Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 3
1.Một số khái niệm 3
1.1 Nguồn nhân lực 3
1.2 Nguồn lao động 3
1.3 Sức lao động 3
1.4 Việc làm 3
1.5 Thất nghiệp 4
1.6 Thị trường lao động 4
1.7 xuất khẩu lao động 4
2.Sự hình thành và phát triển của thị trường lao động hàng hóa quốc tế 4
3. Các hình thức xuất khẩu lao động 5
3.1 Chia theo hàng hóa sức lao động 5
3.2 Chia theo cách thực hiện 6
3.3 Các hình thức xuất khẩu lao động mà nước ta đã sử dụng 6
4. Những đặc điểm, sự cần thiết và vai trò của việc xuất khẩu lao động 6
4.1 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động 6
4.2 Sự cần thiết của việc xuất khẩu lao động 8
4.3 Vai trò của việc xuất khẩu lao động 9
5. Những bài học kinh nghiệm về xuất khẩu lao động 9
5.1 Vai trò của Nhà nước 9
5.2 Thu nhập và quyền lợi kinh tế, vấn đề không chỉ đối với người lao động 10
5.3 Việc làm khi lao động trở về nước 10
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 11
I - THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM 11
1. Khái quát chung về lực lượng lao động ở Việt Nam 11
II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 21
CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở
VIỆT NAM 25
I. TRIỂN VỌNG VÀ MỤC TIÊU XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 25
1. Triển vọng về xuất khẩu lao động của Việt Nam 25
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 31
1 Các giải pháp với cơ quan quản lý Nhà nước 31
Nhóm 5 Page 1
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
2. Các giải pháp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động 32
3. Các giải pháp đối với công tác đào tạo xuất khẩu lao động 33
4. Các giải pháp hậu xuất khẩu lao động 34
PHẦN KẾT LUẬN 35
Nhóm 5 Page 2
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.Một số khái niệm
1.1 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một lực lượng bao gồm toàn bộ lao động trong xã hội,
không phân biệt về trình độ, tay nghề, nam nữ, tuổi tác.
Hoặc nguồn nhân lực còn được hiểu là một bộ phận của dân số, bao gồm
những người có việc làm và những người thất nghiệp.
1.2 Nguồn lao động
Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động. Nguồn lao động được nghiên cứu ở đây là
nhằm vào khía cạnh khác: Trước hết nó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã
hội, sau nữa xét về khía cạnh kinh tế - xã hội, nó là khả năng lao động của xã
hội.
Ngoài ra, còn có thể hiểu nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những con
người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật con
người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất
và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao gồm
những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là đủ 15 tuổi).
1.3 Sức lao động
Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải
xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần
thiết trong quá trình lao động xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường sức lao động cũng là một loại
hàng hóa và cũng được trao đổi trên thị trường ngoài nước. Sức lao động là một
loại hàng hóa đặc biệt không chỉ vì sự khác biệt với hàng hóa thông thường là
khi sử dụng nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, mà còn được thể
hiện ở chất lượng hàng hóa này phụ thuộc chặt chẽ vào một loạt các nhân tố có
tính đặc thù. Chất lượng của hàng hóa sức lao động ở đây được phản ánh ở khả
năng dẻo dai, bền bỉ trong lao động của người lao động, khả năng thành thạo và
sáng tạo trong công việc và khối lượng công việc hoặc sản phẩm được hoàn
thành bởi người lao động trong một đơn vị thời gian.
1.4 Việc làm
Theo điều 13 – Bộ luật Lao động đã nêu rõ: Mọi hoạt động tạo ra nguồn
thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
Nhóm 5 Page 3
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
1.5 Thất nghiệp
Là tình trạng người có sức lao động, từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm hoạt
động kinh tế tại thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm
việc.
1.6 Thị trường lao động
Là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những
người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị
trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường.
Một thị trường lao động tốt là thị trường mà ở đó lượng cầu về lao động tương
ứng với lượng cung về lao động.
1.6.1 Thị trường lao động trong nước
Là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển
từ nơi này đến nơi khác nhưng trong phạm vi biên giới một quốc gia.
1.6.2 Thị trường lao động quốc tế
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao
động từ nước này có thể di chuyển sang nước khác thông qua Hiệp định, các
thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới.
1.7 xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc
cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp
đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao
động.
2.Sự hình thành và phát triển của thị trường lao động hàng hóa quốc tế
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội,
cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công
nghệ giữa các vùng, khu vực, và giữa các quốc gia, dẫn đến không một quốc gia
nào lại có thể đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển
kinh tế.
Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc
gia phải tìm kiếm và sử dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần
thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước
mình.
Thường thì các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc
đang phát triển, có dân số đông, thiếu việc làm hoặc có thu nhập thấp không đủ
đảm bảo cuộc sống gia đình và chính bản thân người lao động. Nhằm khắc phục
tình trạng khó khăn này, thì các quốc gia này phải tìm kiếm việc làm cho những
Nhóm 5 Page 4
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
người lao động đó từ bên ngoài. Trong khi đó, ở những nước có nền kinh tế phát
triển thường lại có ít dân, thậm chí có nước đông dân nhưng vẫn không đủ nhân
lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất do nhiều nguyên nhân như: Công việc nặng
nhọc, nguy hiểm và độc hại nên không hấp dẫn lao động của chính nước họ
gây ra thiếu hụt lao động. Để duy trì phát triển sản xuất thì các nước này chỉ còn
cách là đi thuê lao động từ nước ngoài về làm việc ở những nước kém phát triển
hơn, có nhiều lao động dư và có khả năng cung ứng lao động làm thuê.
Như vậy đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có
nguồng lao động dôi dư với một bên là các nước có nhiều việc làm, cần thiết
phải có đủ số lượng lao động để sản xuất. Do đó vô hình chung đã làm xuất hiện
(Cung - Cầu): cung là đại diện cho bên có nguồn lao động, còn cầu là đại diện
cho bên các nước có nhiều việc lam, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng
nghĩa với việc đã hình thành lên một loại thị trường, đó là thị trường hành hóa
lao động quốc tế.
Khi lao động được hai bên mang ra thỏa thuận, trao đổi, thuê mướn, lúc
này sức lao động trở thành một loại hàng hóa như những loại hàng hóa hữu hình
bình thường khác. Như vậy, sức lao động cũng là một loại hàng hóa khi nó được
đem ra trao đổi, mua bán thuê mướn và khi đã là một loại hành hóa thì hành hóa
sức lao động cũng phải tuân theo quy luật khách quan của thị trường: Quy luật
cung - cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh như những loại hàng hóa hữu
hình khác.
Qua sự phân tích ở trên cho ta thấy: Để có thể hình thành thị trường lao
động xuất khẩu trước hết phải xuất phát từ những nhu cầu trao đổi hoặc thuê
mướn lao động giữa bên cho thuê lao động và bên đi thuê lao động. Thực chất,
khi xuất hiện nhu cầu trao đổi, thuê mướn lao động giữa các quốc gia này và
quốc gia khác, là đã hình thành lên hai yếu tố cơ bản của thị trường, đó là cung
và cầu về lao động. Như vậy thì thị trường hàng hóa sức lao động quốc tế đã
hình thành từ đây.
