Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NGHIÊNGHIÊN cứu các GIẢI PHÁP kỹ THUẬT ƯƠNG NUÔI cá MĂNG GIỐNG chanos fotskal, 1775 TRONG bể XI MĂNG từ NGUỒN cá bột vớt tự NHIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.21 KB, 6 trang )


1
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ MĂNG GIỐNG
(Chanos Fotskal, 1775) TRONG BỂ XI MĂNG TỪ NGUỒN CÁ BỘT
VỚT TỰ NHIÊN

CNĐT : KS. Lê Văn Sinh.
CQCT:Trung tâm Khuyến ngư và NCƯD
kỹ thuật thuỷ sản Bình Định.
CBPH: KS. Phan Thanh Việt; KS. Trần Văn
Phúc; KS. Nguyễn Khắc Tùng Tiến;
KS. Phạm Thanh Nhân.
TGTH : 01/2005 - 12/2005

MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay, nghề nuôi thủy sản nước lợ - mặn tại tỉnh Bình Định đã mang lại
hiệu quả kinh tế cao, là mối quan tâm của cư dân sống trong vùng sinh thái ngập mặn và
vùng biển ven bờ, nhất là các hộ ngư dân có ao đìa nuôi tôm sú. Nhưng trong thời gian
gần đây, các loại dịch bệnh thường xuyên xuất hiện trong nghề nuôi tôm sú gây thiệt hại
kinh tế nghiêm trọng đối v
ới nghề nuôi thủy sản. Do vậy, vấn đề đa dạng hóa hình thức
và đối tượng nuôi là một trong những biện pháp đem lại tính ổn định và góp phần tạo cân
bằng sinh thái trong các vùng nuôi.
Cá măng (Chanos chanos, Forskal 1775) là một trong những loài cá có giá trị kinh
tế được nuôi phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong tự nhiên, chúng phân bố chủ
yếu ở vùng biển nhiệt đới Ấn Độ Dươ
ng - Thái Bình Dương, nhiều nhất là ở khu vực
Đông Nam Á.
Tại tỉnh Bình Định, cá măng bột phân bố tự nhiên ở nhiều khu vực khác nhau
nhưng nhiều nhất là ở khu vực đầm Đề Gi. Hoạt động nuôi cá măng của ngư dân tỉnh
Bình Định chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, từ khâu vớt cá bột trong tự


nhiên cho đến việc ương thành cá giống và nuôi thương phẩm chung với các loài thủy
sản khác như: tôm, cua, …Với các đặc điểm của cá măng như: nhanh lớn, ít dịch bệnh, có
thể nuôi ghép, chất lượng thịt của cá cao, dễ tiêu thụ, … có thể nói cá măng là một trong
những loài thích hợp cho mục đích đa dạng hóa các đối tượng nuôi thủy sản.
Nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của nghề nuôi cá măng, góp phần đa dạng
hóa các đối tượng nuôi thủy sản, gi
ảm áp lực sinh thái môi trường nuôi thủy sản, sử dụng
một cách hiệu quả nguồn lợi cá măng bột vớt từ tự nhiên thông qua các giải pháp kỹ thuật
ương nuôi đạt tỷ lệ sống cao, chất lượng cá giống tốt, chủ nhiệm đề tài và các cộng sự
đã“Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật ương cá măng (Chanos chanos, Forskal 1775)
giống trong bể xi măng từ nguồn cá măng bột v
ớt tự nhiên”.
I/ MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu
- Kết luận về địa điểm, mùa vụ xuất hiện cá măng bột tại tỉnh Bình Định.
- Hình thành quy trình kỹ thuật ương cá măng giống trong bể xi măng từ nguồn cá
măng bột vớt tự nhiên tại tỉnh Bình Định.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của việc ương cá măng giống trong b
ể xi măng.
2. Nội dung
- Tìm hiểu mùa vụ và địa điểm xuất hiện cá măng bột ở tỉnh Bình Định.
- Xác định chỉ tiêu môi trường, ảnh hưởng của mật độ, loại thức ăn đến tỷ lệ sống,
sinh trưởng trong quá trình ương cá măng.
- Tiến hành ương cá măng giống thử nghiệm với điều kiện môi trường thích hợp
trong bể xi măng.

