Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 10 năm trở lại đây thế giới đã chứng kiến các cuộc khủng hoảng kinh tế
làm suy giảm đáng kể nền kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998
và mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2009. Trong thời gian gần đây nền kinh
tế của các nước chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có dấu hiệu phục hồi
trở lại, tuy nhiên tình trạng thất nghiệp vẫn còn diễn ra với số lượng lớn. Và cần có một
hướng giải quyết cho những lao động thất nghiệp này.
Một trong những hướng giải quyết đó là: Xuất khẩu lao động. Nắm bắt được thời
cơ thuận lợi đó trong những năm qua Việt Nam đã đề ra những chính sách, mục tiêu
phương hướng cho việc xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm cho người lao động.
Với định hướng xuất khẩu lao động rõ ràng và phù hợp với xu hướng phát triển của nền
kinh tế đã được Đảng và Nhà nước xác định như là một trong những lĩnh vực đối ngoại
đặc biệt, một trong những chiến lược để phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy vậy việc
xuất khẩu lao động của nước ta còn gặp một số hạn chế về trình độ tay nghề, ngoại ngữ,
kỉ luật lao động… Đòi hỏi sự nhập cuộc của các nhà quản lý, doanh nghiệp, người lao
động đi xuất khẩu để cùng “chung tay” giải quyết vấn đề trên. Đó là lý do để chúng tôi
chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của đề tài là làm rõ vấn đề xuất khẩu lao động và công tác mở rộng
thị trường và từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế, nhược điểm của lao
động Việt Nam để lao động xuất khẩu của nước ta ngày càng có vị thế vững chắc trên thị
trường lao động quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên những tài liệu, số liệu của Cục quản lý lao động ngoài
nước –Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, CIEM – Trung tâm thông tin tư liệu – Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và báo cáo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009 về công tác xuất khẩu lao động và số liệu dân số của nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu như:
Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê phân tích
Phương pháp suy luận
Phương pháp tổng hợp
5. Kết quả nghiên cứu
Đề tài phân tích thực trạng về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong gần 30 năm
qua và đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển công tác xuất khẩu lao động
trong giai đoạn 2010 - 2015
6. Kết cấu:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu lao động
Chương 2: Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động của việt nam
Chương 3: Triển vọng, mục tiêu và giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu lao động
ở Việt Nam
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 1
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.Một số khái niệm
1.1 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một lực lượng bao gồm toàn bộ lao động trong xã hội, không
phân biệt về trình độ, tay nghề, nam nữ, tuổi tác.
Hoặc nguồn nhân lực còn được hiểu là một bộ phận của dân số, bao gồm
những người có việc làm và những người thất nghiệp.
1.2 Nguồn lao động
Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao động và
có khả năng lao động. Nguồn lao động được nghiên cứu ở đây là nhằm vào khía cạnh
khác: Trước hết nó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, sau nữa xét về khía cạnh
kinh tế - xã hội, nó là khả năng lao động của xã hội.
Ngoài ra, còn có thể hiểu nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những con người
cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật con người cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được
huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao
động trở lên (ở nước ta là đủ 15 tuổi).
1.3 Sức lao động
Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội,
phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá
trình lao động xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường sức lao động cũng là một loại hàng
hóa và cũng được trao đổi trên thị trường ngoài nước. Sức lao động là một loại hàng
hóa đặc biệt không chỉ vì sự khác biệt với hàng hóa thông thường là khi sử dụng nó sẽ
tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, mà còn được thể hiện ở chất lượng hàng
hóa này phụ thuộc chặt chẽ vào một loạt các nhân tố có tính đặc thù. Chất lượng của
hàng hóa sức lao động ở đây được phản ánh ở khả năng dẻo dai, bền bỉ trong lao động
của người lao động, khả năng thành thạo và sáng tạo trong công việc và khối lượng
công việc hoặc sản phẩm được hoàn thành bởi người lao động trong một đơn vị thời
gian.
1.4 Việc làm
Theo điều 13 – Bộ luật Lao động đã nêu rõ: Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
1.5 Thất nghiệp
Là tình trạng người có sức lao động, từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm hoạt động
kinh tế tại thời điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc.
