Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DIỄN ĐÀN AN NINH KHU VỰC ARF, NHỮNG THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.35 KB, 49 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




CÀ THỊ HOAN



QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA DIỄN ĐÀN AN NINH KHU VỰC ARF,
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





CÀ THỊ HOAN



QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA DIỄN ĐÀN AN NINH KHU VỰC ARF,
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ THẾ GIỚI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: Ths. Điêu Thị Vân Anh




SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo – Ths. Điêu Thị Vân Anh
đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong khoa Sử – Địa, Trường
Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình học tập.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lớp K50 ĐHSP Lịch sử, Thư viện
trường Đại học Tây Bắc đã giúp em trong quá trình tìm kiếm và mượn tài liệu

để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn!


Sơn La, tháng 5 năm 2013
Tác giả
Cà Thị Hoan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu 3
4.1. Cơ sở tài liệu 3
4.2. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu của đề tài 4
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ARF 5
1.1. Hoàn cảnh ra đời của ARF 5
1.1.1. Sự lo ngại của ASEAN về một “khoảng trống quyền lực” khi chiến tranh
lạnh kết thúc 5
1.1.2. Biển Đông là một vấn đề nổi cộm lôi kéo sự quan tâm của nhiều quốc gia 10
1.1.3. Mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN 13
1.1.4. Thách thức của toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế 15
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của ARF 16
1.2.1. Quá trình hình thành của ARF 16
1.2.2 Quan điểm của ASEAN về an ninh khu vực 17
1.2.3 Sự phát triển của ARF 18

CHƯƠNG 2. ARF: THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG 27
2.1. Thách thức 27
2.2. Triển vọng 36
KẾT LUẬN 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hòa nhập cộng đồng quốc tế là xu thế phát triển của thời đại. Ra đời năm
1967, ASEAN là tổ chức khu vực thể hiện xu hướng tất yếu đó của lịch sử. Trải
qua bốn mươi lăm năm tồn tại và phát triển, trong những hoạt động của mình
ASEAN đã là một tổ chức có vai trò quan trọng không chỉ ở những lĩnh vực hợp
tác kinh tế – văn hóa – xã hội mà còn có khả năng đóng góp cho nền an ninh ở
khu vực và trên thế giới.
Những biến đổi nhanh chóng của tình hình quốc tế và khu vực sau chiến
tranh lạnh đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ASEAN trong lĩnh vực hợp
tác an ninh – chính trị trong nội khối và với bên ngoài. Thích ứng nhạy bén của
ASEAN trước những thay đổi của môi trường chính trị quốc tế được thể hiện
trong việc thiết lập cơ chế an ninh đa phương vượt ra ngoài phạm vi Đông Nam
Á, vươn tới khu vực rộng lớn hơn: Châu Á – Thái Bình Dương.
Sau chiến tranh lạnh, Châu Á – Thái Bình Dương trở thành một thị trường
thống nhất, sự hợp tác kinh tế, thương mại đã vượt qua sự khác biệt về chế độ xã
hội, về ý thức hệ. Sự trùng hợp về lợi ích kinh tế trong một phạm vi nhất định đã
khiến các nước trong khu vực thấy rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn an ninh và
cục diện chính trị cân bằng ổn định trên cơ sở sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau
giữa các quốc gia lớn.
Diễn đàn khu vực ARF là sự phản ứng linh hoạt của ASEAN trước những
thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực đó. Ngày nay ARF đang được nhìn
nhận như một diễn đàn có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền an ninh – chính trị

khu vực. Diễn đàn này bổ sung vào các cơ chế liên minh song phương và đối
thoại khác nhau hiện có ở châu Á, củng cố thêm triển vọng hợp tác an ninh ở
khu vực này. Hiện nay, sau hơn 19 năm tồn tại và phát triển, ARF đang chứng tỏ
được sức sống và giá trị thực tiễn của mình, được các thành viên cũng như dư
luận quốc tế đánh giá cao.
Đề tài “Quá trình hình thành và phát triển của diễn đàn an ninh khu vực
ARF, những thách thức và triển vọng” không chỉ liên quan đến sự hợp tác về an
ninh của các nước nội khối ASEAN mà còn là sự hợp tác giữa các nước ASEAN
với các nước lớn trên thế giới về việc đảm bảo an ninh ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Thông qua đó giúp ta hiểu rõ được vai trò, những thách thức và
triển vọng của ARF trong quá trình hợp tác, phát triển của các nước Đông Nam
Á với các nước trên thế giới.

2
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần bổ sung nguồn tư
liệu quý giá cho giáo viên trong việc giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông và
còn là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên học tập.
Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Quá trình hình thành và phát triển của
diễn đàn an ninh khu vực ARF, những thách thức và triển vọng” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình. Đây không phải là vấn đề mới, nó chỉ là một phần nhỏ
trong chuỗi dài của lịch sử ASEAN nhưng rất quan trọng bởi sự ổn định về an
ninh sẽ là tiền đề góp phần thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương và đa
phương về kinh tế, xã hội của khu vực.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các nước Đông Nam Á trải qua những
bước thăng trầm trong quan hệ giữa các nước, lúc căng thẳng, lúc hòa dịu, song
xu hướng chung vẫn là phát triển, hòa hợp và liên kết khu vực. Nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài khu vực quan tâm đến ASEAN và coi đó như là “hình
mẫu khu vực” cho các nước đang phát triển. Có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu
về ASEAN bao gồm các lĩnh vực như an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội…Về hợp tác an ninh giữa các nước ASEAN cũng như giữa ASEAN với các
nước lớn, có một số tác phẩm như sau:
“Một số chuyên đề lịch sử thế giới”, Vũ Dương Ninh (chủ biên), NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội, 2002: Tác phẩm có một chuyên đề nói về ASEAN –
những đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực.
“Lịch sử Đông Nam Á”, Lương Ninh (chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội,
2005 : Tác phẩm khái quát lịch sử các nước trong khu vực Đông Nam Á và quá
trình hợp tác của các nước này trên các lĩnh vực, quan trọng nhất là trên lĩnh vực
an ninh.
“ARF – Việt Nam – Thái độ và việc làm”, Quách Hải Lượng. Viện chiến
lược quân sự – Bộ Quốc phòng, 1988: Tác phẩm đã khái quát được sự ra đời của
ARF, tập trung phân tích vị thế, vai trò của Việt Nam trong diễn đàn này.
“Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Trần Khánh (chủ biên), NXB
KHXH, Hà Nội, 2002: Tác phẩm đã tập trung phân tích sự cần thiết của việc thành
lập một diễn đàn an ninh mang tính chất quốc tế ở khu vực Đông Nam Á.
“ASEAN hôm nay và triển vọng trong thế kỷ XXI”, Nguyễn Thu Mỹ,
TTKHXH và NV Quốc gia. Viện nghiên cứu Đông Nam Á: Tác phẩm đã tập
trung phân tích về những triển vọng của ASEAN trong thế kỷ XXI.

3
Ngoài ra, có rất nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí nghiên
cứu Đông Nam Á, Tạp chí nghiên cứu quốc tế,… Với những nhận định, đánh giá
của các chuyên gia, các nhà phân tích về quá trình hợp tác, liên kết ASEAN trên
mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề về an ninh. Tuy nhiên những nguồn tài liệu trên
mới chỉ đề cập và nghiên cứu một cách khái quát về quá trình hợp tác an ninh trong
khu vực Đông Nam Á và sự hợp tác an ninh giữa các nước Đông Nam Á với các
nước lớn trên thế giới chứ chưa đi sâu vào chi tiết, cụ thể. Vì vậy việc nghiên cứu
đề tài “Quá trình hình thành và phát triển của diễn đàn an ninh khu vực ARF,
những thách thức và triển vọng” là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của diễn đàn
an ninh khu vực ARF cùng với những thách thức và triển vọng của diễn đàn này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: giới hạn chủ yếu từ năm 1994 đến năm 2012. Tuy nhiên, đề
tài cũng đề cập đến một số nội dung khác liên quan đến thời gian trước năm
1994 nhằm làm rõ hoàn cảnh ra đời của ARF
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, sự phát triển và
những thách thức, triển vọng của diễn đàn ARF.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tái hiện lại có hệ thống quá trình hình thành, phát triển và hợp tác
trên lĩnh vực an ninh – chính trị của các nước ASEAN và các nước lớn tại khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, những thách thức và triển vọng của quá trình
hợp tác này.
4. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tài liệu
Cơ sở tài liệu: Giáo trình, tạp chí – chuyên khảo và tư liệu từ mạng Internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
logic. Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp phân
tích, phương pháp hệ thống để làm rõ nội dung nghiên cứu.