Ngày nay trong sự hội nhập và phát triển đời sống kinh tế xã hội thì quan
hệ cung cầu không bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, biên giới của một
nước chỉ còn ý nghĩa hành chính, còn quan hệ này ngày càng diễn ra trên phạm
vi quốc tế, mà trong đó bên cung đóng vai trò là bên xuất khẩu và cầu sẽ đại
diện cho bên nhập khẩu lao động.
3. Các hình thức xuất khẩu lao động
3.1 Chia theo hàng hóa sức lao động
Xuất khẩu lao đông có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm
việc thì đã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này
ra nước ngoại làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra
thời gian và chi phí để đào tạo nữa.
Nhóm 5 Page 5
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Xuất khẩu lao động không có nghề: là loại lao động mà khi ra nước ngoài
làm việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp
với những công việc dơn giản, không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước
ngoài cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích của mình trước khi đưa vào sử
dụng.
3.2 Chia theo cách thực hiện
Xuất khẩu lao động trực tiếp là hình thức các công ty cung ứng lao động
trực tiếp cho các chủ sử dụng ở nước ngoài thông qua hợp đồng cung ứng đi
làm việc ở nước ngoài. Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước
ngoài nhưng khi làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về
xuất khẩu lao động để thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước.
Xuất khẩu lao động tại chỗ là hình thức người lao động làm việc cho các
xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao, các tổ chức cơ quan ngoại giao của nước ngoài đóng tại nước
của người lao động.
3.3 Các hình thức xuất khẩu lao động mà nước ta đã sử dụng
Sau gần 30 năm thực hiện phát triển lĩnh vực xuất khẩu lao động với
những kinh nghiệm bước đầu có được thi nước ta đã áp dụng được một số hình
thức khác nhau trong hoạt động xuất khẩu lao động như:
Đưa lao động đi bồi dưỡng học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có
thời gian ở nước ngoài.
Hợp tác lao động và chuyên gia.
Đưa lao động đi làm việc tại các công trình doanh nghiệp Việt Nam nhận
thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước ngoài.
Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài
thông qua các hợp đồng lao động được ký kết bởi các doanh nghiệp Việt Nam
làm dịch vụ cung ứng lao động.
Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi
làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao
động.
Xuất khẩu lao động tại chỗ.
4. Những đặc điểm, sự cần thiết và vai trò của việc xuất khẩu lao động
4.1 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
4.1.1 Xuất khẩu lao động là một loại hoạt động kinh tế và diễn ra gay gắt
Ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao động là một trong những giải
pháp quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu
ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích
Nhóm 5 Page 6
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
khác. Những lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩu lao động phải chiếm lĩnh
mức cao nhất thị trường lao động ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay
không lại dựa trên quan hệ cung cầu sức lao động. Nó chịu sự điều tiết, sự tác
động của các quy luật của kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt
động của mình đẻ làm sao bù đắp được chi phí và có phần lãi vì vậy cần phải có
cơ chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung lao động. Bên cầu cũng phải
tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của việc nhập khẩu lao động.
Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật luôn luôn luôn
bám sát đặc điểm này. Làm sao để mục tiêu kinh tế phải là mục tiêu số 1 của
mọi chính sách pháp luật về xuất khẩu lao động.
4.1.2 Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội
Thực chất, xuất khẩu lao động không tách rời khỏi người lao động. Do
vậy, mọi chính sách pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp
với chính sách xã hội: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài
được lao động như cam kết ở trong hợp đồng, cũng như đảm bảo các hoạt động
công đoàn hơn nữa, người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn do
vậy cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi họ
hoàn thành hợp đồng và trở về nước.
4.1.3 Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hòa giữa quản lý vĩ mô của Nhà
nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở của hợp đồng cung ứng lao
động. Nếu như trước đây (giai đoạn 1980-1990) Việt Nam tham gia thị trường
lao động quốc tế đã xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định song
phương, trong đó quy định khá chi tiết về điều kiện lương, ăn ở, đi lại, bảo vệ
người lao động ở nước ngoài. Thì ngày nay, trong cơ chế của nền kinh tế thị
trường hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều
do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng
thời, các tổ chức xuất khẩu lao động cũng chịu trách nhiệm tổ chức đưa đi và
quản lý người lao động. Và như vậy thì các Hiệp định, các thỏa thuận song
phương chỉ có tính nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm Nhà nước ở tầm
vĩ mô.
4.1.4 Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động lợi ích kinh tế của Nhà nước chính là
khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về nước và các khoản thuế. Lợi ích của
các tổ chức xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu từ các loại phí
giải quyết việc làm ngoài nước. Còn lợi ích của người lao động chính là các
khoản thu nhập.Chính vì chạy theo lợi ích mà các tổ chức xuất khẩu lao động có
quyền đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài rất dễ vi
phạm quy định của nhà nước, nhất là việc thu các loại phí dịch vụ. Từ chỗ các
Nhóm 5 Page 7
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
quyền lợi của người lao động bị vi phạm sẽ khiến cho việc làm ngoài nước
không thật hấp dẫn người lao động
Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động rất dễ vi
phạm những hợp đồng đã ký kết, bỏ hợp đồng ra làm việc bên ngoài Do vậy,
các chế độ chính sách phải tính toán làm sao cho đảm bảo được sự hài hòa lợi
ích của các bên, trong đó phải thật chú ý đến lợi ích trực tiếp của người lao
động.
4.1.5 Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi
Hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu
nhập khẩu lao động do vậy cần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước
ngoài đang và sẽ được thực hiện để xây dưng chính sách và chương trình đào
tạo giáo dục định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào chuẩn bị
được đội ngũ công nhân với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc chiếm lĩnh thị phần lao động ở ngoài nước. Và cũng chỉ có nước nào
nhìn xa trông rộng, phân tích đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị
động trước sự biến đổi của tình hình từ đó đưa ra được chính sách đón đầu trong
hoạt động xuất khẩu lao động.
4.2 Sự cần thiết của việc xuất khẩu lao động
Qua thực tế đã cho ta thấy được Việt Nam là một quốc gia đông dân với
hơn 85 triệu người.
Theo số liệu điều tra năm 2009 cho thấy dân số trong độ tuổi lao động là
66% so với tổng dân số, hằng năm tăng thêm 1,2 triệu lao động/năm, chiếm 3%
trong tổng số lực lượng lao động. Riêng lao động kỹ thuật cao 3 triệu người tốt
nghiệp trung cấp (chiếm 3,9%), 1,1 triệu tốt nghiệp cao đẳng (chiểm 1,3%), 2,7
triệu tốt nghiệp đại học (chiếm 3,4%), 141 nghìn người có học vị trên đại học
(chiếm 0,2%). Chỉ có 4 triệu người chưa đi học (chiếm 5,1%) so với dân số từ 5
tuổi trở lên
Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa
lao động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt với nền kinh tế. Nếu không giải
quyết một cách hài hòa và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và
xã hội sẽ dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Cùng với hướng giải
quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng chiến
lược tích cực quan trọng, lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới.
Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh
vực cứu cánh cho bài toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà
còn đối với cả hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế
giới.