1.6 Thị trường lao động
Là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những người sở
hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó. Thị trường lao
động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị trường và chịu sự tác động
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 2
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường. Một thị trường lao động tốt là thị
trường mà ở đó lượng cầu về lao động tương ứng với lượng cung về lao động.
1.6.1 Thị trường lao động trong nước
Là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi
này đến nơi khác nhưng trong phạm vi biên giới một quốc gia.
1.6.2 Thị trường lao động quốc tế
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ
nước này có thể di chuyển sang nước khác thông qua Hiệp định, các thỏa thuận giữa hai
hay nhiều quốc gia trên thế giới.
1.7 xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung
ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính
chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động.
2.Sự hình thành và phát triển của thị trường lao động hàng hóa quốc tế
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, cũng như
sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công nghệ giữa các vùng,
khu vực, và giữa các quốc gia, dẫn đến không một quốc gia nào lại có thể đầy đủ, đồng
bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế.
Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc gia
phải tìm kiếm và sử dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần thiếu hụt
các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước mình.
Thường thì các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc đang
phát triển, có dân số đông, thiếu việc làm hoặc có thu nhập thấp không đủ đảm bảo
cuộc sống gia đình và chính bản thân người lao động. Nhằm khắc phục tình trạng khó
khăn này, thì các quốc gia này phải tìm kiếm việc làm cho những người lao động đó từ
bên ngoài. Trong khi đó, ở những nước có nền kinh tế phát triển thường lại có ít dân,
thậm chí có nước đông dân nhưng vẫn không đủ nhân lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất
do nhiều nguyên nhân như: Công việc nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại... nên không
hấp dẫn lao động của chính nước họ gây ra thiếu hụt lao động. Để duy trì phát triển sản
xuất thì các nước này chỉ còn cách là đi thuê lao động từ nước ngoài về làm việc ở
những nước kém phát triển hơn, có nhiều lao động dư và có khả năng cung ứng lao
động làm thuê.
Như vậy đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có
nguồng lao động dôi dư với một bên là các nước có nhiều việc làm, cần thiết phải có đủ
số lượng lao động để sản xuất. Do đó vô hình chung đã làm xuất hiện (Cung - Cầu):
cung là đại diện cho bên có nguồn lao động, còn cầu là đại diện cho bên các nước có
nhiều việc lam, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã hình thành lên
một loại thị trường, đó là thị trường hành hóa lao động quốc tế.
Khi lao động được hai bên mang ra thỏa thuận, trao đổi, thuê mướn, lúc này sức
lao động trở thành một loại hàng hóa như những loại hàng hóa hữu hình bình thường
khác. Như vậy, sức lao động cũng là một loại hàng hóa khi nó được đem ra trao đổi,
mua bán thuê mướn và khi đã là một loại hành hóa thì hành hóa sức lao động cũng phải
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 3
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
tuân theo quy luật khách quan của thị trường: Quy luật cung - cầu, quy luật giá cả, quy
luật cạnh tranh... như những loại hàng hóa hữu hình khác.
Qua sự phân tích ở trên cho ta thấy: Để có thể hình thành thị trường lao động
xuất khẩu trước hết phải xuất phát từ những nhu cầu trao đổi hoặc thuê mướn lao động
giữa bên cho thuê lao động và bên đi thuê lao động. Thực chất, khi xuất hiện nhu cầu
trao đổi, thuê mướn lao động giữa các quốc gia này và quốc gia khác, là đã hình thành
lên hai yếu tố cơ bản của thị trường, đó là cung và cầu về lao động. Như vậy thì thị
trường hàng hóa sức lao động quốc tế đã hình thành từ đây.
Ngày nay trong sự hội nhập và phát triển đời sống kinh tế xã hội thì quan hệ
cung cầu không bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, biên giới của một nước chỉ còn ý
nghĩa hành chính, còn quan hệ này ngày càng diễn ra trên phạm vi quốc tế, mà trong đó
bên cung đóng vai trò là bên xuất khẩu và cầu sẽ đại diện cho bên nhập khẩu lao động.
3. Các hình thức xuất khẩu lao động
3.1 Chia theo hàng hóa sức lao động
Xuất khẩu lao đông có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm việc
thì đã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này ra nước
ngoại làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra thời gian và chi
phí để đào tạo nữa.
