Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147 KB, 16 trang )

“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

A. Phần MỤC LỤC
A. Phần mục lục......................................................................3
B. Phần mở đầu......................................................................4
C. Phần nội dung:
I. Tình trạng lạm phát ở nước ta
1. Lạm phát là gì ?.......................................................................................5
2. Nguyên nhân của lạm phát......................................................................7
3. Tình trạng lạm phát ở nước ta hiện nay..................................................8

II.Các giải pháp kiềm chế lạm phát
1. Chính sách tài chính................................................................................12
2. Chính sách tiền tệ....................................................................................12

D. Phần kết luận.....................................................................14
E. Danh mục các tài liệu tham khảo......................................15

1


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

B. Phần MỞ ĐẦU
Lạm phát đang là một đề tài nóng bỏng trong tồn xã hội hiện nay.
Nó là mối quan tâm khơng chỉ của các cấp,các nghành chính quyền mà
cịn là vấn đề của mỗi một người dân, mỗi một hộ kinh doanh, hay từng
doanh nghiệp…- những người phải chịu trực tiếp tác động của lạm phát.
Giá cả ngày một tăng cao ở hầu như tất cả các lĩnh vực làm cho
người dân e ngại với sự chi tiêu của mình. Các hộ kinh doanh lo canh
cánh về sự tăng lên của giá cả thì liệu họ có đủ khả năng để mua vào


cũng như bán ra hay khơng? Cịn các doanh nghiệp thì quan tâm đến chi
phí sản xuất họ phải đầu tư là cao vậy thì nguy cơ thua lỗ cũng là một vấn
đề cần phải xem xét kĩ lưỡng… và còn nhiều vấn đề khác nữa đang nảy
sinh một khi nạn lạm phát trở nên phổ biến.
Đứng trước những tác động tiêu cực đó của lạm phát, các cấp các
nghành chính quyền phải vào cuộc. Và làm sao để kiềm chế lạm phát
đang là một vấn đề được đưa lên hàng đầu. Một dấu chấm hỏi lớn đối với
toàn xã hội. Đề tài này nghiên cứu về vấn đề “ LẠM PHÁT VÀ CÁC GIẢI
PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY “ mong phần nào
tháo gỡ được những vướng mắc nói trên.

2


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

C. Phần NỘI DUNG
I. Tình trạng lạm phát ở nước ta hiện nay.
1.Lạm phát là gì?
a) Định nghĩa lạm phát
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu lạm phát là gì? Trong kinh tế học,
lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự
phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thơng
thường khi nói tới theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu nó là lạm phát của
đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, cịn khi hiểu
theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu nó như là lạm phát của một loại tiền tệ
trong phạm vi thị trường toàn cầu. Ngược lại với lạm phát là giảm phát.
Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta

gọi là sự ổn định giá cả.
b) Các chỉ số liên quan đến lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá
cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế
(thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước,
mặc dù các liên đồn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc
này). Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau
để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung
bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức
tăng của chỉ số này; để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo
kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.

3


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

Khơng tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá
trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng
hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó
được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
 Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt CLI) là sự tăng trên lý thuyết trong giá
cả sinh hoạt của một cá nhân, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) được giả định một cách xấp xỉ. CLI có thể được điều chỉnh bởi
"sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong các giá
cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao
động một cách rất lớn từ các giá cả thế giới nói chung).
 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả của một sự lựa chọn các hàng
hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường". Trong nhiều
quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm

trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được
nhắc tới. Các phép đo này thông thường được sử dụng trong việc
chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản
chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của
CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động bao gồm cả các điều chỉnh giá
cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên
theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với
lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
 Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận
được. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể
sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh tốn. Ở đây cũng có
một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng

4


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này
cho phép một dự đốn gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát
CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù
thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác
biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.

2. Nguyên nhân của lạm phát.
a) Lạm phát do cầu kéo.
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở
mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích
qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ

nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng. Do đó có lạm phát.
b) Lạm phát do cầu thay đổi.
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc
quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà
khơng thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá.
Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức
giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
c) Lạm phát do chi phí đẩy.
Nếu tiền cơng danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp
tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo tồn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành
sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.