Nhóm 5 Page 8
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
4.3 Vai trò của việc xuất khẩu lao động
Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, cần phải đươc xem xét,
đánh giá các mặt hiệu quả tích cực mà xuất khẩu lao động đã mang lại. Một khi
nhận thức đúng đắn về hiệu quả của xuất khẩu lao động, cùng với việc vạch ra
các chỉ tiêu, xác định nó là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá hiện trạng và chỉ
ra các phương hướng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu lao động.
4.3.1 Về mục tiêu kinh tế
Trong khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế chưa lâu, kinh tế nước ta còn
gặp vô vàn khó khăn, mọi nguồn lực còn eo hẹp thì việc hàng năm chúng ta đưa
hàng vạn lao động ra nước ngoài làm việc đã mang về cho đất nước hàng tỷ
USD/năm.Đóng góp quan trọng vào việc phát triển đất nước.
4.3.2 Về mục tiêu xã hội
Mặc dù còn những hạn chế nhất định với tiềm năng, song xuất khẩu lao
động Việt Nam trong những năm qua bước đầu đã đạt được những thành công
nhất định về mục tiêu mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp của người lao
động trong nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn, việc làm
trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những
ngành kinh tế quan trọng, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng
vạn lao động mỗi năm, đồng thời làm giảm sức ép về việc làm và tạo sự ổn định
xã hội ở trong nước
5. Những bài học kinh nghiệm về xuất khẩu lao động
5.1 Vai trò của Nhà nước
Để có thể tồn tại và phát triển phù hợp với những xu hướng vận động của
nền kinh tế thế giới và quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra trong khu vực và
trên thế giới, xuất khẩu lao động càng phải nhận được sực quan tâm, hướng dẫn
chỉ đạo đặc biệt từ phía Nhà nước. Cho nên muốn hay không muốn thì vai trò
của Nhà nước trong bối cảnh hiện nay và kể cả trong tương lai vẫn đóng một vai
trò quan trọng và cần thiết trong việc hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu
lao động, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. Thực tế
đã chứng minh, càng ngày xuất khẩu lao động càng được các chuyên gia đưa
vào hoạch định chính sách phát triển kinh tế, coi xuất khẩu lao động là một
trong các ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng của đất nước trong việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội của nước mình. Do đó để thực hiện tốt những mục
tiêu có tính chất chiến lược đã được hoạch định, Nhà nước phải ban hành hệ
thống luật pháp, cơ chế và chính sách nhằm:
+ Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất khẩu lao động phát triển.
Nhóm 5 Page 9
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
+ Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động
phát triển.
+ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
5.2 Thu nhập và quyền lợi kinh tế, vấn đề không chỉ đối với người lao động
Vấn đề nguồn thu ngoại tệ thu được từ lao động xuất khẩu lao động đã có
tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều quốc gia xuất khẩu lao động, trong
đó có Việt Nam chúng ta. Trong điều kiện suy thoái nền kinh tế, chính sách bảo
hộ mậu dịch của các nước phát triển đã tạo nên sức ép lên cán cân thanh toán
của những nước chậm và đang phát triển, thì nguồn kiều hối xuất khẩu lao động
trở thành một nguồn quan trọng trong việc làm cân bằng cán cân thanh toán.
Bên cạnh đó một số quốc gia đã đưa lượng kiều hối từ xuất khẩu lao động vào
tính toán thu nhập quốc dân. Chính những vấn đề này buộc chúng ta phải thừa
nhận vai trò tích cực và những thay đổi do xuất khẩu lao động mang lại cho
tổng nguồn thu của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, không một quốc gia nào khi
làm công tác xuất khẩu lao động lại chỉ chú ý và đảm bảo thu nhập kinh tế,
quyền lợi cá nhân người lao động mà không tính đến những lợi ích quốc gia.
5.3 Việc làm khi lao động trở về nước
Như ta đã biết sau khi kết thúc hợp đồng trở về thì người lao động thường
có tâm lý không trở lại nghề cũ mà tìm một công việc khác nhẹ nhàng hơn và có
thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, một bộ phận những người lao động khác khi trở
về họ thực sự không thể tự tìm kiếm được việc làm mới, kể cả trở lại nghề cũ
hoặc tìm những công việc có thu nhập không đáng kể. Vì thế, phần lớn họ có
nguyện vọng được tiếp tục xuất khẩu lao động. Tuy vậy, do chúng ta chưa thực
sự ý thức được vấn đề hậu xuất khẩu lao động, nên thường thì người lao động
khi trở về lại phải bắt đầu tìm kiếm từ đầu một khi họ muốn tiếp tục ra nước
ngoài làm việc. Chính vì vậy mà không phải ai muốn trở lại hoặc sang một nước
khác có điều kiện làm việc, thu nhập tốt hơn cũng có thể sang được. Do vậy đây
là một thực trạng rất khó khăn. Trong khi đó ở một số nước như Philippine,
Thái Lan một khi người lao động đã hoàn thành trở về, họ thường được chính
doanh nghiệp vận động tái xuất bằng những chính sách ưu tiên đặc biệt, nhằm
khuyến khích người lao động tiếp tục trở lại nước cũ hoặc là sang lao động ở
một nước khác có điều kiện làm việc tốt hơn nên có rất nhiều lao động tham gia
tái xuất, thậm chí có rất nhiều lao động cả đời chỉ đi lao động ở nước ngoài. Đây
là chính sách hậu xuất khẩu lao động rất quan trọng mà các quốc gia đã quan
tâm khai thác triệt để từ lâu, nó cúng có thể coi là biện pháp hạn chế thất nghiệp
hậu xuất khẩu mà Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm và phát triển hơn nữa.
Nhóm 5 Page 10
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
CỦA VIỆT NAM
I - THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1. Khái quát chung về lực lượng lao động ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê năm 2013 dân số Việt Nam là khoảng hơn
90.000.000 người, là một nước đông dân thứ 3 khu vực Đông Nam Á và đứng
thứ 13 trong những nước đông dân nhất thế giới. Theo báo cáo thì dân số của
nước ta đã đạt đến “cơ cấu dân số vàng” với tỉ trọng dân số dưới độ tuổi lao
`động chiếm 25%, tỉ trọng dân số trong độ tuổi lao động là 66% và dân số trên
độ tuổi lao động là 9%. Điều đó cho thấy nước ta đang sở hữu một lực lượng lao
động tương đối dồi dào và đây cũng chính là tiềm năng lớn để phát triển đất
nước. Tuy nhiên vấn đề giải quyết việc làm là một trong những vấn đề nóng
bỏng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trình độ học vấn của lao động của Việt Nam đang được nâng lên từng
ngày. Theo số liệu thống kê ngày 01/4/2009 cho thấy tỉ lệ người từ 5 tuổi trở lên
đã đi học là 94,9%: Trong đó có 16,4 triệu người chưa tốt nghiệp tiểu học
(chiếm 20,8%), 20,2 triệu người tốt nghiệp tiểu học (chiếm 25,7%) 17,2 triệu
người tốt nghiệp trung học cơ sở (chiếm 21,2%), 12,2 triệu người tốt nghiệp
trung học phổ thông (chiếm 15,5%), 1,7 triệu người tốt nghiệp sơ cấp (chiếm
2,1%), 3 triệu người tốt nghiệp trung cấp (chiếm 3,9%), 1,1 triệu tốt nghiệp cao
đẳng (chiểm 1,3%), 2,7 triệu tốt nghiệp đại học (chiếm 3,4%), 141 nghìn người
có học vị trên đại học (chiếm 0,2%). Chỉ có 4 triệu người chưa đi học (chiếm
5,1%) so với dân số từ 5 tuổi trở lên. Tỉ lệ này so với năm 1999 đều tăng lên với
tỉ lệ đáng kể nhất là tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng và
đại học. Đó là một điều khả quan cho lực lượng lao động của Việt Nam trong
giai đoạn hiện tại và tương lai.