4
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu thành 2 chương
Chương 1. Quá trình hình thành và phát triển của ARF
Chương 2. ARF: Những thách thức và triển vọng


5
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ARF

1.1. Hoàn cảnh ra đời của ARF
1.1.1. Sự lo ngại của ASEAN về một “khoảng trống quyền lực” khi chiến
tranh lạnh kết thúc
Khu vực Đông Nam Á nằm ở phía Nam Trung Quốc và phía Đông Ấn Độ –
hai quốc gia lớn nhất châu Á. Đây là một khu vực có vị trí chiến lược quan trọng
cả về kinh tế lẫn quân sự.
Yếu tố biển bao bọc hầu hết các quốc gia trong khu vực là điều kiện thuận
lợi cho giao thông và thương mại. Đông Nam Á được coi là hành lang cầu nối
giữa các nước phương Đông (Nhật Bản, Trung Quốc) với các nước phương Tây
(các nước ven bờ Địa Trung Hải). Các nhà nghiên cứu đã quan niệm về vị trí
chiến lược của Đông Nam Á như “ngã ba đường” hay “ống thông gió” thông
thương với các lãnh thổ trên thế giới.
Các thư tịch cổ hiện nay tìm thấy đã đưa đến một nhận định: từ lâu, quá
trình giao lưu, thông thương của khu vực Đông Nam Á với thế giới đã diễn ra.
Đến thời kỳ cận đại, ở phương Tây khi mầm mống của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa được xuất hiện và phát triển trong lòng xã hội phong kiến, các
nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…tiến hành các cuộc phát kiến địa lý để tìm
những con đường, những vùng đất mới. Trong quá trình này, họ đã đến Đông
Nam Á. Không lâu sau đó, chủ nghĩa thực dân xuất hiện, đi liền với nó là quá
trình cướp bóc, nô dịch các dân tộc ngoài châu Âu. Khu vực Đông Nam Á cũng
trở thành đối tượng nhòm ngó, xâm lược của các nước tư bản phương tây, biến
các quốc gia phong kiến độc lập tại đây thành các nước phụ thuộc, thuộc địa.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các cường quốc tìm mọi cách can thiệp,
gây ảnh hưởng của mình đối với khu vực. Đi đầu trong các cường quốc ấy phải
kể đến đế quốc Mỹ.
Chiến tranh kết thúc, Mỹ vươn lên trở thành một siêu cường trong thế giới

tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, Mỹ đã “làm giàu trên sự đổ nát của châu Âu và thế
giới” [11, 285]. Sự vươn lên mạnh mẽ của Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự
đã giúp Mỹ vươn tầm ảnh hưởng của mình ra thế giới. Với ưu thế đó, Mỹ chủ
quan cho rằng: Sau chiến tranh sẽ là thời đại của Mỹ, thời đại Mỹ có thể dùng
sức mạnh để buộc các dân tộc khác phải phục tùng. Mỹ tự gán cho mình trách

6
nhiệm cầm đầu các nước tư bản để bảo vệ “thế giới tự do” chống lại sự “bành
trướng” của chủ nghĩa cộng sản.
Trên cơ sở đó, Mỹ đề ra “chiến lược toàn cầu” hòng đạt 3 mục tiêu:
1. Ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
2. Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ, hòa bình trên
thế giới.
3. Nô dịch các nước đồng minh tư bản, tập hợp các lực lượng phản động
quốc tế đặt dưới sự lãnh đạo của Mỹ.
Để đạt được 3 mục tiêu trên, Mỹ đã phát động chiến tranh lạnh nhằm vào
Liên xô, ráo riết các hoạt động chạy đua vũ trang, phát triển vũ khí hạt nhân, lập
ra các khối quân sự và lôi kéo đồng minh tham gia các khối quân sự này.
Tại khu vực Đông Nam Á, Mỹ lôi kéo Thái Lan, Malaixia, Philippin tham
gia ký kết “Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á – SEATO” và đặt các căn
cứ quân sự tại những nước này. Thực chất, đây là một khối quân sự xâm lược do
Mỹ tổ chức và điều khiển nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
Đông Nam Á, gây nên tình trạng căng thẳng và phức tạp trong khu vực. Tiếp đó,
Mỹ dần thay chân Pháp, nhảy vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương hòng
biến khu vực này thành căn cứ địa kiểu mới, thành bàn đạp để mở rộng xâm
lược ra các khu vực của châu Á. Tuy nhiên, tham vọng của Mỹ cũng bị ảnh
hưởng nhiều bởi thế lực đối trọng với Mỹ là Liên xô.
Sau khi kết thúc chiến tranh, vị thế quốc tế của Liên xô được đề cao hơn
bao giờ hết. Liên xô trở thành thành trì, chỗ dựa vững chắc cho phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời. Phong

trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ trên khắp châu lục, phá vỡ hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, giải phóng các dân tộc bị áp bức, đồng thời
cũng cho thấy vai trò và tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ra toàn thế giới.
Trong bối cảnh thế giới bị phân đôi thành hai cực đối lập nhau, để ngăn
chặn Liên Xô và chủ nghĩa xã hội không cho lan ra các khu vực khác, Mỹ đã ra
sức nâng đỡ và phục hồi Tây Âu và Nhật Bản. Cùng với chính sách ngăn chặn,
kế hoạch phục hưng châu Âu (kế hoạch MácSan) được đưa ra kịp thời và triển
khai sâu rộng trên lục địa châu Âu.
Trong thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ và Liên Xô đều trở thành nạn
nhân của các nước tấn công phe phát xít, hoàn cảnh đó đã dẫn tới hai nước bắt
tay trong phe Đồng minh. Nhưng khi chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, hiểm họa
qua đi, thì liên minh đó cũng nhanh chóng tan rã, những mâu thuẫn trước đó lại

7
nổi lên. Do bản chất chế độ xã hội, hệ tư tưởng và ý thức hệ khác nhau, mục tiêu
và quyền lợi khác nhau, nên mâu thuẫn giữa Mỹ và Liên xô ngày càng mở rộng,
hình thành cục diện đối kháng lưỡng cực. Từ quan hệ đồng minh chuyển sang
quan hệ đối đầu, từ đối đầu giữa hai nước sang đối đầu giữa hai phe.
Trước sự hình thành của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, với ảnh hưởng
và uy tín ngày càng lớn, Mỹ đã tập hợp, lôi kéo các nước Đồng minh, trước hết
là Tây Âu và Nhật Bản đã theo mình bằng kế hoạch MácSan và hình thành các
tổ chức quân sự hoặc hiệp ước tay đôi. Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai
các nước thành viên trong phe Đồng minh dạt về hai cực và dần dần trở thành
thù địch. Thế giới chia làm hai trận tuyến rõ rệt và đi liền với nó là cuộc chiến
tranh lạnh ngày càng gay gắt.
Mỹ đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm thực thi chiến tranh lạnh thông qua
kế hoạch MácSan để viện trợ kinh tế, kĩ thuật cho các nước phương Tây, thông
qua đó Mỹ còn nhằm hợp tác với các nước Tây Âu vào Liên minh quân sự
chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, tạo nên sự đối lập về kinh tế,
chính trị, quân sự giữa các nước Tây Âu tư bản chủ nghĩa và Đông Âu xã hội