5


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

d) Lạm phát do cơ cấu.
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền cơng danh nghĩa cho người
lao động. Ngành kinh doanh khơng hiệu quả, vì thế, không thể không tăng
tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức
lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm.
Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
e)Lạm phát do xuất khẩu.
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản
phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm
cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu.
Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
f) Lạm phát do nhập khẩu.

Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu.
Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong
trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống
giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành
khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
g) Lạm phát tiền tệ.
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ
vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay
chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà
nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra
lạm phát.

6


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

h) Lạm phát đẻ ra lạm phát.
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng
tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại.
Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.

3. Tình trạng lạm phát ở nước ta hiện nay.
Trong những năm gần đây, lạm phát đang ngày càng tăng cao cùng
với sự phát triển của nền kinh tế. Nó như là một kết quả tất yếu nếu muốn
tăng trưởng kinh tế vậy. Khi chỉ số GDP tăng lên thì chỉ số CPI cũng sẽ
tăng. Giá cả tăng lên theo thời thế. Nói như thế khơng có nghĩa là giá cả
tăng lên như là chạy theo 1 kiểu mode nào đó. Mà nó chính là ảnh hưởng
trực tiếp của cơ chế thị trường. Khác với nền kinh tế trước đây, nền kinh
tế vận hành với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nơi mà quan hệ hàng

hoá - tiền tệ bị coi thường, nhà nước quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá
bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
Chế độ bao cấp được thực hiện. Ví dụ như với chế độ bao cấp qua giá thì
nhà nước định giá tất cả hàng hố…
Thì với cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị
trường do sự tác động của các quy luật giá cả, cung - cầu, cạnh tranh…
trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị
trường. Sự biến động của cung - cầu sản xuất và tiêu dùng sẽ dẫn đến sự
biến động của giá cả và ngược lại. Mà khi giá cả 1 loại hàng hố nào đó
tăng lên thì tuỳ theo sức ảnh hưởng của nó với thị trường mà giá cả của
các hàng hố khác cũng tăng theo. Trước hết ví dụ việc EVN có kế hoạch
tăng giá điện, rõ ràng tất cả chúng ta đều nhận thấy sự tác động mãnh liệt

7


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

của điện đối với nền kinh tế, nó nằm trong yếu tố đầu vào của hầu hết các
ngành sản xuất hàng hố khác. Nếu khơng có điện thì chúng ta có lẽ cũng
sẽ quay về thời tiền sử mất. Với sức ảnh hưởng như vậy thì khi giá điện
tăng, chi phí sản xuất của tất cả các hàng hoá khác tăng lên, tất nhiên giá
hàng hoá sẽ tăng nếu các doanh nghiệp không muốn thua lỗ. Tiếp đó là
ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện
đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong
nước sẽ bám sát tình hình dao động giá thế giới. Giá xăng sẽ nhạy cảm
hơn trong năm nay trong khi nó cũng là một mặt hàng giữ vị trí quyết định
lớn trong nền kinh tế. Cứ như thế sự tác động của các hàng hố lên nhau
như 1 vịng tuần hồn đẩy sự tăng lên chóng mặt của giá cả.
Lạm phát đang trở thành một vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Trong

năm 2005, cụm từ “mặt bằng giá mới” được sử dụng nhiều lần để chỉ sự
tăng giá của một loạt mặt hàng từ năm 2004, nhất là dầu thơ, như để giải
thích một phần tại sao lạm phát của Việt Nam nhảy vọt lên 9,5%. Nay với
giá dầu thô đã tăng vượt 75 USD/thùng, kéo theo nhiều nguyên, nhiên liệu
đầu vào liên quan đến dầu thô tăng giá, các nhà quản lý, chuyên gia kinh
tế chắc sẽ phải cân nhắc đến một “mặt bằng giá mới” mới. Chỉ số giá tiêu
dùng 4 tháng đầu năm 2006 tăng 3% so với tháng 12 năm 2005. Tổ điều
hành thị trường trong nước dự báo chỉ số giá tiêu dùng 5 tháng sẽ tăng ở
quãng 3,3%-3,5%, nhưng khi đưa ra dự báo này, giá xăng dầu bán lẻ
trong nước chưa tăng.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 3 năm 2006, chỉ số CPI đã
tăng 33%, bào mòn mức lương thực tế. Đứng trước sự tăng lên của giá
cả, nhà nước đã có chính sách tăng lương cho cán bộ, công nhân, viên
chức nhà nước vào 1-10-2006. Mức lương hành chính sự nghiệp tăng

