Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

VAI TRÒ CỦA VIỆT KIỀU TẠI LÀO TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.45 KB, 38 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐỖ THỊ KIỀU





VAI TRÒ CỦA VIỆT KIỀU TẠI LÀO TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP GIAI ĐOẠN 1945 - 1954





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐỖ THỊ KIỀU





VAI TRÒ CỦA VIỆT KIỀU TẠI LÀO TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP GIAI ĐOẠN 1945 - 1954



CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ THẾ GIỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: Ths. Đinh Ngọc Ruẫn





SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa Sử -
Địa, Trường Đại Học Tây Bắc đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho

em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường cũng như trong thời
gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Đinh Ngọc Ruẫn đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, thực hiện khóa luận tốt
nghiệp này.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Trong thời gian thực hiện khóa luận này, do thời gian có hạn và còn nhiều
bỡ ngỡ, nên không thể tránh khởi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý
kiến của thầy, cô giáo và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn.
Người thực hiện
Đỗ Thị Kiều

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do tài chọn đề 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu, đóng góp của đề tài 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
3.3. Đóng góp của đề tài 3
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 3
4.1. Cơ sở tư liệu 3
4.2. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Cấu trúc của đề tài 4
NỘI DUNG
Chương 1. Quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Lào 5
1.1. Lịch sử hình thành 5

1.2. Vị thế của người Việt trong xã hội Lào 11
1.2.1. Bức tranh chung về cộng đồng người Việt ở Lào 11
1.2.2. Vị thế của cộng đồng người Việt Nam trong xã hội Lào 13
Chương 2. Vai trò của Việt kiều tại Lào trong cách mạng tháng Tám trong
những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1946 – 1947) 16
2.1 Khái quát về vai trò của Việt Kiều trong quá trình vận động tại Lào
(1930 – 1945) 16
2.2. Vai trò của Việt kiều tại Lào trong cách mạng tháng 8 – 1945 20
2.3. Vai trò của Việt kiều tại Lào từ sau cách mạng tháng 8 – 1945 đến 1947
27
KẾT LUẬN 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….34

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do tài chọn đề
Lào và Việt Nam là hai quốc gia láng giềng gần gũi, cùng chung sống lâu
đời trên bán đảo Đông Dương. Không giống như quan hệ giữa Việt Nam với các
nước khác, quan hệ giữa Việt Nam với Lào là quan hệ đặc biệt, sự đặc biệt ấy
không chỉ được tạo nên bởi quan hệ láng giềng hữu nghị vốn có mà còn được
tạo bởi quá trình đấu tranh cách mạng.
Từ cuối thế kỉ XIX hai dân tộc liên tiếp bị các thế lực đế quốc như Pháp,
Nhật Bản, Mĩ, với tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh thay nhau xâm lược và
thống trị. Cùng có chung hiểm họa mất nước, vì mục tiêu giành độc lập tự do
cho tổ quốc mình, suốt mấy thập kỉ qua hai dân tộc Việt Nam và Lào đoàn kết
gắn bó cùng chung chiến hào đánh Pháp, Mĩ hết sức anh dũng và gian khổ, cuối
cùng đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Mối quan hệ đó được tập thể lãnh đạo hai nước trân trọng gìn giữ và bồi
đắp ngày càng sâu đậm. Sở dĩ có được mối quan hệ tốt đẹp này chúng ta cũng
cần phải ghi nhận vai trò to lớn của một bộ phận cộng đồng người Việt tại Lào.

Họ là những người đã làm ăn qua nhiều thế hệ, và chung sống chan hòa với
người Lào từ nhiều đời nay. Vì vậy, ngay khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược 3
nước Đông dương trong đó có Lào thì những người Việt sống trên đất nước Lào
đã lần lượt ra tiền tuyến chiến đấu chống xâm lược của thực dân Pháp coi nơi
đây là quê hương thứ hai thân thương của mình.
Chính phủ Lào đã ghi nhận công lao và đã có nhiều khen thưởng đối với tổ
chức hội Việt kiều này. Vì vậy nhân dân Lào đến nay vẫn thường gọi người Việt
là “người anh em”. Những người luôn kề vai sát cánh cùng với nhân dân Lào
chống các âm mưu chính sách phá hoại của thực dân Pháp. Do đó việc nghiên
cứu về vai trò của người Việt ở Lào có vai trò hết sức quan trọng. Xuất phát từ
lý do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Vai trò của Việt kiều tại Lào trong
kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 – 1954”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vai trò của Việt kiều Lào trong kháng chiến chống Pháp là đề tài thu hút
được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu, các học giả, giáo viên và sinh viên.
Chính vì vậy đã có rất nhiều công trình, bài báo viết về vấn đề này. Tuy nhiên, ở
mỗi góc độ khía cạnh khác nhau các nhà nghiên cứu lại có cách nhìn khác nhau.
Trong cuốn “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và phương
pháp dạy học lịch sử” do thầy Phạm Văn Lực làm chủ biên cũng đề cập đến liên