chủ nghĩa. Mỹ cho xây dựng các khối quân sự và căn cứ quân sự khắp nơi trên
thế giới điển hình là ở Đông Bắc Á, Mỹ kí với Nhật Bản hiệp ước an ninh Mỹ –
Nhật và xây dựng một loạt các căn cứ quân sự như Đông Nam Á (SEATO),
Nam Á (ANZUS), Tây Á (CENTO), châu Âu (NATO)… Mỹ và Phương Tây đã
đẩy Liên Xô vào cuộc chạy đua quân sự khổng lồ nhằm chuẩn bị chiến tranh
tổng lực để chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Phát động hàng chục
cuộc chiến tranh lớn nhỏ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm chống lại phong
trào cách mạng thế giới (chiến tranh Đông Dương (1954 – 1975), chiến tranh
Triều Tiên (1950 – 1953). Bao vây kinh tế, cô lập chính trị, đảo chính, lật đổ
chống các nước xã hội chủ nghĩa. Để đối phó với cuộc chiến tranh lạnh của Mỹ
phát động thì Liên Xô đưa ra các biện pháp như Liên Xô và các nước Đông Âu
thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế, mục đích của khối này là nhằm hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Thành lập tổ chức hiệp ước
Vacsava về mặt tính chất đây là một liên minh chính trị, quân sự mang tính chất
phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu. Từ đây cuộc chiến tranh
lạnh đã dẫn tới cuộc chạy đua vũ trang, dẫn tới cuộc đối đầu giữa hai cực Xô –
Mỹ và hai khối Đông – Tây làm cho quan hệ quốc tế luôn căng thẳng.
Tuy nhiên, trải qua gần bốn mươi năm với gánh nặng chi tiêu quân sự và
chạy đua vũ trang đã làm cho hai nước tốn kém và suy giảm thế mạnh về nhiều
mặt so với các cường quốc khác. Cùng với đó là sự vươn lên thần kì của Tây Âu

8
và Nhật Bản trở thành đối thủ cạnh tranh với Mỹ, còn Liên Xô thì chịu sự tác
động lớn của cuộc khủng hoảng năng lượng nên hai bên đã có cuộc gặp mặt
không chính thức tại Manta (1989) và tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh.
Năm 1991, chiến tranh lạnh kết thúc. Mặc dù cuộc đối đầu giữa các nước
lớn, các siêu cường quốc trên phạm vi toàn thế giới tạm thời lắng xuống, thời kì
hậu chiến tranh lạnh được mở ra. Nhưng môi trường an ninh nói chung và Đông
Nam Á nói riêng còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Sự cân bằng an ninh mà Mỹ và
Liên xô tạo ra trước đây trên quy mô thế giới nói chung và Đông Nam Á nói

riêng bị phá vỡ. Liên xô suy yếu buộc phải rút sự có mặt quân sự của mình ở
Việt Nam. Mỹ điều chỉnh chiến lược rút quân khỏi các căn cứ quân sự ở
Philippin. Điều đó đã tạo ra “khoảng trống quyền lực” ở Đông Nam Á. Các
nước ASEAN lo ngại rằng những nước có tiềm lực kinh tế, chính trị như Trung
Quốc, Nhật Bản sẽ có thể nhảy vào “lấp khoảng trống” đó.
Mặc dù không chiếm được ảnh hưởng lớn như Mỹ và Liên xô, song Trung
Quốc cũng đang tích cực vươn tầm ảnh hưởng của mình ra các nước láng giềng
Đông Nam Á.
Trung Quốc là một nước lớn, được các nước Đông Nam Á đặc biệt quan
tâm. Bên cạnh các yếu tố gần gũi về địa lý, lịch sử và văn hóa, Trung Quốc là
nước đông dân, lại có tiềm năng to lớn về kinh tế và là nước sở hữu vũ khí hạt
nhân. Do đó, những chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc đều trực tiếp
tác động đến khu vực. Từ thời tiền sử cho đến nay, Đông Nam Á gắn với lợi ích
và là một trong những hướng chính trong giao lưu quốc tế của Trung Quốc. Một
bộ phận không nhỏ Hoa kiều sinh sống tại các quốc gia Đông Nam Á có đóng
góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa… Vì vậy, Trung Quốc coi
Đông Nam Á là khu vực ảnh hưởng truyền thống của mình. Tuy nhiên, dưới chế
độ phong kiến, do ảnh hưởng của các mối bang giao trong lịch sử dựa trên tư
tưởng dân tộc nước lớn và sức mạnh quân sự Trung Quốc thực sự là mối lo ngại
của các nước trong khu vực. Sự khác biệt về ý thức hệ, nhất là sự lo lắng dự báo
về một “khoảng trống quyền lực” [9, 157] khi Mỹ và Liên xô giảm dần ảnh
hưởng tại khu vực này sẽ là dấu hiệu đáng ngại cho tình hình chung của khu vực
nếu Trung Quốc thay thế vào vị trí khoảng trống quyền lực đó. Thực tế lịch sử
đã chứng minh, những lo lắng đó là có cơ sở khi Trung Quốc có ý đồ biến
Xingapo thành “con ngựa gỗ thành Tơroa” [5, 16] của Trung Quốc. Số lượng
người Hoa sống tại Xingapo là rất lớn, vị thế và tầm ảnh hưởng tới cả những
nước trong khu vực. Vì vậy, Trung Quốc muốn từ Xingapo, tầm ảnh hưởng sẽ
lan rộng ra các nước Đông Nam Á. Cuộc tranh chấp biên giới giữa Việt Nam (2

9

– 1979) với Trung Quốc và sau này là vấn đề Campuchia, việc Trung Quốc có
những động thái nhất định giúp đỡ Pôn pốt – Iêng xari tiến công biên giới phía
Tây Nam Việt Nam năm 1977 là những minh chứng cho chính sách áp đặt ảnh
hưởng của Trung Quốc ở khu vực này. Người ta nghi ngờ, cảnh giác về “một giải
pháp đỏ” [6, 18] của Trung Quốc trong việc giải quyết vấn đề Campuchia là con
đường thực hiện bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Các nước này lo lắng
Trung Quốc thông qua lực lượng của họ, được hỗ trợ ở các nước Đông Nam Á có
thể gây áp lực đối với chính quyền các nước thành viên sáng lập của ASEAN.
Không rộng lớn như Trung Quốc song thực lực kinh tế lại vô cùng mạnh
mẽ, đó là Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, theo Hiến pháp mới, Nhật
tuyên bố cam kết không tái thiết vũ trang. Dưới ô bảo hộ của Mỹ, Nhật tập trung
phát triển kinh tế và trở thành siêu cường kinh tế đối chọi với Tây Âu và Mỹ.
Đội ngũ thương nhân người Nhật có mặt ở khắp nơi trên thế giới dưới hình thức
buôn bán đầu tư… Tại Đông Nam Á, Nhật có nhiều lợi thế hơn các nước khác
với yếu tố thuận lợi gần gũi về mặt địa lý và văn hóa. Nhật có một chính sách
đối ngoại năng động. Nhật nhận thấy rõ những nguồn lợi đã và sẽ mang lại cho
mình ở khu vực này. Vì vậy, Nhật cũng tăng cường mở rộng hợp tác. Tuy nhiên,
dưới con mắt của người Đông Nam Á, hình ảnh về một nước Nhật trong chiến
tranh thế giới thứ hai vẫn chưa hoàn toàn phai mờ và mối lo ngại về việc tăng
cường sức mạnh quân sự cho tương xứng với sức mạnh kinh tế của Nhật sẽ tăng
thêm một “vị khách không mời” nữa gây ảnh hưởng tại đây.
Thái độ và hành động của Trung Quốc, Nhật đều cho thấy mục đích của hai
quốc gia này đối với khu vực Đông Nam Á. Thêm vào đó là những đối sách của
Mỹ lúc này. Để bảo đảm vai trò tiếp theo của mình ở Đông Nam Á và để đối
phó lại những biến động trong môi trường an ninh chính trị toàn cầu việc thành
lập các tổ chức đa phương là một trong những giải pháp tính đến. Dĩ nhiên để có
được các tổ chức an ninh đa phương trong thời kì hậu chiến tranh lạnh là rất
khó, song trong hoàn cảnh đó Mỹ đưa ra học thuyết cảnh giác trong hợp tác có
nghĩa là Mỹ sẽ tìm “lối vào rộng hơn” để một lúc nào đó sẽ đưa lực lượng của
mình vào khắp khu vực. Khi đó Mỹ sẽ thực sự đóng quân ít hơn ở các căn cứ cố

định và như vậy học thuyết này sẽ giúp Mỹ thích ứng với môi trường an ninh đã
biến đổi.
Trên cơ sở phân tích chiến lược của các cường quốc, các nước ASEAN đã
có cùng quan điểm rằng Mỹ và Trung Quốc vẫn đóng vai trò quan trọng trong
những vấn đề khu vực cả trước mắt và lâu dài đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh.