Xuất khẩu lao động không có nghề: là loại lao động mà khi ra nước ngoài làm
việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp với những
công việc dơn giản, không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước ngoài cần phải tiến
hành đào tạo cho mục đích của mình trước khi đưa vào sử dụng.
3.2 Chia theo cách thực hiện
Xuất khẩu lao động trực tiếp là hình thức các công ty cung ứng lao động trực
tiếp cho các chủ sử dụng ở nước ngoài thông qua hợp đồng cung ứng đi làm việc ở
nước ngoài. Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi làm
thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao động để thực
hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước.
Xuất khẩu lao động tại chỗ là hình thức người lao động làm việc cho các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ
cao, các tổ chức cơ quan ngoại giao của nước ngoài đóng tại nước của người lao động.
3.3 Các hình thức xuất khẩu lao động mà nước ta đã sử dụng
Sau gần 30 năm thực hiện phát triển lĩnh vực xuất khẩu lao động với những kinh
nghiệm bước đầu có được thi nước ta đã áp dụng được một số hình thức khác nhau
trong hoạt động xuất khẩu lao động như:
Đưa lao động đi bồi dưỡng học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có thời gian
ở nước ngoài.
Hợp tác lao động và chuyên gia.
Đưa lao động đi làm việc tại các công trình doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu
khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước ngoài.
Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài thông qua
các hợp đồng lao động được ký kết bởi các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung
ứng lao động.
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 4
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi làm thủ
tục phải thông qua một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động tại chỗ.
4. Những đặc điểm, sự cần thiết và vai trò của việc xuất khẩu lao động
4.1 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
4.1.1 Xuất khẩu lao động là một loại hoạt động kinh tế và diễn ra gay gắt
Ở nhiều nước trên thế giới, xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp
quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ bằng
hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác. Những lợi ích
này đã buộc các nước xuất khẩu lao động phải chiếm lĩnh mức cao nhất thị trường lao
động ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại dựa trên quan hệ cung cầu
sức lao động. Nó chịu sự điều tiết, sự tác động của các quy luật của kinh tế thị trường.
Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình đẻ làm sao bù đắp được chi phí và có
phần lãi vì vậy cần phải có cơ chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung lao động.
Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của việc nhập khẩu lao động.
Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật luôn luôn luôn bám sát
đặc điểm này. Làm sao để mục tiêu kinh tế phải là mục tiêu số 1 của mọi chính sách
pháp luật về xuất khẩu lao động.
4.1.2 Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội
Thực chất, xuất khẩu lao động không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi
chính sách pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phải kết hợp với chính sách xã
hội: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động như cam kết
ở trong hợp đồng, cũng như đảm bảo các hoạt động công đoàn... hơn nữa, người lao
động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn do vậy cần phải có những chế độ tiếp nhận
và sử dụng người lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng và trở về nước.
4.1.3 Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hòa giữa quản lý vĩ mô của Nhà nước
và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao động đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở của hợp đồng cung ứng lao động. Nếu
như trước đây (giai đoạn 1980-1990) Việt Nam tham gia thị trường lao động quốc tế đã
xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định song phương, trong đó quy định khá chi
tiết về điều kiện lương, ăn ở, đi lại, bảo vệ người lao động ở nước ngoài. Thì ngày nay,
trong cơ chế của nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động
xuất khẩu lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp
đồng đã ký. Đồng thời, các tổ chức xuất khẩu lao động cũng chịu trách nhiệm tổ chức
đưa đi và quản lý người lao động. Và như vậy thì các Hiệp định, các thỏa thuận song
phương chỉ có tính nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm Nhà nước ở tầm vĩ mô.
