên 2 cây
xuyên chứng tỏ năm xây dựng là năm giáp dần. Nếu tính đến năm 2003
là 90 năm , Giáp Dần trước là 150 năm.Chứng minh là có những cụ trên
18
100 tuổi nói lại cho con chấu nghe là đình này cất trước lâu rồi. Chúng
tôi nhân dân ấp TânTrạch tự hào và vinh hạnh còn được ngôi Đình cổ
xưa của cù lao Bạch Đằng. Còn 5 ngôi Đình của 5 ấp khác đã bị thiêu
cháy nay đã xây dựng lại không còn nguyên gốc.
Chúng tôi còn truy tìm hỏi lại các ban Qúy Tế các đình trong cù lao
chỉ có đình Bình Hưng có sắc phong của vua Tự Đức vào năm 1867 còn

sắc phong đình thần Tân Trạch cũng còn lưu giữ nhưng chữ đã bị nhòa
không còn đọc được.Căn cứ các sự kiện trên cùng ở Cù Lao nên việc
xây dựng đình thần không cách nhau nhiều các chức sắc trong làng đề
nghị huyện và phủ xin sắc phong cùng một lần cho nhiều đình thần trong
tỉnh.
Như vậy đình thần Tân Trạch xây dựng vào năm giáp Dần 1854
cho đến nay- năm 2003 là 150 năm.
Cấu trúc đình thần xây dựng lúc đầu là 54 cột vì thời gian lâu
không tu bổ phần vì giặc pháp đóng đồn tại Đình 1945 nên giàn cột phía
ngoài đã bị hư 22 cây.
Đến năm 1966 tình hình chiến tranh tạm ổn nhân dân trong ấp Tân
Trạch kẻ ít người nhiều đóng góp tiền của và công sức trùng tu lại ngôi
Đình. 22 cây cột vòng ngoài bị hư được thay thế bằng cột gạch có lan
can. Còn bên trong tiền sảnh chánh điện và hậu sảnh 32 cây cột gõ đen
hoành từ 1.5m-1.6m một người ôm không giáp tay, các dầu xuyên,trính ,
kèo chạm trổ phù điêu rồng phụng còn nguyên gốc đây là lần tu sữa lần
2.
Nay hoàn thành công tu sữa chúng tôi chiêm bái linh thần và bùi
ngùi xúc động tưởng nhớ đến công sức xây dựng của tiền nhân những
dòng họ trong ấp Tân Trạch đã bỏ bao mồ hôi tiền của xây dựng nên
ngôi Đình vĩ đại tồn tại đế ngày hôm nay.
19
Chương 3 kiến trúc và việc thờ phụng trong
đình Tân Trạch
3.1 Kiến trúc của đình
Đình Tân Trạch được xây dựng dưới dạng một quần thể nhiều
ngôi nhà ghép lại gồm Tiền điện làm theo kiểu 3 giang,2 chái nằm phía
ngoài, Chánh tẩm ( chánh điện) là một ngôi nhà vuông phía sau là nhà
hậu.
Ảnh cổng đình Ảnh sân đình và tiền điện

20
Trước đình có tấm bình phong biểu đạt mong ước của làng Tân
Trạch về sự hòa hợp âm dương, mưa thuận gió hòa,an bình, ấm
no,hạnh phúc.

Ảnh bức bình phong đình Tân Trạch
Nguồn: từ đi thực tế đình Tân Trạch
21
Ở bên phải sân đình có miễu thờ Cửu Thiên Huyền Nữ và bàn thờ
sơn thần thổ địa.
Ở bên trái sân đình có miễu thờ ngũ hành nương và bàn thờ thần
Nông
Trong Tiền sảnh là một số lượng cột gỗ gõ quý một người ôm
không giáp tay .Đây là bộ gỗ quý và lớn nhất trong các đình ở Bình
Dương. Ở hai bên Tiền sảnh có hai bàn thờ các anh hùng liệt sĩ bên
phải là anh hùng chống Mỹ và bên trái là bàn thờ anh hùng chống Pháp.
Trong Chánh điện là bàn thờ thành hoàng Bổn Cảnh và các vị thần
khác .

Ảnh chánh điện
22
Nhà hậu ở phía sau có thờ Tiền Bối và Hậu Bối và nhà ăn là nơi
phục vụ, nấu nướng của đình trong các lễ hội.
Ở trong chánh Điện và ngoài tiền Điện trên các tấm liễn và các cây
cột đều có các câu đối hay là các câu giáo lý của nho giáo khuyên răn
con người hay là các câu chữ hán nói về nguồn gốc xây dựng đình.
23
Trong Bản danh sách câu đối Việt -Nho do các vị khách ở Phú
Cường đến viến thăm và tham dự lễ Xuân kỳ ở đình viết tặng đình có
các câu văn chữ nho như sau:

3.2 Thờ phụng của đình Tân Trạch
24
Trong hầu hết các ngôi đình của Bình Dương đều thờ thành Hoàng
là vị thần giữ gìn và cai quản làng xóm .Thành hoàng xuất phát từ chữ
Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi
ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái
thành. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là
thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là
thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm
canh bố trí bao quanh
Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn
ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông
Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy
vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã
qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam
Bộ không có.
Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách "Việt Nam
phong tục" của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam trong sách "Thuần
phong mỹ tục Việt Nam" đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt
để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách
Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong
gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục
hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau.
Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều
đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng
Bổn cảnh (神隍本境). Theo sách "Minh Mạng chính yếu", quyển thứ 12,
năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ
xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức
vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên
chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi

đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên
chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không
25

×