10
1.1.2. Biển Đông là một vấn đề nổi cộm lôi kéo sự quan tâm của nhiều quốc gia
Trường sa, Hoàng sa là những quần đảo thuộc biển Đông có vị trí địa –
kinh tế và chính trị chiến lược. Ở đây có các eo biển có vị trí chiến lược thế giới,
các con đường biển quan trọng là kho tài nguyên ít được khai thác. Các đảo
thuộc Trường sa có thể được sử dụng như những căn cứ nổi tiền tiêu ngoài biển
khơi. Ai kiểm soát được khu vực Trường sa thực tế là khống chế được khu vực
biển Đông. Vì vậy mà biển Đông đã trở thành đối tượng tranh chấp của các
nước trong khu vực như: Philippin, Việt Nam, Malaixia, Brunei, Inđônêxia và
giữa các nước này với Trung Quốc.
Là một điểm nóng lớn trong xung đột tiềm tàng giữa Trung Quốc với các
nước Đông Nam Á và Mỹ, biển Đông có tầm quan trọng to lớn đối với hòa bình,
ổn định và thịnh vượng của châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc, Việt Nam,
Philippin và các quốc gia khác đều có yêu sách đối với một phần của biển Đông.
Trong khi những khu vực dọc theo bờ biển của các quốc gia này không phải là
trọng tâm tranh chấp, thì có rất nhiều các yêu sách chồng lấn đối với khu vực
ngoài khơi xa như quần đảo Hoàng sa và Trường sa, với một số bãi đá ngầm san
hô và khu vực biển. Ngoài khát vọng bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, có rất
nhiều sự quan tâm đối với biển Đông bắt nguồn từ những nguồn tài nguyên
phong phú và vị trí chiến lược của khu vực này.
Với ước tính chiếm khoảng 10% lượng đánh bắt cá hàng năm trên toàn thế
giới, biển Đông trở nên cực kì quan trọng đối với ngành đánh bắt cá của các
quốc gia ven biển. Khu vực này cũng chứa đựng những nguồn năng lượng tiềm

năng quan trọng như dầu khí và khí ga tự nhiên.
Biển Đông giữ một vị trí chiến lược quan trọng vận tải hàng hóa quốc tế.
Phần lớn vận chuyển năng lượng và nguyên liệu thô qua eo biển Malacca đều
qua biển Đông tới Trung Quốc và Nhật Bản. Hải quân Giải phóng nhân dân
Trung Quốc (PLAN) đã nhận ra tầm quan trọng của biển Đông, và từng bước
củng cố năng lực hải quân của mình trong khu vực. Mỹ cũng có những lợi ích
trong việc bảo vệ những tuyến đường đi qua khu vực, Mỹ xem những lợi ích
hàng hải ổn định và không bị cản trở là điều thiết yếu đối với sự thịnh vượng và
thương mại quốc tế.
Trung Quốc, Việt Nam, Philippin đưa ra những yêu sách chủ quyền mạnh
mẽ và đáng chú ý nhất đối với biển Đông. Để củng cố những yêu sách của mình,
các quốc gia trong khu vực đã tranh nhau chiếm đóng càng nhiều thực thể trên
biển càng tốt. Điều này đã khiến Trung Quốc xung đột với Việt Nam vào năm
1974 và với Việt Nam thống nhất vào năm 1988, trong khi lực lượng của một

11
vài quốc gia thường quấy nhiễu và bắt giữ những tàu cá nước ngoài. Hiện tại,
Trung Quốc kiểm soát toàn bộ Hoàng sa và 15 bãi san hô và đá ngầm trong quần
đảo Trường sa. Những quan ngại của khu vực đã dẫn tới việc kí kết Tuyên bố về
Quy tắc Ứng xử của các bên liên quan tại biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và
10 quốc gia ASEAN vào năm 2002. Trong khi đây được coi là một bước tích
cực hướng tới sự ổn định thì mãi đến năm 2011 bản Hướng dẫn Thực hiện DOC
kèm theo mới được thông qua.
Tuy nhiên xung đột vẫn tồn tại vì một phần do bản tuyên bố không có ràng
buộc pháp lý và không đáp ứng được những tiến triển hứa hẹn giải quyết tranh
chấp. Trong những năm qua, số lượng những vụ va chạm giữa các lực lượng
biển gia tăng một cách đột ngột, bao gồm cả những bế tắc căng thẳng giữa
Trung Quốc và Philippin tại bãi Hoàng Nham (Scarborough Reef) vào tháng 4 –
2012. Điều này làm dấy lên quan ngại rằng Trung Quốc, Việt Nam, Philippin
đang ngày càng quyết đoán trong vấn đề tranh chấp, gây nguy hại đến sự ổn

định khu vực.
Việc tranh chấp được thể hiện cụ thể như sau:
* Tranh chấp Việt Nam – Trung Quốc
Hiện Trung Quốc đang đòi chủ quyền trên tất cả các đảo vốn đang do Việt
Nam nắm giữ, trong khi philippin, Malaixia, Brunei và Đài Loan thì tuyên bố
chủ quyền một phần ở khu vực này. Trường sa nằm ở phía Nam của biển Đông,
rất xa nếu tính từ đảo Hải Nam so với bờ biển Nam của Việt Nam, đảo Palawan
của philippin Và Malaixia và vùng lãnh thổ Brunei ở bờ biển phía Bắc Borneo.
Trung Quốc đòi chủ quyền vùng biển của mình kéo dài gần tới bờ biển của
những quốc gia trên và gần sát đảo Natuna có nhiều khí đốt thuộc Inđônêxia.
Trung Quốc đã và đang sử dụng vũ lực để khẳng định các tuyên bố chủ
quyền của mình đối với quần đảo Hoàng sa. Ngày 22 – 3 – 2010, tàu chiến
Trung Quốc đã bắt giữ một tàu đánh cá của Việt Nam bị cho là đánh cá trong
vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng sa. Trung Quốc cũng tìm cách tăng cường
chiếm giữ các đảo nhỏ để phát triển du lịch.
Tuy vậy, Việt Nam ít tỏ ra đang bị đe dọa. Mặc dù quan hệ thương mại giữa
hai nước đang phát triển, nhưng khi Trung Quốc tuyên bố hoạt động tuần tra tại
quần đảo Trường sa vào ngày 1 – 4 – 2010, Việt Nam cũng đã đáp trả chuyến
thăm của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tới đảo Bạch Long Vĩ, vốn là hòn
đảo nằm giữa bờ biển Việt Nam và đảo Hải Nam. Đây là hòn đảo của Việt Nam
nhưng Trung Quốc đang đòi chủ quyền. Đồng thời, Việt Nam tăng cường sự