2
- Xây dựng quy trình kỹ thuật ương cá măng giống trong bể xi măng từ nguồn cá
măng bột vớt tự nhiên.
- Tổ chức tập huấn kỹ thuật vận chuyển cá bột và ương cá măng giống trong bể xi

măng cho ngư dân.
- Tổng kết đề tài, kiến nghị các giải pháp và triển khai ứng dụng theo nhu cầu
trong tỉnh.
3. Phương pháp
3.1. Phương pháp tìm hiểu thu thập số liệu
- Căn cứ các tài liệu về sự phân bố cá măng so sánh với các kết quả thu thập.
- Phỏng vấn trực tiếp các ngư dân ven biển tỉnh Bình Định về địa điểm, thời gian,
số lượng cá măng bột vớt được hàng năm.
- Phỏng vấn trực tiếp ngư dân tham gia ương cá măng giống và nuôi cá măng
thương phẩm trong tỉnh để thu thập thông tin cần thiết phục v
ụ cho đề tài.
3.2. Phương pháp nghiên cứu ương cá măng giống trong bể xi măng
- Xác định ngưỡng độ mặn chịu đựng của cá măng giống.
- Xác định ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống và sự sinh trưởng của cá măng từ
giai đoạn cá bột lên cá giống.
- Xác định ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tỷ lệ sống và s
ự sinh trưởng của cá
măng từ giai đoạn cá măng bột đến cá măng giống.
3.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Tính tỷ lệ sống:




Trong đó: Rs: Tỷ lệ sống (%); F1: Số lượng cá lần kiểm tra trước (con); F2: Số
lượng cá kiểm tra sau (con).
- Xác định thông số giá trị trung bình: Tất cả các số liệu sẽ được theo dõi và ghi
nhận rồi sau đó đưa ra xử lý thống kê v
ới sự trợ giúp của phần mềm Microsoft Excel.
Thông số giá trị trung bình: Mean ± Standard Erorr

3.4. Phương pháp xây dựng và hoàn chỉnh quy trình
Dựa trên cơ sở thực hiện đề tài tại Trạm thực nghiệm Nuôi trồng thủy sản Cát Tiến
thông qua các thí nghiệm, các đợt ương nuôi thực tế tại Trạm để xây dựng và hoàn chỉnh
quy trình ương cá măng giống trong bể xi măng tại tỉnh Bình Định.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Nguồn l
ợi cá măng bột ở vùng biển tỉnh Bình Định
Tại Bình Định, ở khu vực cửa Quy Nhơn, Đề Gi, An Dũ, Hà Ra, Tam Quan và đã
ghi nhận được các kết quả sau: khu vực cửa Quy Nhơn, cửa Hà Ra không có cá măng bột
xuất hiện. Khu vực cửa An Dũ không có ngư dân nào bắt được cá măng bột, nhưng thỉnh
thoảng trong ao nuôi tôm quảng canh một số hộ ngư dân bắt được cá măng thương ph
ẩm.
Khu vực cửa Tam Quan thỉnh thoảng một số ngư dân vớt được cá măng bột với số lượng ít
(vài ngàn con/năm), cho nên ở đây không hình thành nghề vớt cá măng bột. Khu vực cửa Đề
Gi có số lượng cá măng bột xuất hiện rất nhiều, tại đây từ lâu đã hình thành nghề vớt - ương cá măng
bột và nuôi cá măng thương phẩm. Vì vậy để xác định
được mùa vụ, số lượng cá măng bột xuất hiện
tại Bình Định tác giả tập trung điều tra khu vực đầm Đề Gi.
Năm 2004, lượng cá măng bột vớt được tại đầm Đề Gi khoảng 95 vạn con và năm
2005 khoảng 83 vạn con.
2. Mùa vụ xuất hiện cá măng bột
F2
F1
x 100
Tỷ lệ sống Rs
=