Có thể khái quát cơ bản về đặc điểm của lực lượng lao động của nước ta
như sau:
Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, nhanh nhẹn cần cù và
có khả năng nắm bắt công việc nhanh, có thể nói thương hiệu “lao động Việt
Nam” đã và đang được đánh giá cao trên thị trường lao động quốc tế.
Tỉ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên rõ rệt, hiện nay nước ta tỉ
lệ lao động đã qua đào tạo của nước ta chiếm khoảng hơn 25,3% trong đó tỉ lệ
qua đào tạo chuyên môn kĩ thuật chiếm khoảng 16,8% lực lượng lao động. Điều
này chứng tỏ rằng lực lượng lao động Việt Nam ngày càng được củng cố về
chất lượng.
Nhóm 5 Page 11
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Tuy vậy lực lượng lao động nước ta còn gặp một số hạn chế như sau:
Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung cấp và công nhân kĩ thuật
rất bất hợp lý, nó thể hiện ở chỗ tỉ lệ này là 1 – 2,6 – 4,2 trong khi đó ở các nước
khác là 1 – 4 – 10. Điều đó lý giải tại sao mà lao động ở nước ta luôn xảy ra tình
trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Còn theo đánh giá của BERI về sức cạnh tranh của
lao động theo thang điểm 100 thì Việt Nam mới đạt 45 điểm về khung pháp lý,
20 điểm về năng suất lao động, 32 điểm về chất lượng lao động và 16 điểm về
kĩ năng lao động. Điều này phản ánh chất lượng lao động của Việt Nam so với
các nước khác là còn thấp, nếu không được cải thiện thì sẽ không đủ sức cạnh
tranh trong tương lai.
Lực lượng lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp còn thấp, tính
kỉ luật trong quá trình làm việc chưa cao.
Nhìn chung, nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào, tốc độ phát
triển tương đối cao tuy nhiên lao động nước ta còn yếu về kĩ năng và trình độ
lao động, một cơ cấu lao động bất hợp lý nên đã tạo ra một khó khăn lớn trong
quá trình giải quyết việc làm. Trong tương lai nếu không được khắc phục thì
nguồn nhân lực không còn là điểm mạnh của nước ta trong quá trình phát triển
đất nước.
2. Khái quát chung về thị trường xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Chi phí nhân công rẻ và cung lao động dồi dào nên thị trường xuất khẩu
lao động Việt Nam có tính hấp dẫn cao. Và cũng thật dễ hiểu tại sao thị trường
xuất khẩu lao động của Việt Nam ngày càng được mở rộng.
Thị trường lao động của nước ta khá đa dạng và phong phú, đáp ứng
được nhiều yêu cầu lao động của các nước. Chính vì vậy mà lao động Việt Nam
đã có mặt ở hầu hết khắp các châu lục trên thế giới. Nhưng có thể thấy thị
trường xuất khẩu lao động của Việt Nam tập trung chủ yếu ở một số quốc gia ở
châu Á có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán và khí hậu…
cộng thêm vào đó là chi phí đi lại rẻ nên thu hút được nhiều lao động Việt Nam
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia… Và có một đặc điểm chung là
ở những thị trường này không có yêu cầu cao và quá khắt khe về trình độ lành
nghề nên lao động Việt Nam đáp ứng đủ những điều kiện về thể lực và trí lực.
Trong một vài năm tới ở những thị trường này vẫn còn tiếp nhận lao động giản
đơn và bước đầu chuyển dần sang tiếp nhận lao động có tay nghề trong các lĩnh
vực như: Tin học, chế tạo máy…
Bên cạnh những thị trường lao động ở khu vực châu Á đang tiếp nhận lao
động Việt Nam thì còn một số thị trường lao động khác vẫn tiếp nhận một số
lượng lao động của nước ta không nhiều và chủ yếu tập trung ở các ngành nghề
lao động giản đơn.
3. Những thành tựu và hạn chế của xuất khẩu lao động Việt Nam từ năm
2001 đến nay
3.1. Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm qua
Nhóm 5 Page 12
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Trong những năm qua hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những
vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, đó là một trong những hoạt động
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống dân sinh. Có
thể nói đây là một trong những hoạt động thường niên mà Quốc hội đưa vào chỉ
tiêu kế hoạch hằng năm, đây cũng à xu hướng tất yếu trong thời kì hội nhập với
kinh tế quốc tế.
Trong nhiều năm qua hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta đã có
nhiều chuyển biến rõ rệt, số lao động được đi làm việc không chỉ tăng theo cấp
số cộng mà đã tăng theo cấp số nhân trong những năm gần đây. Nhìn lại thành
tựu mà xuất khẩu lao đông nước ta đã mang lại qua các thời kì từ năm 1980 đến
nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Bên cạnh đó số địa phương và các doanh nghiệp đăng kí với bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng
không ngừng tăng lên, tính đến tháng 6/2009 thì đã có 170 địa phương và doanh
nghiệp (xem phụ lục 1). Nó cho thấy thị trường xuất khẩu lao động ở nước ta
đang có hướng đi đúng đắn và phù hợp.
SƠ ĐỒ: THỐNG KÊ SỐ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU QUA CÁC THỜI KÌ
Nhóm 5 Page 13
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
(Nguồn số liệu: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội)
Tổng kết kinh nghiệm của 20 năm xuất khẩu lao động nước ta đã rút ra
nhiều bài học mới về công tác đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động và mở rộng
thị trường xuất khẩu nên ở giai đoạn 2001 -2010 này đã thu được nhiều thành
tựu đáng kể và cao gấp nhiều lần so với các thời kì trước. Số liệu được tổng hợp
dưới đây sẽ cho ta thấy điều đó.
Nhóm 5 Page 14
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
BẢNG 7: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
THỜI KÌ 2001 - 2014
NĂM
SỐ LAO
ĐỘNG
TIỀN GỬI VÊ
(Triệu VND)
2001 36168 689660400
2002 46122 1400000000
2003 75000 1578025000
2004 68600 1485140200
2005 70594 1498000000
2006 85000 1625600000
2007 80000 1687422300
2008 87000 1752891010
2009 75000 1548201000
2010 85546 -
2011 88298 -
2012 >80 000 -
2013 88155 -
2014 87000* -
(Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội)
(- không có số liệu)
(* số liệu dự tính)
Vào thời kì này chính sách xuất khẩu lao động của nước ta đã có phần
thông thoáng và mở rộng được nhiều hơn chính và vậy mà số lượng người lao
động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng lên, nhất là 4 năm trở lại đây, tình
hình xuất khẩu lao động nước ta đã có nhiều khởi sắc. Riêng năm 2009 do ảnh
hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nên tình hình xuất khẩu lao động bị
giảm nhưng không đáng kể. trong năm 2011 sự kiện Libya đsx khiến cho hơn
10.000 lao động Việt nam phải quay trở về nước và không thể đưa thêm lao
động vào thị trường này làm cho các năm sau nước ta bị mất 1 thị trường để
xuất khẩu lao động.