4.1.4 Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất khẩu lao động
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động lợi ích kinh tế của Nhà nước chính là khoản
ngoại tệ mà người lao động gửi về nước và các khoản thuế. Lợi ích của các tổ chức xuất
khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu từ các loại phí giải quyết việc làm ngoài
nước. Còn lợi ích của người lao động chính là các khoản thu nhập.Chính vì chạy theo
lợi ích mà các tổ chức xuất khẩu lao động có quyền đưa người lao động và chuyên gia
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 5
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài rất dễ vi phạm quy định của nhà nước, nhất là việc thu các
loại phí dịch vụ. Từ chỗ các quyền lợi của người lao động bị vi phạm sẽ khiến cho việc
làm ngoài nước không thật hấp dẫn người lao động
Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động rất dễ vi phạm
những hợp đồng đã ký kết, bỏ hợp đồng ra làm việc bên ngoài... Do vậy, các chế độ
chính sách phải tính toán làm sao cho đảm bảo được sự hài hòa lợi ích của các bên,
trong đó phải thật chú ý đến lợi ích trực tiếp của người lao động.
4.1.5 Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi
Hoạt động xuất khẩu lao động phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu nhập
khẩu lao động do vậy cần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước ngoài đang
và sẽ được thực hiện để xây dưng chính sách và chương trình đào tạo giáo dục định
hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào chuẩn bị được đội ngũ công nhân
với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị phần
lao động ở ngoài nước. Và cũng chỉ có nước nào nhìn xa trông rộng, phân tích đánh giá
và dự đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình từ đó đưa
ra được chính sách đón đầu trong hoạt động xuất khẩu lao động.
4.2 Sự cần thiết của việc xuất khẩu lao động
Qua thực tế đã cho ta thấy được Việt Nam là một quốc gia đông dân với hơn 85
triệu người.
Theo số liệu điều tra năm 2009 cho thấy dân số trong độ tuổi lao động là 66% so
với tổng dân số, hằng năm tăng thêm 1,2 triệu lao động/năm, chiếm 3% trong tổng số
lực lượng lao động. Riêng lao động kỹ thuật cao 3 triệu người tốt nghiệp trung cấp
(chiếm 3,9%), 1,1 triệu tốt nghiệp cao đẳng (chiểm 1,3%), 2,7 triệu tốt nghiệp đại học
(chiếm 3,4%), 141 nghìn người có học vị trên đại học (chiếm 0,2%). Chỉ có 4 triệu
người chưa đi học (chiếm 5,1%) so với dân số từ 5 tuổi trở lên
Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa lao
động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt với nền kinh tế. Nếu không giải quyết một
cách hài hòa và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội sẽ dẫn tới
mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Cùng với hướng giải quyết việc làm trong
nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng chiến lược tích cực quan trọng,
lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới.
Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực
cứu cánh cho bài toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà còn đối với
cả hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế giới.
4.3 Vai trò của việc xuất khẩu lao động
Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, cần phải đươc xem xét, đánh giá
các mặt hiệu quả tích cực mà xuất khẩu lao động đã mang lại. Một khi nhận thức đúng
đắn về hiệu quả của xuất khẩu lao động, cùng với việc vạch ra các chỉ tiêu, xác định nó
là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá hiện trạng và chỉ ra các phương hướng cũng như
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động.
4.3.1 Về mục tiêu kinh tế
Trong khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế chưa lâu, kinh tế nước ta còn gặp vô
vàn khó khăn, mọi nguồn lực còn eo hẹp thì việc hàng năm chúng ta đưa hàng vạn lao
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 6
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
động ra nước ngoài làm việc đã mang về cho đất nước hàng tỷ USD/năm.Đóng góp
quan trọng vào việc phát triển đất nước.
4.3.2 Về mục tiêu xã hội
Mặc dù còn những hạn chế nhất định với tiềm năng, song xuất khẩu lao động
Việt Nam trong những năm qua bước đầu đã đạt được những thành công nhất định về
mục tiêu mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp của người lao động
trong nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn, việc làm trong nước là chủ
yếu thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp
phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng vạn lao động mỗi năm, đồng thời làm
giảm sức ép về việc làm và tạo sự ổn định xã hội ở trong nước...