3
Hàng năm, ở vùng biển Bình Định, cá măng bột thường xuất hiện tháng 4-9. Qua
điều tra, cho thấy hàng tháng cá măng bột xuất hiện 2 đợt, mỗi đợt kéo dài 5-7 ngày và

thường xuất hiện nhiều vào đầu các con nước (cách triều cường khoảng 3-5 ngày).
Những nơi cá bột xuất hiện tập trung nhiều thường có mức nước không sâu lắm: 30-
90cm, đáy cát pha san hô hoặc cát pha bùn, độ mặn 28-33‰, hàm lượng oxy hòa tan 5-
6mg O
2
/l, pH: 7,5-8,5, thời gian xuất hiện nhiều nhất thường là vào lúc 8-9h sáng, nhiệt
độ nước 27-29
0
C. Kết hợp giữa lượng cá măng hao hụt và lượng cá tạp còn lại, tác giả
nhận thấy nên ép cá ở mật độ 1.200 con/l là phù hợp (tỷ lệ hao hụt của cá măng 4,06% và
tỷ lê cá tạp còn là 4,11%).
3. Ảnh hưởng của yếu tố độ mặn, mật độ, loại thức ăn đến sự sinh trưởng và tỷ lệ sống
- Ngưỡng độ mặn: Độ mặn quy định sự phân b
ố của thủy sinh vật. Mỗi một loài
sinh vật có một ngưỡng thích nghi về độ mặn, thậm chí mỗi giai đoạn cũng có một
ngưỡng thích nghi riêng bởi vì độ mặn ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều hòa áp suất
thẩm thấu giữa môi trường bên trong cơ thể và môi trường sống. Từ kết quả nghiên cứu,
cho thấy cá giống bắt đầu chết ở
độ mặn 65‰
.
Như vậy ngưỡng độ mặn trên của cá măng
giống là 65‰, cá sống và hoạt động bình thường ở nước ngọt (ngưỡng dưới).
4. Ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống và sự sinh trưởng của cá măng từ giai
đoạn cá bột lên cá giống
Tác giả bố trí thí nghiệm ở các thang mật độ 100, 150, 200, 250, 300 con/m
2
trong
môi trường nước biển có độ mặn 33‰, sử dụng thức ăn chế biến và Artemia. Điều kiện
bể ương ở ngoài trời có mái che bằng lưới lan, diện tích 1m
2

.
Nhiệt độ cao nhất là 34
0
C và thấp nhất là 27
0
C, đều nằm trong ngưỡng nhiệt độ của
cá măng: 8,5-42,7
0
C (Lin, 1969).
Yếu tố pH dao động nhiều trong ngày, song không có thời điểm nào thấp hơn 5.
Yếu tố độ mặn của nước trong bể ương phụ thuộc độ mặn nước thay vào và không
bị ảnh hưởng bởi mật độ nuôi.
Nồng độ oxy dao động từ 3,5-6,9mg/l. Nồng độ oxy thấp nhất là vào sáng sớm, cá
có hiện tượng kéo đàn trong một thời gian ngắn.
5. Thực nghiệm ương cá măng gi
ống trong bể xi măng
Tác giả tiến hành chia làm 3 đợt ương trong thời gian từ ngày 01-07-2005 cho đến
ngày 26-10-2005.
5.1. Một số giải pháp kỹ thuật áp dụng cho quy trình ương cá măng giống trong
bể xi măng
- Chuẩn bị bể ương: Trại giống được vệ sinh sạch sẽ và chuẩn bị tất cả các khâu
trước khi mua cá bột. Vệ sinh sạch sẽ toàn bộ hệ thống bể ương, bể chứa nướ
c, dụng cụ
phục vụ sản xuất bằng xà phòng và rửa kỹ lại bằng nước ngọt, để khô trại 7-10 ngày.
Lượng nước cấp vào bể khoảng 80cm. Trong mỗi bể bố trí 4 vòi sục khí. Sử dụng lưới
lan để giảm bớt ánh nắng mặt trời toàn bộ các bể ương cá măng bột.
- Vận chuyển cá bột, ép cá và thả cá bột: Cá thả nuôi có chất lượng tốt, hoạt
động
nhanh nhẹn, đều, không bị xây sát hoặc dị hình, không lẫn cá tạp, đặt biệt là các loài cá
dữ.Vận chuyển bằng túi nilon có bơm oxy: Mật độ vận chuyển 6.000-8.000 con/10 lít

nước. Thả cá từ bao vận chuyển ra thùng nhựa 100 lít, sục khí khoảng 10 phút.
Dùng dây khí xiphong nước trong bể ra thùng cho đến khi lượng nước trong thùng
tăng lên khoảng 60-70 lít. Thời gian khoảng 30 phút. Dùng ca nhựa 2 lít múc toàn bộ cho
vào bể ương. Mật độ thả ương: 200 con/m
2
.
- Thức ăn và cách cho ăn: Sử dụng kết hợp 2 loại thức ăn là Nauplius của Artemia
và thức ăn chế biến. Artemia được ấp nở trước 24 giờ. Đối với thức ăn chế biến, chúng
tôi vận dụng công thức thức ăn của SEAFDEC.