Các lao động xuất khẩu mang về ngoại tệ cho đất nước, có điều kiện để học hỏi
nâng cao tay nghề, kinh nghiệm cho bản thân giúp ích nhiều cho nền kinh tế.
nhưng sau khi về nước nhiều người không được bố trí công việc hợp lí để tận
dụng vốn kỹ năng kinh nghiệm quý báu của họ được tích lũy khi xuất ngoại.
đây là 1 điều đáng tiếc lãng phí khả năng của lao động xuất khẩu.
Trung bình mỗi năm lao động xuất khẩu gửi về từ 1.5 đến 2 tỷ USD. Trong đó
Hàn quốc hơn 700 triệu USD, Nhật bản hơn 300 triệu USD. Năm 2010 Việt
nam đứng thứ 16 trong số 30 quốc gia có lượng kiều hối chuyển về nước nhiều
nhất, là 1 trong 10 quốc gia có thu nhập lớn từ xuất khẩu lao động.
Nhóm 5 Page 15
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Thời kỳ này cũng cho thấy sự biến chuyển rõ rệt về cơ cấu lao động có
nghề xuất khẩu. Cơ cấu lao động có nghề cung đã tăng
BẢNG 8: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ NGHỀ THỜI KÌ 2001 – 2010
NĂM
LAO
ĐỘNG
XUẤT
KHẨU
LAO
ĐỘNG
CÓ
NGHỀ
LAO
ĐÔNG
KHÔNG
NGHỀ
2001 36168 18426 17742
2002 46122 26875 19247
2003 75000 33128 41872
2004 68600 42085 26515
2005 70594 43582 27012
2006 85000 56230 28770
2007 80000 52580 27420
2008 87000 59032 27968
2009 75000 58658 16342
2010 85546 >65000 20000
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội)
Qua bảng số liệu trên cho thấy giai đoạn này nước ta đã chú ý đến xuất
khẩu lao động có nghề ra nước ngoài, tỉ lệ không hoàn toàn là 100% nhưng
đang từng bước được nâng lên, theo Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam thì
đến năm 2010 số lao động xuất khẩu có tay nghề đạt trên 75%. Có thể thấy
được công tác xuất khẩu lao động ở nước ta thời kỳ này chú trọng về chất lượng
nhiều hơn là số lượng, điều đó cũng dễ hiểu muốn khai thác hết tiềm năng của
các thị trường cao cấp và củng cố chất lượng tại các thị trường truyền thống thì
không còn cách nào khác ngoài đào tạo nghề cho người lao động
Do được đào tạo nên cơ cấu lao động cho xuất khẩu của nước ta cũng có
nhiểu thay đổi rõ rệt, nó thể hiện qua bảng số liệu sau:
Nhóm 5 Page 16
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
BẢNG 9: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG
XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 2001 – 2010*
NGÀNH NGHỀ SỐ LAO ĐỘNG
Công nghiệp 512520
công nghiệp nặng 128920
công nghiệp nhẹ 383600
Xây dựng và vật liệu
xây dựng 45896
Dịch vụ 25869
Nông ngiệp 21583
Lâm nghiệp 13589
Các ngành khác 89027
TỔNG 708484
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội)
(* số liệu bao gồm cả số liệu dự kiến cho năm 2010)
Cơ cấu lao động xuất khẩu của nước ta đã có nhiều sự thay đổi. Sự
chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề, lĩnh vực là khá rõ, ở thời kỳ
này lao động nước ta tập trung chủ yếu ở các ngành công nghiệp nhẹ, vật liệu
xây dựng. Đặc biệt các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp đã được các
doanh nghiệp nước ta tập trung khai thác. Sở dĩ các lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp có số lao động nước ta tham gia nhiều là vì những lĩnh vực này không
đòi hỏi phải có chuyên môn kỹ thuật và phù hợp với trình độ lao động của lao
động Việt Nam.
Tóm lại, hơn10 năm đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nước
ta đã giải quyết được rất nhiều việc làm cho người lao động và góp phần cải
thiện đời sống cho rất nhiều người lao động. Có thể nói gần 30 năm qua xuất
khẩu lao động là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt mang lại lợi nhuận kinh tế
tương đối cao cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này và góp phần
vào công cuộc phát triển kinh tế trong 30 năm qua. Tuy nhiên xuất khẩu lao
động ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần được khắc phục kịp thời.
3.2. Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Trải qua gần 30 năm thực hiện việc xuất khẩu lao động đi nước ngoài
nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể như ta đã thấy ở trên nhưng công
tác xuất khẩu lao động vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế đang nổi cộm mà chúng
ta cần phải chấn chỉnh và khắc phục
Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt
Nam, lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”:
Không nghề, không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở
thành một bất lợi lớn cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài.
Nhóm 5 Page 17
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra
nước ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông
chưa qua đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà
thu nhập của người lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của
các nước khác.
Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của
nước ta chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi
biển, xây dựng thì chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho
lao động Việt Nam.
Trình độ ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Những mâu
thuẫn trong lao động đều xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ giữa giới chủ và lao
động Việt Nam. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu
cầu về trình độ ngoại ngữ.
Kỉ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta
khi làm việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều
thiếu kỉ luật và thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động. Bằng
chứng là rất nhiều lao động nước ta làm việc tại Malaysia thường xuyên bị tai
nạn lao động kể từ năm 2004 trở lại đây.
Nguyên nhân chính của những vấn đề nêu ở trên là do: người lao động
được đưa đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao
động này phần lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy về tay nghề. Cuộc
sống làm nghề nông ở một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã hình
thành nên trong họ tác phong chậm chạp, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao
động, thiếu hiểu biết về sản xuất công nghiệp. Nhiều người trong số họ còn
chưa học hết phổ thông. Mặt khác, những lao động này hầu hết đều có cuộc
sống rất khó khăn, khi đi làm việc ở nước ngoài luôn mang trên vai gánh nặng
thu nhập rất lớn nên họ thường bất chấp tất cả miễn là kiếm được tiền cao.
Bên cạnh đó tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta còn tồn tại một số
vấn đề trong công tác quản lý xuất khẩu lao động. Hiện nay có rất nhiều doanh
nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tuy nhiên có rất ít doanh
nghiệp có văn phòng đại diện để giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động
của mình điều đó chứng tỏ phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động theo kiểu
“đem con bỏ chợ”. Đó là chưa kể tại một số thị trường, các doanh nghiệp chỉ
biết tạo nguồn trong nước, thu phí, bàn giao lao động và… hết trách nhiệm.