12
hiện diện tại quần đảo Trường sa, nơi Việt Nam đang nắm giữ nhiều đảo và đá
ngầm hơn bất kỳ quốc gia nào đang đòi hỏi chủ quyền.
Việt Nam cũng đã mua 6 tàu ngầm của Nga, nước vốn có quan hệ gắn bó
với Việt Nam, và đồng thời phát triển quan hệ với Mỹ, mục đích của những việc
làm này là nhằm củng cố lực lượng hải quân của Việt Nam, yếu tố hết sức quan
trọng đối với Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh tình hình bùng phát căng thẳng
trên vùng biển, đồng thời sẽ đưa Việt Nam lên vị thế một trong những thủ lĩnh

khu vực sở hữu thế mạnh của lực lượng tàu ngầm. Năm 2010, Bộ trưởng Quốc
phòng Việt Nam đã chính thức thăm Mỹ và Pháp, cùng thời điểm đó, Thủ tướng
Việt Nam cũng đã tới thăm Moscow. Việt Nam đã tiếp nhận tàu của Mỹ để sửa
chữa tại vịnh Cam Ranh, căn cứ hải quân vốn do Mỹ xây dựng trong chiến tranh
Việt Nam tại bờ biển Nam Trung Bộ. Ngày 24 – 6 – 2010, tại Hồng Kông, Trợ
lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách vấn đề Đông Nam Á – Thái Bình Dương Kurt
Campbell nhận định rằng: không một quốc gia nào tại Đông Nam Á muốn cải
thiện quan hệ với Mỹ, vốn là kẻ thù cũ của quốc gia này như Việt Nam.
Việt Nam đã và đang nỗ lực để quốc tế chú ý nhiều hơn tới tranh chấp tại
biển Đông. Trong tháng 11 – 2009, Việt Nam đã tổ chức Hội thảo về biển Đông
tại Hà Nội. Hội nghị đã thu hút sự tham gia không chỉ có các học giả tại Trung
Quốc và các quốc gia đang có tranh chấp, mà còn có nhiều chuyên gia tới từ các
nước khác như Anh, Nga, Pháp, Inđônêxia. Việt Nam cũng muốn sử dụng quyền
chủ tịch ASEAN để đưa tranh chấp tại biển Đông đi xa hơn khu vực nhằm mục
đích xác định chủ quyền biển Đông của đất nước mình.
* Tranh chấp Philippin – Trung Quốc
Trung Quốc cho rằng, sở dĩ Philippin có đủ dũng khí để đối đầu trực diện
với nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc là có hai lý do. Thứ nhất, Philippin
đang trông cậy vào sự giúp đỡ của Mỹ, cường quốc quân sự số một thế giới. Thứ
hai, Philippin tin rằng trong cuộc đối đầu ở biển Đông hiện nay, họ sẽ nhận được
sự ủng hộ của các nước đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Trong quá trình căng thẳng kéo dài gần 2 tháng (từ tháng 3 đến tháng 4 năm
2012) giữa Philippin và Trung Quốc xung quanh bãi cạn Scarborough, dư luận đang
chứng kiến một Trung Quốc ngày càng cứng rắn. Ngày 10 – 5 – 2012, tờ Nhật báo
quân đội Trung Quốc đã công bố một bài luận chiến với tiêu đề khó có thể khiêu
khích hơn: “Đừng cố lấy đi dù chỉ một tấc đất lãnh thổ của Trung Quốc”.
Thật ra, theo Tạp chí The Economist của Anh quốc, rất ít người ở Trung
Quốc nghi ngờ tính xác thực của các đòi hỏi của chính phủ nước họ về chủ
quyền trên bãi Scarborough, cũng như trên toàn bộ các hòn đảo nằm trong tấm


13
bản đồ “chín đường gián đoạn”. Bài báo này nhận định rằng, tinh thần dân tộc
chủ nghĩa Trung Quốc đang bị kích động do cuộc tranh chấp với Philippin về
chủ quyền trên bãi Scarborough ngoài biển Đông.
Những căng thẳng trên biển Đông giữa Trung Quốc và Philippin đã không
còn bó hẹp trong khuôn khổ song phương về vấn đề biển đảo. Mỹ ủng hộ các
nước thành viên ASEAN trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Phát
biểu hôm 14 – 5 – 2012, tại cuộc hội thảo của Viện Nghiên cứu các vấn đề chiến
lược và quốc tế ở Washingtơn, Thượng Nghị sĩ Mc Cain cho rằng Mỹ cần bảo
đảm để Trung Quốc không thể muốn làm gì thì làm trong lúc các nước nhỏ hơn
phải chịu tổn hại.
Ngoài Philippin, Việt Nam, tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên
quần đảo Trường sa thì ba nước khác là Thái Lan, Xingapo, Inđônêxia cũng có
vấn đề với Trung Quốc vì Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về thềm lục địa.
1.1.3. Mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN
Ngoài những lo ngại mang tính chất vĩ mô, sinh ra bởi sự tác động của các
yếu tố bên ngoài, trong nội bộ ASEAN cũng tồn tại những mâu thuẫn về chủ
quyền lãnh thổ, tôn giáo, sắc tộc giữa các nước như Philipin – Malaixia; Thái
Lan – Malaixia; Malaixia – Brunei; Malaixia – Inđônêxia. Vấn đề chủ quyền ở
biển Đông, xung đột sắc tộc tôn giáo trong nội bộ ASEAN. Những nước thân
Mỹ trong thời gian chiến tranh lạnh đã tạm gác các tranh cãi trên để đối phó với
sự “đe dọa” của cộng sản từ bên ngoài lẫn bên trong, tạo môi trường ổn định thu
hút đầu tư nước ngoài. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa cộng sản trở
thành hệ thống ở châu Âu, châu Á. Sau khi cách mạng thành công Trung Quốc
đã lựa chọn con đường phát triển đi lên Xã hội chủ nghĩa.Ở khu vực Đông Nam
Á, Việt Nam sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra đời định hướng đưa đất nước phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa, do vậy các nước này đã lo sợ sự lan tràn của chủ nghĩa cộng
sản ra bên ngoài. Trong khi ảnh hưởng của hai cường quốc Anh và Mỹ bị suy
giảm ở khu vực Đông Nam Á, thì ngược lại, ảnh hưởng của Liên Xô và Trung

Quốc lại tăng lên. Liên Xô tiếp tục triển khai chiến lược Châu Á với ý đồ “kiềm
chế Trung Quốc, đối phó với cấu kết Trung – Mỹ, đưa ra những biện pháp an
ninh nhằm đảm bảo an ninh tập thể châu Á và cho hải quân vào hoạt động ở Ấn
Độ Dương” [16, 235]. Bước sang thời kỳ hậu chiến tranh lạnh khi mối đe dọa
trực tiếp về an ninh “đe dọa” từ phía cộng sản yếu hẳn đi, những tranh chấp về
lãnh thổ vùng biển tài nguyên thiên nhiên rất dễ bùng nổ bởi sự khác nhau về
quyền lợi dân tộc và lợi ích kinh tế quốc gia. Thêm vào đó là sự xung đột về

14
quyền lợi văn hóa giữa các sắc tộc, nhóm xã hội, giữa quốc gia dân tộc với địa
phương ngày càng gia tăng dưới tác động của toàn cầu hóa. Tất cả những vấn đề
nhạy cảm này có thể tạo ra sự bất ổn không những trong từng nước ASEAN mà
còn ở cả khu vực.
Những năm qua, vấn đề sắc tộc ở Đông Nam Á khá nổi cộm, một số khu
vực bị “giày vò” bởi xung đột sắc tộc không những đã kiềm chế cải cách và phát
triển đất nước, mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực cho toàn bộ kinh tế khu vực.
Ở bang Ra-khin miền tây Mianma, xung đột sắc tộc đã khiến hàng chục
nghìn dân thường phải lưu lạc không chốn nương thân; ở miền Nam Philippin,
phong trào li khai vẫn chưa chấm dứt, trong khi đó miền Nam Thái Lan, các vụ
đánh bom, tấn công xảy ra liên tiếp gần đây đã phá hoại nghiêm trọng cuộc sống
bình thường của người dân địa phương. Tuy có một số vụ việc do các phần tử cực
đoan gây nên, nhưng đằng sau nó đều có nhân tố bất hòa hoặc xung đột tôn giáo.
Vấn đề sắc tộc ở Đông Nam Á xuất hiện 3 đặc điểm nổi bật: Một là, vấn đề
dân tộc rất phức tạp, trong 11 nước Đông Nam Á với dân số hơn 500 triệu
người, có khoảng 300 dân tộc cùng chung sống; hai là, một số khu vực dân tộc
thiểu số khá nghèo đói, kinh tế lạc hậu; ba là, một số dân tộc thiểu số vẫn có
khuynh hướng độc lập mãnh liệt, thậm chí vẫn đang thực hiện các hoạt động bạo
lực có vũ trang.
Khác biệt văn hóa đồng hành với khác biệt dân tộc không được phép coi
nhẹ. Nếu không suy xét một cách nghiêm túc về vấn đề khoảng cách và bất đồng