8


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

450 (mức lương tối thiểu là 450 000đ). Nhưng dường như sự tăng lương
cùng với sự tăng cao của giá cả là một cuộc chạy đua mà mức lương
chẳng bao giờ đuổi kịp giá cả.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7-2007 đã tăng gần 1% - mức tăng cao
nhất từ đầu năm 2007 đến nay khiến nguy cơ về một năm chỉ số giá tiêu
dùng chạm ngưỡng 2 con số có thể xảy ra nếu như ngay từ bây giờ Chính
phủ khơng có các biện pháp kiềm chế quyết liệt. Đó là câu chuyện ở tầm
Vĩ mơ, cịn đối với từng hộ gia đình, giá lương thực, thực phẩm tăng từng
ngày đang khiến cho việc chi tiêu của các bà nội trợ thêm eo hẹp và họ
cũng rất e ngại về túi tiền của mình mỗi khi quyết định chi tiêu. Chỉ số giá

tiêu dùng đã tác động đến đời sống của từng gia đình và sự phát triển của
cả nền kinh tế.
Từ vài tuần trong tháng 7 này, tình hình dịch cúm gia cầm, dịch tai
xanh ở lợn đã tác động mạnh tới giá cả thực phẩm tại tất cả các chợ.
Thơng thường thì giá thịt lợn khá ổn định, nhưng nhiều ngày nay người
tiêu dùng phải đối mặt với việc giá tăng từng ngày. Giá lương thực thực
phẩm tăng mạnh đột biến do yếu tố thiên tai dịch bệnh. Có thể lấy một ví
dụ như sau: Trước kia thịt lợn tăng giá từ 35 đến 37.000/kg, còn bây giờ
tăng 4 đến 5000/kg. Dịch bệnh nhiều quá, những trang trại chăn nuôi lợn
bị chết, lợn lớn không kịp, bởi vậy nguồn khan hiếm nên giá tăng theo.
Thức ăn chăn nuôi đều tăng nên người ta phải bán tăng. Và một khi người
ta sợ không ăn thịt lợn, thịt hay trứng gia cầm nữa thì tất nhiên những thức
ăn khác thay thế nó sẽ tăng giá mà khơng phải e ngại (rau,cá,tơm,mực…).
Thức ăn thì khan hiếm mà người ta không thể không ăn, ông cha ta vẫn
bảo rằng “có thực mới vực được đạo”. Giá thực phẩm tăng, giá sữa tăng

9


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

cao. Giá các dịch vụ đều tăng. Những thứ tăng ấy tích lũy lại nên chi tiêu
của gia đình lên rất cao.
Giá của các loại lương thực, thực phẩm đã được thể hiện rất ấn
tượng trong biểu đồ CPI của tháng. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng cao nhất 1,59%, trong đó thực phẩm tăng tới 2,29%, vật liệu xây
dựng, hàng dược phẩm và y tế đều tăng cao đã khiến chỉ số giá tiêu dùng
tháng 7 đã tăng tới 0,94% so với tháng 6. Đây là mức độ tăng cao nhất
tính từ đầu năm đến nay.
Giá nguyên liệu đầu vào nhất là xăng, dầu, thép tăng lên.Thứ 3 là