Chính vì thế mới xảy ra chuyện lao động Việt Nam tại nước ngoài không có
“người quản lý” dẫn tới việc sống và làm việc vô tổ chức, bị trục xuất về nước
cũng chẳng có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Trong thời gian ngắn gần đây, có
hàng trăm lao động Việt Nam đi Trung Đông làm việc bị trục xuất về nước vì vi
phạm pháp luật. Một số khác thì bị bắt, bị phạt tù vì nấu rượu, đánh nhau và ăn
cắp. Nghịch lý là các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang tìm mọi cách mở
rộng thị trường thì người lao động của ta lại vô tư phá. Trước khi lên đường đến
Nhóm 5 Page 18
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
các nước ở khu vực Trung Đông làm việc, phần lớn lao động Việt Nam đều
được học giáo dục định hướng, trang bị kiến thức về luật pháp, lối sống nghiêm
khắc ở xứ sở đạo hồi. Đó là cấm uống rượu, nấu rượu và chọc ghẹo phụ nữ,…
Thế nhưng, vừa chân ướt chân ráo đến đây nhiều lao động của ta đã phá rào –
ngang nhiên nấu rượu và chè chén say sưa. Theo ông Phạm Văn Thắng, trưởng
phòng Trung Đông công ty Sovilaco nói “đúng là lao động của ta coi trời bằng
vung”. Nhiều công trình xây dựng ở Quarta bị lao động Việt Nam ăn cắp vật tư
xây dựng, chủ yếu là dây đồng. Để hợp thức hóa số dây đồng lấy cắp, họ mua
axit về đổ vào cho nó biến thành phế liệu…Vì các nước ở Trung Đông đều cấm
uống rượu, nấu rượu lậu nên lao động của ta “sáng tạo” bằng cách lấy đường và
bột nồi nấu chung rồi ủ thành rượu. Mới đây, cảnh sát Quarta bắt được nhiều vụ
lao động Việt Nam nấu rượu lậu với số lượng lớn để bán, trong đó có vụ ủ rượu
trong thùng chứa 60 lít. Một tật xấu khác khiến cho nhiều chủ sử dụng lao động
ở Trung Đông phải thốt lên rằng không hiểu tại sao lao động Việt Nam dễ nổi
nóng và dễ đánh nhau như thế? Chỉ vì những vụ việc va chạm, xích mích nhỏ là
họ gây gỗ và đánh nhau. Theo số liệu chưa đầy đủ, trong số 7.000 lao động
được tiếp nhận vào Quatar làm việc, đã có khoảng 400 người bị trục xuất về
nước vì vi phạm pháp luật. Ngoài ra, còn có vài trăm lao động bị phạt tù vì nấu
rượu lậu để bán hoặc ăn cắp Điều đáng nói là lao động Việt Nam mới có mặt
ở Quatar, Dubai, Ảrập - Xêút khoảng gần 5 năm nay và số lượng còn khiêm tốn
nhưng tiếng xấu “nổi như cồn”. Cộng đồng lao động nước ngoài đến từ nhiều
nước khác nhau như Ấn Độ, Nêpan, Philippines… lên đến cả triệu người đang
làm việc ở đây nhưng thái độ tuân thủ pháp luật, lối sống của nước sở tại của họ
khá cao. Còn lao động của ta thì ngược lại - nổi đình nổi đám vì các “tật xấu”
như gây sự, đánh nhau, sống bừa bãi, đình công và hay đòi hỏi… Trước thực
trạng chất lượng lao động Việt Nam có “vấn đề” như nêu trên, nhiều doanh
nghiệp mới đưa lao động sang thị trường Trung Đông hoặc chuẩn bị bước chân
vào đều có chung tâm lý rụt rè, ngán ngẩm. Họ có chung trăn trở là “doanh
nghiệp thì cố mở thị trường còn người lao động thì lại phá”. Mới đây, Công ty
Sovilaco và một số công ty khác đã bị đối tác hủy hợp đồng đưa hàng trăm lao
động Việt Nam sang làm việc. Lý do là ở những nhà máy đó vừa xảy ra nhiều
vụ việc lao động đánh nhau và hay ăn cắp. Một nguyên nhân khác khiến cho
chất lượng lao động Việt Nam ở đây đáng báo động là có nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu lao động làm ăn theo kiểu chụp giật. Họ tuyển lao động ồ ạt từ những
vùng sâu, vùng xa nhưng thiếu trang bị kiến thức, giáo dục định hướng cho họ
trước khi đi nước ngoài làm việc.
Một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra
nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Ở một số thị trường truyền
thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động
nước ta vẫn cao ( khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt
Nam. Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính
của người lao động đi xuất khẩu lao động vẫn còn.
Nhóm 5 Page 19
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Đề án đưa người lao động đi làm việc nước ngoài đến năm 2015 của
Chính phủ đang được thực hiện, theo đó cùng với việc nâng tỷ lệ đưa người lao
động Việt Nam ra nước ngoài, mở rộng thị trường lao động, nâng cao chất
lượng, thì siết chặt quản lý, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
cũng được đặt ra cấp thiết.
Ngoài ra vẫn còn một số hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu
lao động của nước ta còn hạn chế. Hiện nay nước ta vẫn đang tập trung chủ yếu
vào việc xuất khẩu lao động ở các thị trường truyền thống và chưa có sự phát
triển những thị trường mới trong bối cảnh mà thị trường truyền thống đang ngày
càng bị thu hẹp.Nhiều thị trường nhiều tiềm năng như Anh, Mỹ, Canada,
Pháp… nhưng chưa được chúng ta quan tâm và khai thác nên có tình trạng lao
động Việt Nam đang dẫm chân lên nhau tại nhiều thị trường truyền thống.
Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn có thái độ trông
chờ, ỷ lại vào đối tác. Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm
về quản lý lao động, chưa chấp hành tốt những quy định về chế độ tuyển chọn,
đào tạo, định hướng nhằm bảo vệ người lao động làm việc tại nước ngoài.
Hoạt động đưa lao động xuất khẩu ở nước ngoài đang là một bức tranh
với hai màu trắng đen đối lập. Một tình trạng khiến cho hình ảnh các công ty
xuất khẩu lao động đang ngày càng xấu đi trong mắt người lao động đó là hiện
tượng ngày càng có nhiều công ty, doanh nghiệp lừa đảo và thủ đoạn môi giới
lừa đảo, tuyển dụng ngày càng tinh vi, phức tạp. Trong thời gian qua đã xuất
hiện một số doanh nghiệp không có chức năng xuất khẩu lao động nhưng cũng
làm công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh
nghĩa đưa đi học và làm việc tại nước ngoài. Một số tổ chức, cá nhân đã nhập
nhằng lập nên những cái gọi là “trung tâm” hoặc “công ty cung ứng lao động”,
mượn danh pháp hoặc mạo danh các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao
động có chức năng xuất khẩu lao động với mục đích lừa đảo người lao động.