2
minh chiến đấu Lào – Việt để nói về sự giúp đỡ trong chiến đấu của hai nước
với nhau, nhưng do số lượng có hạn nên chưa đề cập nhiều đến vai trò của Việt
kiều Lào.
Hay trong cuốn “Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam
– Lào” do PGS.TS Phạm Đức Thành làm chủ biên, xb 2008 đã đề cập đến vai
trò của Việt kiều tại Lào nhưng mới chỉ trong toàn bộ các lĩnh vực chính trị, an
ninh, kinh tế mà chưa đi sâu vào tìm hiểu vai trò trong kháng chiến chống Pháp.
Trong cuốn “Lịch sử quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp tại Lào” của bộ quốc phòng viện lịch sử quân sự Việt

Nam, Nxb Quân Đội nhân dân Hà Nội, 2002 đã đề cập đế các lực lượng vũ
trang Việt kiều trong cuộc khởi nghĩa tháng Tám mà chưa phải là toàn bộ quá
trình chống Pháp từ 1945 – 1954.
Trong cuốn “Việt kiều Lào – Thái với quê hương” do Trần Đình Lưu chủ biên,
nhà xuất bản chính trị Quốc gia, (2004) cũng viết về vai trò của Việt kiều tại Lào
nhưng chưa thật đầy đủ và sâu sắc.
Trần Xuân Cầu “Cách Mạng tháng Tám ở Lào” cũng đã đề cập đến vai trò của
cộng đồng người Việt ở Lào tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định và
khái quát mà chưa thực sự đi sâu tìm hiểu vai trò của Việt Kiều trong cả quá trình
kháng chiến chống Pháp.
Vấn đề vai trò của Việt Kiều tại Lào trong kháng chiến chống Pháp (1945- -
1954) cũng được đề cập tới trong cuốn sách “Lịch sử Lào tập 1” của Nguyễn Hùng
Phi – TS Buasi Chalonone, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2006). Tuy nhiên, do
đây là cuốn sách viết về thông sử nước Lào, nên vấn đề trên được đề cập ở mức độ
khái quát nhất.
Ngoài ra, trong cuốn “lịch sử Lào” của tập thể các tác giả trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 1 do Lương Ninh chủ biên, xuất bản 1991. Do tính chất cuốn sách viết
về lịch sử Lào ở mức độ khái quát nên vấn đề vai trò của Việt Kiều Lào không phải
hướng khai thác chủ yếu.
Vấn đề vai trò của Việt Kiều Lào còn được đề cập trong một số cuốn sách khác
như:
“Lược sử Lào” của tập thể các tác giả: Đặng Bích Hà, Phạm Nguyên
Long…Nxb Văn hoá thông tin 1978.
“Lịch sử thế giới hiện đại” do Đỗ Thanh Bình làm chủ biên cũng có nhắc tới
vai trò của Việt Kiều Lào, tuy nhiên đây là cuốn sách nói đến quá trình phát triển của
lịch sử thế giới vì vậy vấn đề về Lào chỉ được nhắc đến sơ lược.

3
Các cuốn sách trên đã có đề cập đến vai trò của Việt Kiều Lào ở các mức
độ khác nhau. Tuy nhiên nó mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhất hoặc