yếu tố cung tiền trong 6 tháng qua rất mạnh, cung tiền để mua ngoại tệ.
Đó là 3 yếu tố chính gây tăng giá". Chỉ số giá tiêu dùng của 7 tháng đầu
năm đã tăng 6,19%, vượt cả mức dự báo cho cả năm là 6%. Từ nay đến
cuối năm còn tới 5 tháng nữa, theo các chuyên gia: ngay trong tháng 8 tới,
thời tiết và dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh ở miền Trung sẽ khiến
chăn nuôi chưa thể hồi phục ngay, nguồn cung thực phẩm thiếu hụt nên
giá một số loại thực phẩm thiết yếu sẽ cịn tăng và vì thế chỉ số giá tiêu
dùng tháng 8 sẽ có thể tiếp tục tăng mạnh.
Những tháng cuối năm 2007, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những
thách thức lớn trong việc kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng. Bởi những tháng
cuối năm bao giờ cũng là lúc chỉ số giá tiêu dùng nóng bỏng nhất trong
năm. Thậm chí đã có chun gia cảnh báo, nếu khơng có các biện pháp
quyết liệt, chỉ số giá tiêu dùng năm nay rất có thể chạm ngưỡng 2 con số.
Giá cả tăng, chi phí sản xuất tăng lên, gây mất cân đối trong sản xuất.
Nhất là những doanh nghiệp bắt đầu đầu tư, khi giá sắt thép xăng dầu
tăng cao như vậy sẽ khó thực hiện được kế hoạch. Cùng với đó là rối loạn

10


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

cung cầu, khó kiểm sốt được nguồn tiền luân chuyển và đặc biệt là ảnh
hưởng đến đời sống người dân.

Câu hỏi lớn đặt ra ở đây là chúng ta phải kiềm chế lạm phát như
thế nào?

II. Các giải pháp kiềm chế lạm phát
Lạm phát chính là mặt tiêu cực của nền kinh tế nhưng để tăng

trưởng kinh tế chúng ta phải chấp nhận lạm phát, vấn đề đặt ra ở đây là
chúng ta phải có biện pháp kiềm chế không cho lạm phát ở mức quá cao.
Nếu chỉ số CPI mà thấp hơn chỉ số GDP là được. Ví dụ GDP > 8% thì phải
làm sao cho CPI < 8%.
Cần có chính sách tín dụng thận trọng hơn song khơng cần thiết
phải có những giải pháp mạnh nhằm thắt lưng buộc bụng để giảm lạm
phát vì có thể tăng giá chỉ có tính tạm thời và chịu ảnh hưởng từ những
nguyên nhân khách quan. Nếu chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nổ lực
để ổn định giá thì chưa chắc đã đạt được mục tiêu vì sự tăng giá trong
trường hợp này được quyết định bởi giá đẩy giá. Cho dù cắt được sự tăng
giá ngay tức thời thì giá phải trả cho mục tiêu này là quá lớn vì việc sử
dụng những liều thuốc mạnh trong trường hợp này sẽ đẩy nền kinh tế đi
vào suy thoái. Mức giá tổng quát biến động như thế nào trong những
tháng tới có thể phụ thuộc vào sự biến động giá của một số hàng hoá
ngoại thương như dầu, sắt thép, xi măng, lương thực mà nó được quyết
định bởi cung, cầu trên thị trường thế giới, tỷ giá và yếu tố tâm lý. Những
yếu tố tự định như sự gia tăng giá hàng hoá trên thị trường thế giới ngồi
tầm kiểm sốt của chính phủ mà sự can thiệp trực tiếp của chính phủ

11


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

dường như không thể kéo dài và có thể gây nên sự biến dạng thị trường
thì một đề nghị chính sách khả dĩ để cắt giảm lạm phát trong thời gian đến
là cải cách các yếu tố mang tính cơ cấu trong nền kinh tế nhằm cải thiện
mơi trường cạnh tranh với một chính sách tín dụng thận trọng, dung hoà
các yếu tố tâm lý kỳ vọng và tạo ra niềm tin trong dân về giá cả. Trong xu
hướng hội nhập tài chính, tỷ giá hối đối cần linh hoạt nhằm để Ngân hàng

Nhà nước chủ động hơn trong chính sách tiền tệ.
Những biện pháp kinh tế điều tiết Vĩ mơ của Nhà nước chủ yếu là
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ.