Tình trạng lừa đảo xảy ra nhiều ở các thị trường tiềm năng, có thu nhập cao
đang thực hiện thí điểm đặc biệt là ở những thị trường hấp dẫn như Hàn Quốc,
Nhật Bản, Australia, Canada, Mỹ… Đáng chú ý là hơn 80% số vụ lừa đảo đều
nhắm vào lao động có nhu cầu đi làm việc tại Hàn Quốc. Bên cạnh một số tổ
chức, cá nhân hoạt động phi pháp, cò mồi, môi giới lừa đảo, còn có một số đối
tượng người Hàn Quốc thông tin rằng họ có thể tác động tới các cơ quan có
thẩm quyền của nước này để người lao động Việt Nam đã nộp hồ sơ đăng ký dự
tuyển sớm được lựa chọn vào xuất cảnh đi làm việc tại Hàn Quốc. Thêm vào
đó, mặc dù chương trình tu nghiệp sinh sang Hàn Quốc (do các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ) đã hết hạn từ 1/1/2007,
nhưng vẫn có rất nhiều người bị cò mồi lừa đảo thu tiền, hứa hẹn sẽ đưa đi theo
dạng này. Nguyên nhân chủ yếu là do thông tin về xuất khẩu lao động chưa đến
được với mọi người lao động, phần lớn người lao động không biết tiếp cận với
cơ quan đơn vị nào để làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài. Ở một số địa
phương,công tác quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan chức năng
Nhóm 5 Page 20
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
trên địa bàn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vụ việc
lừa đảo người lao động. Bên cạnh đó,việc mở nhiều chi nhánh, trung tâm của
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng khiến tình hình trở nên phức tạp hơn.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà
nước với các cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực này. Chính vì thế, các cơ quan quản lý chưa nắm rõ tình hình hoạt động cụ
thể của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Từ đó, có phương hướng chỉ đạo
hay sự chấn chỉnh kịp thời để công tác xuất khẩu lao động đạt hiệu quả cao hơn.
Các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực này chưa tổ chức việc
cung cấp một cách có hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài làm cơ
sở cho hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp cũng như phổ cập hiểu biết cho
người dân về xuất khẩu lao động.
Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và
thường đi sau thực tế. Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan
thường rườm rà, phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của của người lao
động. Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao
động được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT
NAM
1. Những thành công và khó khăn ở thị trường truyền thống
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì hiện nay có
khoảng 1,5 triệu lao động của nước ta đang làm việc tại các thị trường lao động
ở nước ngoài như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, … Những người
đi xuất khẩu lao động đã phần nào cải thiện được cuộc sống của gia đình họ và
góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo của đất nước. Tuy nhiên trong những
năm gần đây thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam đã có nhiều thay đổi
lớn, nhiều thị trường được xem là “truyền thống” đang rơi vào tình trạng khó
khăn.
Thị trường lao động Đài Loan - một thị trường được xem là hấp dẫn với
lao động Việt Nam, nhưng chủ yếu họ chỉ tiếp nhận những lao động có nghề,
phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và kèm theo đó là những quy định ngặt
nghèo về sức khỏe. Mặc dù vậy ở thị trường này không có sự tác động về mặt
nhà nước như những thị trường khác nên đã thu hút được nhiều lao động quan
tâm. Theo đánh giá của Ủy ban lao động Đài Loan thì hiện nay lao động Việt
Nam đang làm việc chủ yếu ở những ngành nghề như: điện tử, may mặc, dệt,
chế tạo máy, giúp việc gia đình, thuyền viên đánh cá…(thống kê sơ bộ thì có
khoảng 28 ngành nghề khác nhau). Mức lương hiện tại của lao động nước ta
làm việc tại thị trường này khoảng từ 400 USD/người/tháng đến 1300
USD/người/tháng. Lao động Việt Nam được giới chủ tại Đài Loan đánh giá là
cần cù, chăm chỉ và nhanh chóng hòa nhập với công việc
Nhóm 5 Page 21
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
Thị trường lao động Hàn Quốc là một thị trường khá dễ tính với lao động
nước ngoài, nhưng họ chỉ tiếp nhận các tu nghiệp sinh đến Hàn Quốc làm việc,
với tiêu chuẩn khá “thông thoáng” là có đủ sức khỏe, chăm chỉ làm việc, đủ
trình độ tiếng Hàn và không cần phải có nghề vì họ muốn tự mình đào tạo công
nhân theo tiêu chuẩn kĩ thuật của riêng mình. Cho đến nay tại Hàn Quốc có hơn
55000 tu nghiệp sinh và người lao động Việt Nam làm việc tại đây với mức
lương từ khoảng 600 USD/người/tháng đến 1600 USD/người/tháng.
Thị trường Malaysia đã từng được xem là “thị trường vàng” của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam, bởi những điều kiện tiếp nhận lao
động khá dễ dàng, chi phí lao động phải bỏ ra ban đầu thấp. Chính vì vậy mà
lao động Việt Nam đã chọn thị trường này để làm việc. Trong những năm đầu
thì thị trường này là một thị trường tiềm năng cho ngành xuất khẩu lao động của
Việt Nam, tuy nhiên trong những năm gần đây số lao động đăng kí đi làm việc ở
Malaysia đã giảm đi đáng kể. Nguyên nhân chính là do thu nhập của người lao
động quá thấp so với chi phí của họ phải trả. Hiện tại lao động Việt Nam làm
việc tại Malaysia có mức lương bình quân khoảng 500000 RM/người/tháng
tương đương khoảng 2,5 triệu VNĐ. Mức lương tối thiểu này đã phù hợp với
pháp luật của nước sở tại nhưng không phù hợp với cuộc sống thực tế của người
lao động. Theo nhiều chuyên gia cảnh báo thị trường lao động Malaysia có
nguy cơ bị “xóa sổ” trong một tương lai không xa.
Thị trường lao động Nhật Bản từ trước đến nay được xem là một điểm
dừng chân lý tưởng cho lao động Việt Nam. Với mức thu nhập từ 700
USD/người/tháng đến 1500 USD/người/tháng đã thu hút nhiều lao động Việt
Nam tham gia vào thị trường này. Tuy nhiên tại thị trường này có yêu cầu khắt
khe với các lao động nhập cư: Người lao động phải biết tiếng Nhật, có tay nghề
và đảm bảo sức khỏe để làm việc với cường độ cao. Chủ yếu thị trường này tiếp
nhận các tu nghiệp sinh nhập cảnh làm việc để nâng cao tay nghề. Trong những
năm gần đây do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nên chính phủ Nhật
Bản đã giảm chỉ tiêu số lượng tu nghiệp sinh nhập cảnh vào nước này. Với nước
ta thị trường lao động Nhật Bản là một thị trường cao cấp cho việc xuất khẩu
lao động thì ngày càng trở nên eo hẹp và khó khăn hơn.
Macao (Trung Quốc) cũng là thị trường thu hút nhiều lao động VN, nhất
là lao động có nhu cầu đi làm giúp việc gia đình. Hiện, theo ước tính, có khoảng
hơn 10.000 lao động VN đang làm việc hợp pháp tại đây. Lao động VN tại đây
được đánh giá là cần cù chịu khó, song ngôn ngữ cũng như các kỹ năng khác
lại kém lao động đến từ Trung Quốc, Philippines, Indonesia. Lao động đi làm
giúp việc, được chủ sử dụng chu cấp miễn phí nơi ăn, ở và tiết kiệm được
khoảng 7 triệu đồng/tháng.