về văn hóa, đặc biệt là kiểm điểm nghiêm túc từ góc độ trao đổi văn hóa, từ đó
có sự điều tiết về thiết kế chính sách, để các dân tộc đều được chia sẻ nhiều hơn
thành quả phát triển, hơn nữa còn tích cực chủ động tham gia vào tiến trình phát
triển, thì vấn đề dân tộc rất khó được giải quyết.
Trong khi đó, giải quyết vấn đề hội nhập dân tộc đòi hỏi phải có một nền
tảng nhất định cho phát triển kinh tế và văn hóa. Chưa phát triển, thì sẽ không
giải quyết ổn thỏa được vấn đề dân tộc; thông thường nếu kinh tế xấu đi, thì vấn
đề sắc tộc cũng sẽ xấu đi. Kinh tế phát triển, việc giải quyết vấn đề sắc tộc tất
yếu cũng sẽ tiến lên phía trước một cách đồng bộ. Nếu vấn đề sắc tộc không
được giải quyết ổn thỏa, nó sẽ kiềm chế sự phát triển kinh tế.
Sự khác biệt về ý thức hệ, đặc biệt là ảnh hưởng của quan hệ quốc tế bao
trùm, sự chi phối của các nước lớn đến tình hình chính trị của các nước Đông
Nam Á nên các nước này vẫn có sự thận trọng trong quan hệ với Đông Dương.
Họ lo ngại cuộc chiến này “có thể dẫn đến sự thống trị hoặc đụng đầu giữa một
số nước lớn ở khu vực Đông Nam Á” [10, 12]. Vì vậy, các thành viên sang lập

15
ASEAN sau này tin rằng cách tốt nhất để tránh sự thống trị của các cường quốc
bên ngoài là đoàn kết các nước gần gũi về địa lí vào trong một tổ chức khu vực,
nhấn mạnh đến hợp tác, tăng cường phát triển kinh tế và theo đuổi chính sách
đối ngoại độc lập, vừa để đảm bảo hoà bình, an ninh khu vực, vừa tạo nên sức
mạnh tập thể để đối phó với các nước lớn. Bên cạnh đó, ngăn chặn “những tác
động tiêu cực, ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản cả bên trong và bên ngoài
nhằm duy trì sự ổn định an ninh – chính trị tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế –
xã hội” [3, 168].
ASEAN có vị thế chủ đạo, cốt lõi trong hợp tác Đông Á. Đối với ASEAN
giải quyết vấn đề sắc tộc, không những là bước đi quan trọng tìm kiếm mô hình
phát triển phù hợp với nước mình, mà còn là vấn đề then chốt của việc có thể
phát triển bền vững hay không. Đối với các nước ASEAN chỉ khi xử lý tốt vấn
đề sắc tộc thì phát triển mới ổn định.

1.1.4. Thách thức của toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế
Bên cạnh những vấn đề an ninh có tính chất truyền thống, an ninh của khu
vực Đông Nam Á còn đứng trước những thách thức lớn lao của sự gia tăng của
toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh mặt tích cực của toàn cầu hóa thì
mặt trái của nó cũng tạo nên những thách thức mới. Nó làm nảy sinh các vấn đề
an ninh mới, có tính chất phi truyền thống như an ninh kinh tế, chính trị, bản sắc
quốc gia, dân tộc.
Kinh tế lạc hậu sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, dẫn đến sự chênh lệch
giàu nghèo trong nước, và giữa các nước với nhau. Đây là miếng đất tốt cho sự
nảy sinh và phát triển của các loại chủ nghĩa dân tộc cực đoan núp dưới màu sắc
tôn giáo, sắc tộc.
Toàn cầu hóa cũng có thể làm suy giảm chủ quyền quốc gia. Nó không chỉ
tạo điều kiện cho các dòng chảy tự do của thương mại và đầu tư mà cùng với nó
là sự di cư bất hợp pháp việc vận chuyển vũ khí và buôn lậu hàng hóa, ma túy
vượt qua các đường biên giới quốc gia. Tình hình đó làm cho biên giới quốc gia bị
chọc thủng cả về phương diện an ninh lẫn kinh tế.
Ngoài những vấn đề đã nêu trên, bản thân một số nước ASEAN trước đây có
quan hệ mật thiết với Mỹ như Philippin, Thái Lan, Xingapo cũng vẫn muốn tiếp tục
duy trì quan hệ quân sự – an ninh truyền thống với Mỹ để làm đối trọng kiềm chế
tham vọng của một số cường quốc như Trung Quốc, Nhật Bản.
Từ những nhận thức trên diễn đàn khu vực ARF đã ra đời. Đây là diễn đàn
hợp tác an ninh đa phương để đối thoại và trao đổi các vấn đề về an ninh khu

16
vực châu Á – Thái Bình Dương. Từ chỗ có 18 thành viên đến nay ARF đã quy
tụ được sự tham gia đông đảo của các cường quốc, các đối tác quan trọng đối
với an ninh và phát triển toàn khu vực với 27 thành viên: Thái Lan, Malaixia,
Philippin, Xingapo, Inđônêxia, Brunei, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma,
Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, New Zealand,
Canada, Liên minh châu Âu, Papua New Guinea, Mông Cổ, CHDCND Triều

Tiên, Pakistan, Bangladesh, Srilanca và Đông Timor.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của ARF
1.2.1. Quá trình hình thành của ARF
Để đạt được sự nhất trí cho sự ra đời của ARF các nước trong và ngoài khu vực
đã phải trải qua một quá trình đối thoại thống nhất với nhau về vấn đề an ninh.
Năm 1989, Ngoại trưởng Canada là Joe Clark đến Inđônêxia tham gia đối
thoại hàng năm ASEAN – Canada đã nêu ra sáng kiến về đối thoại an ninh ở
khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ông hi vọng có con đường để hội đàm
song phương và một số vấn đề hội đàm đa phương về vấn đề an ninh.
Năm 1990, Australia cũng nêu sáng kiến đối thoại an ninh khu vực mà họ
cho là cần thiết. Song thái độ giữa các nước còn khác nhau (Nhật tiếp nhận ít
nhiệt tình, Mỹ thì phản đối).
Bên cạnh Canada, Australia, chính ASEAN cũng có sáng kiến thảo luận về
vấn đề an ninh khu vực. Trong cuộc gặp gỡ hàng năm của các Ngoại trưởng
ASEAN lần thứ 23 ở Giacacta năm 1990, ngoại trưởng Philippin Raul
Manglapus lần đầu tiên đã nêu lên sáng kiến đó. Đây được xem như bước khởi
đầu đã được thực hiện trong hội nghị chuyên đề về an ninh khu vực với sự tham
gia của các chuyên gia phi chính phủ thuộc các nước có liên quan tổ chức tại
Manila tháng 7 – 1991, tại Băng cốc tháng 10 – 1991. Trong thời gian này sáng
kiến của Manglapus chưa được nhận thức đánh giá nghiêm túc của một số nước
ASEAN. Họ cho rằng ASEAN đã có khái niệm về an ninh khu vực được rút gọn
trong ZOFPAN (khu vực hòa bình, tự do và trung lập).
Tại hội nghị ngoại trưởng ASEAN năm 1991 Nhật Bản đã đưa ra “sáng
kiến Nakayama” nhằm biến hội nghị sau hội nghị ngoại trưởng ASEAN thành
diễn đàn an ninh khu vực. ASEAN đã từ chối đề nghị này vì không thể nói đến
an ninh của Đông Nam Á mà không có sự tham gia của các nước Đông Dương
trong đó có Việt Nam.
Khi đưa ra những sáng kiến về đối thoại hợp tác an ninh đa phương, các
nước ngoài khu vực có ít nhiều ảnh hưởng bởi hình mẫu hợp tác an ninh ở châu