1. Chính sách tài chính.
Chính sách tài chính đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng
quyết định đến sự phát triển của tồn bộ nền kinh tế xã hội. Thơng qua
việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước, nhà nước điều chỉnh
phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm công
bằng trong phân phối và thực hiện các chức năng của mình. Nội dung của
ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và khoản chi. bộ phận chủ
yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn khơng chỉ tạo
nguồn thu cho ngân sách, mà cịn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu
dùng.
Trong trường hợp Việt Nam, do có nhiều tổ chức, định chế tài chính
(kho bạc nhà nước, tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm) hoạt động như ngân
hàng ngoài hệ thống ngân hàng thương mại, nên vai trò kiểm soát lạm
phát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bị giảm đáng kể. Nhưng đồng
thời, Chính phủ phải đưa ra các biện pháp bù lỗ, giảm thuế nhập khẩu…kể

12


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

cả mệnh lệnh hành chính để chống lại việc tăng giá các nguyên liệu đầu
vào sản xuất. Các giải pháp được chỉ ra là thực hiện đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh, giảm chi phí sản xuất. Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm
tra, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, chống đầu cơ, đẩy giá thị
trường lên cao.

Phải sử dụng công cụ thuế, trước tiên là xăng dầu, nếu giá cao phải
cắt giảm thuế nhập khẩu, thuế đầu vào nhập khẩu. Bằng cách này có thể
giảm bớt chi phí sản xuất giúp phần nào khuyến khích sự sản xuất của
các doanh nghiệp cũng như điều chỉnh giá cả khơng q cao. Để tránh
tình trạng rối loạn cung cầu, cân bằng nó và ổn định giá cả. Để giảm bớt
mối lo ngại cho các bà nội trợ trong việc chi tiêu.

2. Chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trị
của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển
của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính sách tiền tệ phải khống
chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mơ cho tín dụng. Trong chính
sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương diện điều tiết cung cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát
thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến
nền kinh tế.
Thứ 1 là Ngân hàng Trung ương phải dùng công cụ phát hành trái
phiếu để thu bớt lượng tiền về, giảm lượng tiền lưu thông.
Thứ 2 là tăng lãi suất ngân hàng lên để thu hút tiền gửi, giảm đầu tư
đi nhưng chúng ta phải hy sinh để ổn định giá cả. Như thế chúng ta mới

13


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

kiểm soát được nguồn tiền luân chuyển, cân bằng được lượng tiền lưu
thông. Khống chế và giảm lạm phát, củng cố sức mua đồng tiền.

D. Phần KẾT LUẬN.
Đề tài đã chỉ ra tình trạng lạm phát đang diễn ra ở nước ta trong thời

gian gần đây và cũng đã nêu lên cách giải quyết vấn đề nóng bỏng này
như thế nào.
Như đã nói ở trên, những tháng cuối năm 2007, Việt Nam sẽ phải
đối mặt với những thách thức lớn trong việc kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng.
Bởi những tháng cuối năm bao giờ cũng là lúc chỉ số giá tiêu dùng nóng
bỏng nhất trong năm. Và để số giá tiêu dùng năm nay không chạm
ngưỡng 2 con số,chính phủ phải có biện pháp cụ thể và quyết liệt. Chúng
ta sẽ cùng giúp đỡ nhà nước thực hiện mục tiêu đó.
Tóm lại, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế nên để kiềm chế sự tăng lên đó một cách hiệu quả nhất
chúng ta phải thực hiện từng bước chứ không thể một sớm một chiều.
Chúng ta phải cùng nhau thực hiện nó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các cấp các nghành và cả với người dân nữa. Có như thế chúng ta mới
phần nào nhanh chóng tháo gỡ được vấn đề khó khăn này.

Chúng ta hi vọng về sự lãnh đạo sáng suốt của bộ máy
nhà nước, hi vọng về sự tăng trướng kinh tế của đất nước cùng
với lạm phát được kiềm chế tối đa. Hãy cùng phấn đấu vì một
quốc gia mà ở đó “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh”.

14


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

E. Danh mục các tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin. Nhà xuất bản chính trị
Quốc Gia – 2006.
2. Giáo trình Kinh tế Vĩ mô. Trường Kinh tế Quốc dân.

3. Trang web tin nhanh vnExpress.com.
4. Nguồn tin từ chương trình thời sự của VTV3, bản tin tài chính của
VTV1.

_Kết thúc_
Bài viết được thực hiện bởi sinh viên
Lê Thị Lệ Thuỷ
Lớp: NHK_K9
Học Viện Ngân hàng

15


“Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay”

…Hà Nội, tháng 7 – 2007…

16



×