Thị trường lao động trên biển là một thị trường lao động khá mới mẻ với
lao động Việt Nam. Đặc điểm của thị trường này là đòi hỏi người lao động phải
Nhóm 5 Page 22
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
có trình độ chuyên môn kĩ thuật để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe trong
công việc trên biển. Hiện nay nước ta có khoảng 15000 người lao động làm việc
trên biển với chủ yếu là máy 2, máy 3, phó 2, phó 3 và các chức danh thủy thủ
hoặc thợ máy dưới tàu. Với mức thu nhập khoảng trên 1000 USD/người/tháng
đã thu hút được nhiều lao động tham gia vào thị trường mới mẻ này.
Tuy nhiên tại những thị trường truyền thống này chúng ta gặp không ít
khó khăn do những nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ người lao động như là tay
nghề còn yếu kém, ý thức kỉ luật không cao. Theo thống kê, tỷ lệ bỏ trốn hiện
tại ở Hàn Quốc là khoảng 59,25%, Nhật Bản là 27,09%, Đài Loan 7%. Tại thị
trường Malaysia, nhiều lao động Việt Nam vi phạm kỷ luật như: uống rượu,
đánh nhau ,do đó, để phấn đấu mỗi năm có được số lượng lao động là 9 - 10 vạn
người đang còn là vấn đề khó khăn. Trong khi đó Philippin là nước trong khối
Đông Nam Á, có diện tích và dân số tương tự như Việt Nam, hàng năm họ đưa
gần 1 triệu lao động và chuyên gia đi làm việc ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ
trên khắp thế giới (mỗi ngày có trên 2.500 người xuất cảnh đi làm việc ở nước
ngoài và số ngoại tệ mà người lao động và chuyên gia chuyển về hàng năm từ
12 - 14 tỷ USD). Thách thức lớn nhất của XKLĐ ở Việt Nam hiện nay là chất
lượng đội ngũ lao động.
2. Những khó khăn và bước đầu xâm nhập thị trường lao động mới
Ngoài việc phải duy trì và phát triển thị trường lao động truyền thống
đang ngày càng trở nên eo hẹp thì nước ta phải đẩy mạnh phát triển những thị
trường lao động mới để đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động nước
ta. Có rất nhiều doanh nghiệp đã có kế hoạch mở rộng thêm nhiều thị trường
mới như Libi, Anh, Hy Lạp, Australia… mà từ trước tới nay nước ta chưa tập
trung khai thác.
Hiện nay tại thị trường lao động Libi có khoảng hơn 1000 lao động làm
việc chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng và đánh bắt hải sản với mức thu nhập
bình quân khoảng từ 300 USD/người/tháng đến 400 USD/người/tháng. Theo
chủ tịch hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam Nguyễn Lương Trào cho biết
phía Libi mong muốn được sớm kí kết hiệp định hợp tác lao động song phương
giữa hai nước để tiếp nhận và bảo hộ cho lao động Việt Nam. Tuy vậy tại thị
trường này thì lao động Việt Nam chưa đảm bảo sức khỏe cho công việc thuộc
lĩnh vực này.
Macao là một thị trường mới và khá hấp dẫn và “khá thoáng” cho xuất
khẩu lao động của Việt Nam. Nhiều lao động Việt Nam làm việc chủ yếu trong
các lĩnh vực dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, thợ xây dựng, trang trí nội thất và
giúp việc gia đình với mức lương từ 3 triệu đến 5 triệu VNĐ. Tuy nhiên tại thị
trường này lao động Việt Nam chưa biết được chủ lao động của mình là ai sau
khi đã nhập cảnh vào Macao. Chính vì vậy đã xảy ra tình trạng lao động nước ta
sau khi nhập cảnh vào Macao rồi nhưng vẫn thất nghiệp.
Tại Anh và Hy Lạp bước đầu lao động nước ta đã có việc làm ổn định và
thu nhập khá cao, tuy nhiên số lượng lao động Việt Nam làm việc tại thị trường
Nhóm 5 Page 23
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
này chưa nhiều. Đặc biệt lao động nước ta được làm việc trong các nhà máy sản
xuất công nghiệp, các công trường xây dựng lớn có liên doanh với nước ngoài
và có điều kiện ăn ở sinh hoạt khá tốt.
Australia là một thị trường lao động “mới toanh” cho các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Với mức lương khoảng 1500 – 2000
USD/người/tháng (VN Media ngày 12/4/2005). Thị trường này cũng thu hút
nhiều lao động Việt Nam tham gia, hiện nay có khoảng hơn 2000 lao động Việt
Nam làm việc trong các lĩnh vực như xây dựng, thu hoạch nông sản trong các
trang trại… có điều kiện làm việc và ăn ở khá tốt.
Bên cạnh đó còn nhiều thị trường tiềm năng như: thị trường lao động vận
tải biển, Ixaren, Băng-la-đét…có mức thu nhập cao và điều kiện làm việc tốt
đang được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nước ta khai thác.
Nhóm 5 Page 24
Thực trạng thị trường lao động- xuất khẩu lao động ở VN
CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
TRIỂN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
I. TRIỂN VỌNG VÀ MỤC TIÊU XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1. Triển vọng về xuất khẩu lao động của Việt Nam
1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động
Trong những năm qua xuất khẩu lao động ở nước ta đã đóng góp rất
nhiều vào việc phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Chính vì vậy mà xuất khẩu
lao động đã được quốc hội đánh giá là một hoạt động thường niên của mình
nhằm chấn chỉnh những chính sách đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đang từng bước hoàn thiện
hệ thống phát luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài,
hoạt động này tạo ra một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ để bảo vệ người
lao động. Từ năm 1996 đến nay Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định và đến
ngày 1/7/2007 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã minh
chứng cho điều đó.
Chính phủ trực tiếp đàm phán với các nước tiếp nhận lao động Việt Nam
để kí kết các thỏa thuận, hiệp ước về xuất khẩu lao động nhằm phối hợp quản
lý, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ cho lao động Việt Nam.
Trong thời gian gần đây Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư vừa hoàn tất dự thảo đề án “Dạy nghề xuất khẩu
lao động đến năm 2015” và đang tiến hành lấy ý kiến của các địa phương trước
khi trình Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu của đề án là đến năm 2010 lao động
xuất khẩu được đào tạo nghề chiếm tỉ lệ tối thiểu 75%; đến năm 2015 chủ yếu
xuất khẩu lao động có nghề, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và
chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định
hướng về pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động. Khi dự án
này được đưa vào áp dụng trong thực tế sẽ góp phần nâng cao chất lượng của
lao động nước ta và sẽ củng cố được thương hiệu lao động Việt Nam trên thị
trường lao động thế giới.
Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài. Chính
phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền lợi và
lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các nước có nhiều lao động Việt Nam
làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động trong cơ quan đại diện để thực
hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt Nam cũng quy định các doanh
nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải
có trách nhiệm cử đại diện ở các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi cho
người lao động. Hỗ trợ người lao động có đủ năng lực và kiến thức cần thiết để
có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài. Mọi người đi
Nhóm 5 Page 25