4
- Kiểm tra sự tăng trưởng của cá 10 ngày 1 lần.
Khi cá đạt khối lượng khoảng 3g thì thu hoạch để bán cho ngư dân.
5.2. Kết quả các đợt ương cá măng giống trong bể xi măng
- Đợt 1: Thời gian: Từ ngày 03-07-2005 đến ngày 25-08-2005. 6.500 con cá bột (đã
ép xong) được ương trong 8 bể xi măng (4m
2
/bể). Sau 53 ngày ương, chúng tôi thu được
6.400 con cá giống, tỷ lệ sống đạt 98%. Kết quả đợt ương thứ 1, thu được khoảng 6.400 con cá
măng giống với chiều dài trung bình 40,3mm, khối lượng trung bình >3g. Đợt ương thứ 1, cá phát triển
nhanh, đạt tỷ lệ sống cao.
- Đợt 2: Thời gian: Từ ngày 15-07-2005 đến ngày 10-09-2005; 12.800 con cá bột
(đã ép xong) được ương trong 16 bể xi măng (4m
2
/bể). Sau 57 ngày ương, chúng tôi thu
được 12.035 con cá giống, tỷ lệ sống đạt 94%.
- Đợt 3: Thời gian: Từ ngày 05-09-2005 đến ngày 26-10-2005; 10.700 con cá bột
(đã ép xong) được ương trong 14 bể xi măng (4m
2
/bể). Sau 51 ngày ương, chúng tôi thu

được 10.380 con cá giống, tỷ lệ sống đạt 97%.
5.3. Hạch toán hiệu quả kinh tế
Tổng hợp 3 đợt ương cá măng giống trong bể xi măng, chúng tôi sơ bộ hạch toán như sau:
Nhìn chung, giữa 3 đợt ương có tỷ lệ sống chênh lệch nhau không nhiều, bình quân
tỷ lệ sống đạt được 96%.
Từ kết quả đạt được của đề tài và kết quả ương trong ao đấ
t của ngư dân, chúng tôi
lập bảng so sánh hiệu quả như sau:
Từ bảng so sánh hiệu quả kinh tế giữa 2 hình thức ương, tác giả nhận thấy: với cùng
một lượng cá măng bột, chi phí cho ương cá măng trong bể xi măng cao hơn nhưng ngược
lại ương trong bể xi măng lại đạt được tỷ lệ sống cao. Vì vậy, tỷ suất lợi nhuận ương trong
bể xi mă
ng (9,8%) cao hơn so với ương trong ao đất (5,5%).
6. Hiệu quả kinh tế xã hội của đề tài
- Kết quả đạt được của đề tài đã khẳng định cá măng giống ương trong bể xi măng
có tỷ lệ sống cao, chất lượng cá giống tốt.
- Sau khi áp dụng quy trình vào thực tế sản xuất, chúng tôi đã đạt được tỷ lệ sống
96% với mức lãi là 17.927.000đ, tỷ suất lợ
i nhuận đạt 9,8%/tháng.
- Đề tài đã mở ra một hướng mới cho các hộ ngư dân chuyên ương cá măng giống:
ương cá măng giống trong bể xi măng với tỷ lệ sống cao, chất lượng tốt, dễ dàng thuần
hóa khi có nhu cầu vận chuyển đi xa.
- Sau khi đề tài kết thúc, chúng tôi đã đào tạo được một số cán bộ kỹ thuật và công nhân
nắm vững quy trình, có thể áp dụng vào thực tiễn s
ản xuất một cách vững vàng.
7. Xây dựng quy trình kỹ thuật ương nuôi cá măng giống trong bể xi măng