17
Âu – một khu vực có ảnh hưởng chiến lược và các điều kiện chính trị kinh tế xã
hội khác hẳn khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong khi châu Âu tương đối
thống nhất về tôn giáo, văn hóa cùng chia sẻ một nhận thức chung về an ninh
khu vực thì các nước châu Á – Thái Bình Dương lại quá khác biệt nhau về tôn
giáo, sắc tộc văn hóa, chế độ chính trị và trình độ phát triển. Chính vì vậy mà
phải kiếm một mô hình hợp tác an ninh khác phù hợp với nó.
Vấn đề an ninh khu vực lần đầu tiên được đưa vào chương trình nghị sự của
hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) lần thứ 25 ở Manila vào tháng 7 – 1992.
Trong đó bối cảnh diễn ra tranh chấp gay gắt về chủ quyền ở biển Đông là vấn
đề thảo luận chính ở AMM 25. Từ vấn đề này các nước ASEAN càng nhận thấy
sự cần thiết phải tìm ra một cơ chế hợp tác an ninh đa phương và xúc tiến các
hoạt động nhằm đạt tới mục tiêu trung lập hóa Đông Nam Á.
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN họp vào tháng 7 – 1993 tại Xingapo đã tập
trung thảo luận các vấn đề trên. Các ngoại trưởng Xingapo, Thái Lan, Inđônêxia
đều tập trung nhấn mạnh đến vấn đề an ninh của khu vực, các nước cần hợp tác
với nhau song sẽ không biến ASEAN thành một hiệp ước quân sự mà các nước
thành viên phải luôn gánh vác trách nhiệm chính đối với sự phòng thủ và an
ninh của mình. Những tham khảo sẽ giúp xây dựng một môi trường tin cậy. Nó
bổ sung vào ổn định khu vực.
Những ý kiến của các ngoại trưởng ASEAN tại AMM 26 quan tâm đến 2
vấn đề chính: Sự cần thiết phải hiện thực hóa khu vực hòa bình, tự do và trung
lập (ZOFPAN) và tìm kiếm một cơ chế hợp tác an ninh đa phương cho khu vực
do các viện nghiên cứu chiến lược đề nghị (ASEAN ISI).
Các nước lớn cũng tìm thấy được lợi ích của mình trong một cơ chế hợp tác
đa phương mới ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vì một nền hòa bình an
ninh và ổn định. Ngày 25 – 7 – 1994, ARF đã chính thức ra đời thông qua hội
nghị lần thứ nhất tại Băng cốc – Thái Lan.
1.2.2 Quan điểm của ASEAN về an ninh khu vực
Khi tham gia ARF, mỗi nước thành viên đều có mục đích của riêng mình.

Song trên tổng thể thì quan điểm về an ninh nói chung của các nước Đông Nam Á
đã dần được hiểu theo một nghĩa rộng nhất. Từ quan niệm an ninh truyền thống đến
“an ninh chung”, “hợp tác an ninh” và cuối cùng là “an ninh toàn diện”.
“An ninh toàn diện” có khái niệm rộng hơn, đó là cộng thêm an ninh ngoài
vấn đề quân sự. An ninh toàn diện thừa nhận tầm quan trọng của các lĩnh vực
khác như an ninh kinh tế, chính trị, môi trường, sự phồn vinh của nhân dân, an

18
ninh lương thực… An ninh trong khu vực sẽ có thể đạt được tốt nhất nếu như
quan hệ quân sự được nền ngoại giao có hiệu quả thúc đẩy, thương mại và các
cuộc tiếp xúc khác về các vấn đề phi quân sự trở thành lợi ích an ninh. Như vậy
trong khái niệm “an ninh toàn diện” này các mối quan hệ và mạng lưới ràng
buộc lẫn nhau được lập ra để giảm nguy cơ của sự căng thẳng và xung đột. Cơ
sở chủ yếu về cái nhìn lạc quan nói trên nằm trong quá trình đối thoại đã được
mở ra trong tuyên bố Xingapo năm 1992 mà sau đó được thực hiện bằng tổ chức
diễn đàn khu vực ARF.
1.2.3 Sự phát triển của ARF
* Cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn kết nạp thành viên
ARF sẽ tiến hành hội nghị hàng năm ngay sau Hội nghị bộ trưởng ASEAN
và sẽ vận động trên hai kênh: Kênh 1 (Track 1) do cơ quan chính phủ thực hiện;
Kênh 2 (Track 2) do các viện nghiên cứu chiến lược và các tổ chức phi chính
phủ thực hiện. Chủ tịch ARF là người điều phối mối quan hệ hoạt động giữa hai
kênh. Đến nay kênh 1 đã có những diễn đàn chính như: Nhóm hỗ trợ giữa hai kỳ
họp về xây dựng lòng tin (ISG – CBM); các cuộc họp giữa hai kỳ về tìm kiếm và
cứu hộ (ISM – SAR); về cứu trợ thiên tai (ISG – DR); về hoạt động giữ gìn hòa
bình (ISM – PKO) và các hoạt động liên quan như: Hội thảo gỡ mìn, đào tạo
huấn luyện viên. Kênh 2 chủ yếu là các cuộc hội thảo về các vấn đề liên quan
đến hòa bình và an ninh như: Không phổ biến vũ khí; ngoại giao phòng ngừa.
Những nước muốn trở thành thành viên của ARF cần phải đáp ứng những
tiêu chuẩn sau:

1. Phải là những quốc gia có chủ quyền.
2. Phải hợp tác nhằm đạt được những mục tiêu chính của ARF.
3. Tuân thủ và tôn trọng những tuyên bố và quyết định của diễn đàn.
4. Tất cả những thành viên ASEAN đương nhiên là thành viên của ARF.
5. Phải là những nước có thể ảnh hưởng trực tiếp đối với hòa bình và an
ninh khu vực.
ARF kiểm soát ở mức độ thích hợp số lượng thành viên để bảo đảm tính hiệu
quả và sự gia nhập của thành viên mới phải được sự đồng thuận của các bộ trưởng.
* Các giai đoạn phát triển
ARF phát triển tiệm tiến qua 3 giai đoạn, đó là: Xây dựng lòng tin; ngoại
giao phòng ngừa và tiến tới giải quyết xung đột. Giai đoạn một là bước khởi đầu
quan trọng, giai đoạn hai là sự tiếp tục tất nhiên của các biện pháp xây dựng

19
lòng tin. Cần phải tiến hành một số biện pháp xây dựng lòng tin mà các bên
tham gia ARF có thể khai thác và thực hiện được.
Các biện pháp xây dựng lòng tin gồm có:
Nguyên tắc :
1. Thành lập một loạt các nguyên tắc cơ bản để bảo đảm sự hiểu biết chung và
tiến tới các mối liên hệ quốc gia trong khu vực.
2. Thông qua các cách thức toàn diện về an ninh.
Cụ thể là:
3. Đối thoại về các nhận thức an ninh, bao gồm cả các tuyên bố tự nguyện về
quan điểm chính sách quốc phòng.
4. Các chính phủ tuyên bố về các ấn phẩm quốc phòng như sách trắng quốc
phòng hoặc các tài liệu tương tự cần thiết.
5. Tham gia hiệp ước đăng kí vũ khí thông thường của Liên hiệp quốc.
6. Tăng cường các cuộc tiếp xúc, kể cả các cuộc thăm viếng cấp cao.
7. Trao đổi các đoàn của các học viên quân sự, các trường huấn luyện.
8. Cử các quan sát viên đến các cuộc tập trận trên cơ sở tự nguyện.