5. Những bài học kinh nghiệm về xuất khẩu lao động
5.1 Vai trò của Nhà nước
Để có thể tồn tại và phát triển phù hợp với những xu hướng vận động của nền
kinh tế thế giới và quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra trong khu vực và trên thế
giới, xuất khẩu lao động càng phải nhận được sực quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo đặc biệt
từ phía Nhà nước. Cho nên muốn hay không muốn thì vai trò của Nhà nước trong bối
cảnh hiện nay và kể cả trong tương lai vẫn đóng một vai trò quan trọng và cần thiết
trong việc hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu lao động, nhằm đáp ứng những
yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. Thực tế đã chứng minh, càng ngày xuất khẩu lao
động càng được các chuyên gia đưa vào hoạch định chính sách phát triển kinh tế, coi
xuất khẩu lao động là một trong các ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng của đất nước
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nước mình. Do đó để thực hiện tốt
những mục tiêu có tính chất chiến lược đã được hoạch định, Nhà nước phải ban hành hệ
thống luật pháp, cơ chế và chính sách nhằm:
+ Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất khẩu lao động phát triển.
+ Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động phát triển.
+ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
5.2 Thu nhập và quyền lợi kinh tế, vấn đề không chỉ đối với người lao động
Vấn đề nguồn thu ngoại tệ thu được từ lao động xuất khẩu lao động đã có tác
động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều quốc gia xuất khẩu lao động, trong đó có Việt
Nam chúng ta. Trong điều kiện suy thoái nền kinh tế, chính sách bảo hộ mậu dịch của
các nước phát triển đã tạo nên sức ép lên cán cân thanh toán của những nước chậm và
đang phát triển, thì nguồn kiều hối xuất khẩu lao động trở thành một nguồn quan trọng
trong việc làm cân bằng cán cân thanh toán. Bên cạnh đó một số quốc gia đã đưa lượng
kiều hối từ xuất khẩu lao động vào tính toán thu nhập quốc dân. Chính những vấn đề
này buộc chúng ta phải thừa nhận vai trò tích cực và những thay đổi do xuất khẩu lao
động mang lại cho tổng nguồn thu của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, không một quốc
gia nào khi làm công tác xuất khẩu lao động lại chỉ chú ý và đảm bảo thu nhập kinh tế,
quyền lợi cá nhân người lao động mà không tính đến những lợi ích quốc gia.
5.3 Việc làm khi lao động trở về nước
Như ta đã biết sau khi kết thúc hợp đồng trở về thì người lao động thường có
tâm lý không trở lại nghề cũ mà tìm một công việc khác nhẹ nhàng hơn và có thu nhập
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 7
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
cao hơn. Bên cạnh đó, một bộ phận những người lao động khác khi trở về họ thực sự
không thể tự tìm kiếm được việc làm mới, kể cả trở lại nghề cũ hoặc tìm những công
việc có thu nhập không đáng kể. Vì thế, phần lớn họ có nguyện vọng được tiếp tục xuất
khẩu lao động. Tuy vậy, do chúng ta chưa thực sự ý thức được vấn đề hậu xuất khẩu lao
động, nên thường thì người lao động khi trở về lại phải bắt đầu tìm kiếm từ đầu một khi
họ muốn tiếp tục ra nước ngoài làm việc. Chính vì vậy mà không phải ai muốn trở lại
hoặc sang một nước khác có điều kiện làm việc, thu nhập tốt hơn cũng có thể sang
được. Do vậy đây là một thực trạng rất khó khăn. Trong khi đó ở một số nước như
Philippine, Thái Lan ... một khi người lao động đã hoàn thành trở về, họ thường được
chính doanh nghiệp vận động tái xuất bằng những chính sách ưu tiên đặc biệt, nhằm
khuyến khích người lao động tiếp tục trở lại nước cũ hoặc là sang lao động ở một nước
khác có điều kiện làm việc tốt hơn nên có rất nhiều lao động tham gia tái xuất, thậm chí
có rất nhiều lao động cả đời chỉ đi lao động ở nước ngoài. Đây là chính sách hậu xuất
khẩu lao động rất quan trọng mà các quốc gia đã quan tâm khai thác triệt để từ lâu, nó
cúng có thể coi là biện pháp hạn chế thất nghiệp hậu xuất khẩu mà Việt Nam chúng ta
cần phải quan tâm và phát triển hơn nữa.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA
VIỆT NAM
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 8
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
I - THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1. Khái quát chung về lực lượng lao động ở Việt Nam.