5


























KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Địa điểm xuất hiện cá măng bột: Tại tỉnh Bình Định, cá măng bột xuất hiện ở các
khu vực cửa biển Tam Quan, An Dũ và Đề Gi, trong đó xuất hiện nhiều nhất là vùng cửa
Đề Gi. Lượng cá măng bột vớt được tại đầm Đề Gi năm 2004 là 952.500 con và năm
2005 là 826.000 con.
- Mùa vụ xuất hiện cá măng bột : Ở tỉnh Bình Định, hàng năm cá măng bột xu
ất hiện

tháng 4-9 (xuất hiện nhiều vào tháng 6 và tháng 7). Trong các tháng này, cứ vào những
ngày trước đến sau triều cường là có cá măng bột xuất hiện, mỗi tháng xuất hiện 2 đợt,
mỗi đợt kéo dài 5-7 ngày. Thời gian xuất hiện nhiều nhất trong ngày là 8-9 giờ sáng. Khu
vực cá măng bột xuất hiện có độ mặn 25-33‰, oxy hòa tan: 5-6mg/l, pH: 7,5-8,5, nhiệt
độ: 27-29
0
C.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và tỷ lệ sống trong quá trình ương cá măng
bột lên cá măng giống: Ngưỡng độ mặn chịu đựng của cá măng giống là 0-65‰. Mật độ
thích hợp ương trong bể xi măng từ giai đoạn cá bột lên cá giống là 200 con/m
2
. Loại
thức ăn thích hợp để ương cá măng trong giai đoạn 4 tuần đầu tiên là Artemia và thức
ăn chế biến. Từ tuần thứ 5 trở đi, thức ăn chế biến là thích hợp nhất. Với mật độ ương
200 con/m
2
, sử dụng thức ăn là Artemia và thức ăn chế biến, qua các thí nghiệm chúng
tôi đã đạt được tỷ lệ sống 97%.
- Thực nghiệm ương cá măng giống trong bể xi măng: Sau khi xác định được mật
độ ương và loại thức ăn thích hợp, chúng tôi tiến hành thực nghiệm ương cá măng
giống trong bể xi măng từ ngày 01-07-2005 đến ngày 26-10-2005. Với số lượng cá
măng bột là 30.000 con, qua 3
đợt ương, chúng tôi thu được 28.785 con cá măng
giống, thời gian ương trung bình 55 ngày, đạt tỷ lệ sống 96%, tỷ suất lợi nhuận 9,8%
- cao hơn việc ương cá măng giống trong ao đất của ngư dân (tỷ lệ sống 60%, tỷ suất
lợi nhuận 5,5%).
-Chọn vị trí xây dựng
-Thiết kế trại ương
-Các yếu tố thủy lý - hóa
-Vị trí địa lý

Vận chuyển và
thả cá bột
-Chuẩn bị bể ương
-Chuẩn bị trang thiết
bị, vật tư
-Kỹ thuật vận chuyển
-Thuần hóa
-Mật độ ương
Ương
trong bể xi măng
Thu hoạch và vận
chuyển đến ao nuôi
-Tiêu chuẩn chọn cá bột
-Lọc cá tạp

-Ngâm bể, khử kiềm
-Trang thiết bị phù hợp với
quy mô trại
-Cho ăn
-Vệ sinh thay nước
-Kiểm tra sự sinh trưởng
-Chuẩn bị bể ương
-Trang thiết bị

-Thuần hóa
-Kỹ thuật vận chuyển

6
- Cá măng là loài cá có giá trị kinh tế, có khả năng sinh trưởng và phát triển ở độ
mặn 0-65‰, vì vậy nên nghiên cứu sự sinh trưởng cá măng trong nước ngọt nhằm phát

triển nghề nuôi cá măng ở các khu vực nước ngọt.
- Nhu cầu về cá măng giống hiện nay khá cao, vì vậy nên nghiên cứu sản xuất
hoặc chuyển giao công nghệ sinh sản nhân tạo cá măng giống.
- Nhân rộng quy trình ương cá măng giống trong bể xi măng vào thự
c tế để
ngư dân sử dụng các trại tôm giống hoặc xây trại mới ương cá măng bột với mục đích
nâng cao tỷ lệ sống và chất lượng con giống đồng thời nâng cao hiệu quả của việc
ương cá măng giống.
- Trong quá trình quy hoạch các vùng nuôi thủy sản, đập ngăn mặn,… cần lưu ý việc
ảnh hưởng đến các nguồn lợi tự nhiên, trong đó có cá măng.
- Nghiên c
ứu thị trường đầu ra ổn định cũng như nghiên cứu chế biến các sản
phẩm cá măng thương phẩm để xuất khẩu là điều rất cần thiết khi phát triển nghề nuôi
cá măng.

Biên tập: Hữu Hà

×