9. Tổ chức các cuộc hội thảo hàng năm cho các nhân viên và sỹ quan quân đội
về vấn đề quốc tế chọn lọc.
Về giai đoạn ba, ASEAN cho rằng chưa thể khẳng định thiết lập được,
nhưng về lâu dài là phải thiết lập được những cơ chế để xây dựng ARF thành
một phương tiện tăng cường hòa bình và ổn định khu vực. Tiến triển của ARF ở
mức độ chấp nhận được đối với tất cả các bên tham gia. ARF sẽ không đi quá
nhanh đối với những nước muốn tiến triển từ từ và không quá chậm đối với
những nước muốn tiến triển nhanh.
* ARF qua một số hội nghị tiêu biểu
Từ khi thành lập đến nay, ARF đã trải qua 19 hội nghị. Các hội nghị được
tổ chức vào tháng 7 hàng năm ở các nước thành viên ASEAN. Số lượng thành
viên ban đầu là 18, hiện nay đã lên tới 27 nước.
ARF – 1 là hội nghị thành lập tổ chức diễn đàn tại Băng Cốc – Thái Lan
vào ngày 25 – 7 – 1994. Hội nghị khẳng định ARF là diễn đàn thích hợp để tiến
hành đối thoại về các vấn đề an ninh; nhất trí triệu tập hội nghị trên cơ sở hàng

20
năm và tán thành lấy các nguyên tắc của hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Đông
Nam Á (TAC) làm nguyên tắc chỉ đạo hoạt động.
Sau hội nghị thành lập, các Hội nghị tiếp theo đã đạt được một thỏa thuận
cụ thể về tiến trình của ARF, bàn những vấn đề có liên quan đến việc bảo đảm
an ninh khu vực như: Vấn đề biển Đông; vấn đề Campuchia; tình hình bán đảo
Triều Tiên, Kôsvô, Trung Đông, quan hệ Ấn Độ – Pakistan; về một khu vực
không vũ khí hạt nhân (SEANWFZ); cấm thử vũ khí hạt nhân (CTBT); thảo
luận tài liệu phương hướng (Concept paper); thành lập các nhóm hỗ trợ giữa hai
kỳ hội nghị. Các vấn đề an ninh mới như chống khủng bố, chống tội phạm
xuyên quốc gia, buôn lậu ma túy.
Hội nghị ARF – 2 tại Brunei ngày 30 – 7 – 1995 đã xác định hoạt động của
diễn đàn được triển khai qua ba giai đoạn là: Giai đoạn một – tiến hành các biện
pháp xây dựng lòng tin (CBMS); Giai đoạn hai – thực hiện ngoại giao phòng

ngừa (PD); Giai đoạn ba – giải quyết các xung đột. Hiên nay, ARF đang trong
tiến trình thực hiện giai đoạn hai, tuy nhiên vẫn tập trung cho các biện pháp
CBMS và đan xen giữa CBMS và PD, nhất là tăng cường vai trò của chủ tịch
ARF, trong khi một số nước muốn nhanh chóng triển khai hoạt động giải quyết
xung đột.
Về xây dựng lòng tin, ngay từ những hội nghị đầu tiên (cụ thể là hội nghị
ARF – 2), các biện pháp xây dựng lòng tin đã được ghi nhận cụ thể; và đến nay,
hàng loạt đề nghị về các biện pháp xây dựng lòng tin đã được đưa ra, trong đó
có nhiều nội dung đã và đang được thực hiện. Các nội dung chủ yếu tập trung
vào các vấn đề an ninh tại Đông Nam Á, Đông Bắc Á, sau mở rộng ra cả những
vấn đề phi quân sự có tác động đến môi trường an ninh khu vực. Chẳng hạn như
các vấn đề về: tình hình chung trên bán đảo Triều Tiên, Trung Đông,
Afghanistan, vấn đề hạt nhân ở Iran, diễn biến chính trị trong việc thực hiện lộ
trình dân chủ ở Mianma với việc phục hồi nền dân chủ và pháp quyền; hay trao
đổi về an ninh phi truyền thống như an ninh năng lượng và lương thực, biến đổi
khí hậu, di cư trái phép, buôn bán người và ma túy… Không chỉ những vấn đề
trong khu vực mà cả trên bình diện quốc tế cũng được đưa ra bàn nghị sự các bộ
trưởng ngoại giao và làm nóng các diễn đàn từ trước đến nay.
Bên cạnh đó, đi sâu vào các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia
ARF cũng khó có thể tránh khỏi những nhạy cảm, nghi ngại. Chẳng hạn, một
trong những yêu cầu của ARF là các thành viên phải công bố sách trắng quốc
phòng, trong đó nêu rõ quân số, chỉ tiêu quốc phòng, cơ cấu lực lượng vũ
trang… đã đặt một số nước, đặc biệt những nước có quốc phòng yếu trước nhiều

21
khó khăn. Mà nếu không công bố thì vi phạm tiêu chí của ARF, còn nếu công bố
thì họ sợ rằng sẽ có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Về ngoại giao phòng ngừa, sau sự kiện khủng bố ở Mỹ ngày 11 – 9 – 2001,
hợp tác chống khủng bố trở thành một trong những nội dung ưu tiên của ARF,
thúc đẩy ARF tiến nhanh sang giai đoạn hai. Tại hội nghị ARF làn thứ 10

(2003), các thành viên đã nhất trí chuyển từ hoạt động xây dựng lòng tin sang
ngoại giao phòng ngừa và bắt đầu đưa các nội dung thảo luận về ngoại giao
phòng ngừa vào chương trình nghị sự từ Hội nghị ARF – 12. Mặc dù vậy, các
thành viên vẫn tiếp tục nhấn mạnh xây dựng lòng tin sẽ tiếp tục đóng vai trò
then chốt, đồng thời hướng tới phát triển các biện pháp cụ thể trong vấn đề ngoại
giao phòng ngừa với mức độ phù hợp với mọi thành viên. Các hội thảo về vấn
đề ngoại giao phòng ngừa trao đổi khái niệm, nguyên tắc chủ đạo, phạm vi thực
hiện và biện pháp cụ thể đã được tiến hành ngay từ Hội nghị ARF – 4. Thực
hiện các hoạt động ngoại giao phòng ngừa được nhìn thấy rõ rệt ở ARF trong
các sự kiện như: xung đột Đông Timo năm 1999 (nhằm xác định độc lập chủ
quyền của quốc gia), hay tranh chấp biên giới Thái Lan – Campuchia, tranh
chấp lãnh thổ ở biển Đông còn đang trong vòng đàm phán.
Mặc dù vấn đề ngoại giao phòng ngừa đã được sử dụng phổ biến trong
khuôn khổ một số tổ chức khu vực từ sớm, nhưng thực hiện ngoại giao phòng
ngừa ở ARF được sử dụng chậm hơn so với các khu vực khác (như tổ chức an
ninh và hợp tác châu Âu – OSCE, tổ chức các nước châu Mỹ - OAS, Liên đoàn
A-Rập ở Trung Đông), song lại phát huy hiệu quả cao phù hợp với thời đại mới
với cơ chế mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển hơn, nhất là với một số khu vực có
nhiều sự khác biệt lớn giữa các thành viên như ASEAN. Cụ thể, trong khi đánh
giá về triển khai thực hiện ngoại giao phòng ngừa kể từ sau chiến tranh lạnh kết
thúc là bộc lộ những hạn chế nhất định như việc sử dụng tràn lan khái niệm
“phòng ngừa” như trào lưu gắn nó để điều chỉnh vũ trang (giải pháp mang tính
phòng ngừa), cứu trợ khẩn cấp (viện trợ nhân đạo mang tính phòng ngừa, thậm
chí cả với trừng phạt kinh tế, hay vấn đề thất bại ngoại giao thường bị để ý hơn
là những thành công của thực hiện ngoại giao phòng ngừa; thì các phương sách
trong thực hiện ngoại giao phòng ngừa của ASEAN xung quanh ARF với hệ
thống các nguyên tắc: đồng thuận, bình đẳng, có đi có lại, không đối đầu, thân
thiện, không can thiệp vào công việc nội bộ… dù được đánh giá là chậm chạp,
trì hoãn, bỏ lỡ nhiều cơ hội tuy nhiên lại thành công hơn cả trong việc cân bằng
lợi ích giữa tất cả các quốc gia. Từ đó, ARF dễ dàng tìm được tiếng nói chung

cho các vấn đề đưa ra hội nghị hơn là các cơ chế giải quyết riêng rẽ của mỗi
quốc gia. Không những thế, một khi ARF không phát huy được tầm nhìn của

×