Theo số liệu thống kê năm 2009 dân số Việt Nam là 85.789.573 người, là một
nước đông dân thứ 3 khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 13 trong những nước đông dân
nhất thế giới. Theo báo cáo thì dân số của nước ta đã đạt đến “cơ cấu dân số vàng” với
tỉ trọng dân số dưới độ tuổi lao động chiếm 25%, tỉ trọng dân số trong độ tuổi lao động
là 66% và dân số trên độ tuổi lao động là 9%. Điều đó cho thấy nước ta đang sở hữu
một lực lượng lao động tương đối dồi dào và đây cũng chính là tiềm năng lớn để phát
triển đất nước. Tuy nhiên vấn đề giải quyết việc làm là một trong những vấn đề nóng
bỏng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trình độ học vấn của lao động của Việt Nam đang được nâng lên từng ngày.
Theo số liệu thống kê ngày 01/4/2009 cho thấy tỉ lệ người từ 5 tuổi trở lên đã đi học là
94,9%: Trong đó có 16,4 triệu người chưa tốt nghiệp tiểu học (chiếm 20,8%), 20,2 triệu
người tốt nghiệp tiểu học (chiếm 25,7%) 17,2 triệu người tốt nghiệp trung học cơ sở
(chiếm 21,2%), 12,2 triệu người tốt nghiệp trung học phổ thông (chiếm 15,5%), 1,7
triệu người tốt nghiệp sơ cấp (chiếm 2,1%), 3 triệu người tốt nghiệp trung cấp (chiếm
3,9%), 1,1 triệu tốt nghiệp cao đẳng (chiểm 1,3%), 2,7 triệu tốt nghiệp đại học (chiếm
3,4%), 141 nghìn người có học vị trên đại học (chiếm 0,2%). Chỉ có 4 triệu người chưa
đi học (chiếm 5,1%) so với dân số từ 5 tuổi trở lên. Tỉ lệ này so với năm 1999 đều tăng
lên với tỉ lệ đáng kể nhất là tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng và
đại học. Đó là một điều khả quan cho lực lượng lao động của Việt Nam trong giai đoạn
hiện tại và tương lai.
Có thể khái quát cơ bản về đặc điểm của lực lượng lao động của nước ta như
sau:
Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, nhanh nhẹn cần cù và có khả
năng nắm bắt công việc nhanh, có thể nói thương hiệu “lao động Việt Nam” đã và đang
được đánh giá cao trên thị trường lao động quốc tế.
Tỉ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên rõ rệt, hiện nay nước ta tỉ lệ lao
động đã qua đào tạo của nước ta chiếm khoảng hơn 25,3% trong đó tỉ lệ qua đào tạo
chuyên môn kĩ thuật chiếm khoảng 16,8% lực lượng lao động. Điều này chứng tỏ rằng
lực lượng lao động Việt Nam ngày càng được củng cố về chất lượng.
Tuy vậy lực lượng lao động nước ta còn gặp một số hạn chế như sau:
Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung cấp và công nhân kĩ thuật rất bất
hợp lý, nó thể hiện ở chỗ tỉ lệ này là 1 – 2,6 – 4,2 trong khi đó ở các nước khác là 1 – 4
– 10. Điều đó lý giải tại sao mà lao động ở nước ta luôn xảy ra tình trạng “thừa thầy
thiếu thợ”. Còn theo đánh giá của BERI về sức cạnh tranh của lao động theo thang điểm
100 thì Việt Nam mới đạt 45 điểm về khung pháp lý, 20 điểm về năng suất lao động, 32
điểm về chất lượng lao động và 16 điểm về kĩ năng lao động. Điều này phản ánh chất
lượng lao động của Việt Nam so với các nước khác là còn thấp, nếu không được cải
thiện thì sẽ không đủ sức cạnh tranh trong tương lai.
Lực lượng lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp còn thấp, tính kỉ luật
trong quá trình làm việc chưa cao.
Nhìn chung, nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào, tốc độ phát triển
tương đối cao tuy nhiên lao động nước ta còn yếu về kĩ năng và trình độ lao động, một
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 9
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
cơ cấu lao động bất hợp lý nên đã tạo ra một khó khăn lớn trong quá trình giải quyết
việc làm. Trong tương lai nếu không được khắc phục thì nguồn nhân lực không còn là
điểm mạnh của nước ta trong quá trình phát triển đất nước.
2. Khái quát chung về thị trường xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Chi phí nhân công rẻ và cung lao động dồi dào nên thị trường xuất khẩu lao
động Việt Nam có tính hấp dẫn cao. Và cũng thật dễ hiểu tại sao thị trường xuất khẩu
lao động của Việt Nam ngày càng được mở rộng.
Thị trường lao động của nước ta khá đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhiều
yêu cầu lao động của các nước. Chính vì vậy mà lao động Việt Nam đã có mặt ở hầu
hết khắp các châu lục trên thế giới. Nhưng có thể thấy thị trường xuất khẩu lao động
của Việt Nam tập trung chủ yếu ở một số quốc gia ở châu Á có nhiều điểm tương đồng
về văn hóa, phong tục tập quán và khí hậu… cộng thêm vào đó là chi phí đi lại rẻ nên
thu hút được nhiều lao động Việt Nam như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Malaysia… Và có một đặc điểm chung là ở những thị trường này không có yêu cầu cao
và quá khắt khe về trình độ lành nghề nên lao động Việt Nam đáp ứng đủ những điều
kiện về thể lực và trí lực. Trong một vài năm tới ở những thị trường này vẫn còn tiếp
nhận lao động giản đơn và bước đầu chuyển dần sang tiếp nhận lao động có tay nghề
trong các lĩnh vực như: Tin học, chế tạo máy…
Bên cạnh những thị trường lao động ở khu vực châu Á đang tiếp nhận lao động
Việt Nam thì còn một số thị trường lao động khác vẫn tiếp nhận một số lượng lao động
của nước ta không nhiều và chủ yếu tập trung ở các ngành nghề lao động giản đơn.
3. Những thành tựu và hạn chế của xuất khẩu lao động Việt Nam từ năm 1980
đến nay
3.1. Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm qua
Trong những năm qua hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những vấn đề
được Đảng và Nhà nước quan tâm, đó là một trong những hoạt động nhằm giải quyết
việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống dân sinh. Có thể nói đây là một trong
những hoạt động thường niên mà Quốc hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch hằng năm, đây
cũng à xu hướng tất yếu trong thời kì hội nhập với kinh tế quốc tế.
Trong nhiều năm qua hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta đã có nhiều
chuyển biến rõ rệt, số lao động được đi làm việc không chỉ tăng theo cấp số cộng mà đã
tăng theo cấp số nhân trong những năm gần đây. Nhìn lại thành tựu mà xuất khẩu lao
đông nước ta đã mang lại qua các thời kì từ năm 1980 đến nay sẽ cho chúng ta thấy rõ
điều đó.
Bên cạnh đó số địa phương và các doanh nghiệp đăng kí với bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng không
ngừng tăng lên, tính đến tháng 6/2009 thì đã có 170 địa phương và doanh nghiệp (xem
phụ lục 1). Nó cho thấy thị trường xuất khẩu lao động ở nước ta đang có hướng đi đúng
đắn và phù hợp.
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 10
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
SƠ ĐỒ: THỐNG KÊ SỐ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU QUA CÁC THỜI KÌ
(Nguồn số liệu: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
Nhìn vào biểu đồ xuất khẩu lao động của nước ta từ năm 1980 đến nay ta có thể
chia làm 3 thời kì chủ yếu như sau:
Thời kì thứ nhất từ năm 1980 đến 1990
Thời kì thứ hai từ năm 1991 đến năm 2000
Thời kì thứ ba từ năm 2001 đến nay
3.1.1. thời kì từ năm 1980 đến năm 1990
Trong thời kì này nước ta chủ yếu có mối quan hệ hợp tác lao động với các nước
ở khu vực Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như là Liên Xô, Tiệp Khắc,
CHDC Đức, … Và một số quốc gia thuộc khu vực Trung Đông như Irắc, Quatar…Nói
dung hơn là ở thời kì này nước ta chủ yếu là đưa cán bộ, công nhân viên đi bồi dưỡng,
nâng cao trình độ tay nghề về những ngành kĩ thuật then chốt mà nước ta đang cần hoặc
những ngành có độ phức tạp và tinh vi trong quá trình chế tạo sản phẩm và trong cả dây
chuyền công nghệ hoặc học hỏi thêm những kiến thức và rèn luyện tay nghề để có thể
tự chế tạo ra những sản phẩm mới.
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 11
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
BẢNG 1: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
THỜI KÌ 1980 – 1990
NĂM
SỐ LAO
ĐỘNG
Tiền gửi về
(Triệu VND)
1980 1570 0
1981 20230 0.955
1982 25970 8.5
1983 12402 25.1
1984 4489 32.1
1985 5008 76.9
1986 9012 433.5
1987 46098 1426.18
1988 71835 23027.9
1989 40618 1084.32
1990 3069 8512.8
TỔNG 240301 34628.255
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy lao động Việt Nam trong thời kì này đi làm
việc ở nước ngoài chủ yếu là theo chương trình hợp tác và những hiệp định song
phương của các ngành. Thời kì 1980 – 1990 Việt Nam đã đưa được 240301 lao động đi
làm việc ở nước ngoài. Con số này không phải là cố định mà tùy thuộc vào nhu cầu sử
dụng lao động của các nước tiếp nhận lao động nước ta. Ở thời kì này số lượng lao
động được đưa đi nhiều nhất là các năm 1981, 1982, 1987, 1988, 1989.
Mặc dù số lượng lao động được đưa đi trong thời kì này là không tăng lên theo
từng năm nhưng số lượng ngoại tệ gửi về nước tăng lên rõ rệt theo từng năm càng về
cuối thời kì này thì số lượng ngoại tệ đã tăng dần theo cấp số nhân.
Nhưng bên cạnh đó vấn đề đào tạo nghề để xuất khẩu ra các thị trường nước
ngoài trong những năm 1980 đến 1990 cũng rất khả quan.
BẢNG 2: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ NGHỀ THỜI KÌ 1980 – 1990
NĂM
LAO ĐỘNG
XUẤT
KHẨU
LAO
ĐỘNG
CÓ NGHỀ
LAO ĐÔNG
KHÔNG
NGHỀ
1980 1570 1570 0
1981 20230 14882 5348
1982 25970 12116 13784
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 12
Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
1983 12402 4603 7799
1984 4489 3297 1192
1985 5008 3658 1350
1986 9012 1800 7212
1987 46098 21024 25074
1988 71835 25109 46726
1989 40618 12034 28584
1990 3069 921 2148
TỔNG 240301 101014 139217
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội )
Với tổng số 240301 lao động được đưa đi xuất khẩu thì có tới 101014 lao động
có tay nghề chiếm tỉ lệ 42,06% so với 139217 lao động chưa có nghề. Điều này cho
thấy tỉ lệ lao động có tay nghề của nước ta được đưa đi xuất khẩu chiếm một tỉ trong
khá cao. Đặc biệt vào năm 1980 tỉ lệ này là 100% còn từ những năm 1981 trở đi thì số
lượng lao động giản đơn được tăng lên, nguyên nhân chính là do yêu cầu của phía
Chính phủ các nước tiếp nhận lao động Việt Nam không yêu cầu về trình độ tay nghề
của lao động. Phần lớn các nước này phân phối ngay lao động Việt Nam vào các nhà
máy, cơ sở sản xuất. Họ tự kèm cặp đào tạo cho lao động nước ta để trở thành công
nhân thực thụ. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt của lao động Việt Nam khi đi làm việc
ở nước ngoài kể từ trước đến nay. Nó cũng rất khác biệt với hoạt động xuất khẩu lao
động của các nước khác trong khu vực như Philippin, Thái Lan…trong cùng khoảng
thời gian này.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam xuất khẩu được thể hiện ở bảng
số liệu sau:
BẢNG 3: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG
XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 1980 – 1990
NGÀNH NGHỀ
SỐ LAO
ĐỘNG
công nghiệp 178190
Cơ khí 63206
công nghiệp nhẹ 104427
hóa chất 7407
Thực phẩm 3150
Xây dựng và vật liệu
xây dựng 45597
nông ngiệp 1531
Lâm nghiệp 4718
Thực hiện: Nguyễn Đức Hoàng & Đoàn Sơn Đức (CD08NL1) 13