trong mối quan hệ chung với lịch sử dân tộc. Vì vậy,tôi quyết địnhlựa chọn vấn
đề “Vai trò của Việt kiều tại Lào trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945
– 1954” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu, đóng góp của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tập trung vào việc tìm hiểu vai trò của Việt kiều ở Lào trong
khởi nghĩa giành chính quyền từ tháng Tám đến tháng Mười và trong những
năm đầu kháng chiến chống Pháp
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: tôi tập trung nghiên cứu để làm nổi bật lên vai trò của Việt
kiều tại Lào trong kháng chiến chống Pháp.
Về thời gian: Khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám và
trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
3.3. Đóng góp của đề tài
Từ kết quả nghiên cứu được đề tài có những đóng góp bước đầu sau:
Thấy rõ được phần nào vai trò của cộng đồng người Việt tại Lào trong
kháng chiến chống Pháp
Góp phần làm phong phú hơn tư liệu về mối quan hệ giữa Việt Nam – Lào.
Phục vụ cho quá trình nghiên cứu, học tập và giảng dạy về lịch sử thế giới.
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tư liệu
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu sau:
Sách: Sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt tại Lào. Việt
Kiều Lào – Thái với quê hương, cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ
Việt Nam – Lào. Lịch sử thế giới hiện đại, quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào
Những bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố trên
các tạp chí nghiên cứu lịch sử. Trần Xuân Cầu “Cách mạng tháng Tám ở Lào
năm 1945, tạp chí nghiên cứu lịch sử số 165, 1975…
Ngoài ra còn có các bài báo cáo nghiên cứu của các anh chị và các bạn sinh
viên làm tài liệu tham khảo.


4
Tất cả những tài liệu tham khảo trên đều là nguồn tài liệu quý báu cho việc
nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Do tính chất của đề tài nên tôi đã sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nghiên cứu các vấn
đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu.
Phương pháp cụ thể: vận dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học
lịch sử và phương pháp logic, cùng với việc phân loại và so sánh, đối chiếu các
sự kiện, đánh giá nhìn nhận vấn đề.

5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu thành 2
chương.
Chương 1. Quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Lào.
Chương 2. Vai trò của Việt Kiều tại Lào trong Cách mạng tháng Tám
và trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1946 – 1947)

5
NỘI DUNG
Chương 1. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
VIỆT Ở LÀO
1.1. Lịch sử hình thành
Trong lịch sử di cư của người Việt trên phạm vi bán đảo Trung Ấn thì việc
người Việt nhập cư vào sinh sống ở Lào có từ rất sớm, khoảng từ giữa thế kỉ XV
và kéo dài cho đến tận ngày nay. Không giống với các nước láng giềng khác, từ
xa xưa Lào và Việt Nam đã có mối quan hệ đặc biệt, trong đó yếu tố địa lý đóng
vai trò quan trọng, đã tác động đến mối quan hệ qua lại của nhân dân hai nước,
nhất là diễn ra ở dọc biên giới miền núi Tây bắc Việt Nam với các tỉnh của Lào

như Phôngsaly xuống đến Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Khăm Muội thậm chí tiến
sâu vào tận Luông Phabang, kéo dài đến vùng núi Thanh Hóa và Nghệ An của
Việt Nam. Điều kiện địa lý thuận lợi này chính là yếu tố quan trọng dẫn đến sự
hiện diện của cộng đồng người Việt trên đất nước Lào từ rất sớm. Tất nhiên sự
hiện diện của cộng đồng người Việt ở vùng biên giới nói trên vào thời kì đó diễn
ra một cách tự nhiên, đơn thuần là sự giao lưu qua lại giữa cư dân vùng biên
giới, hoàn toàn chưa có liên quan gì mối quan hệ bang giao giữa hai vương triều
phong kiến Việt Nam và Lào. Lực đẩy từ phía Việt Nam hay lực hút từ phía Lào
không phải là vấn đề đặt ra đối với họ, bởi lẽ đương thời các vùng như Sầm
Nưa, Xiêng Khoảng, Khăm Muội với Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa, Nghệ
An, nhân dân hai dân tộc thường xuyên đi lại làm ăn buôn bán, thậm chí định cư
tạm thời hoặc ở hẳn đất Lào, đất Việt là chuyện thường nhật. Họ tự coi mình vừa
là lưu dân vừa là người bản địa, khác nhau chỉ là tính tộc người: người Lào và
người keo. Mối quan hệ này cho đến nay vẫn còn lại những dấu tích qua hiện
tượng huyết thống họ hàng vẫn còn đọng lại trong vài gia đình ở các bản Mương
Qua (Nghệ An), bản Huội Chi ( huyện Tương Dương), bản Nặm Cắn (Kỳ Sơn),
bản Noongbua (Điện Biên, Lai Châu). Những nơi đây ngày nay bà con vẫn
thương xuyên qua lại hỏi thăm nhau.
Sau này khi Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp hình thành thì thân phận
của cộng đồng người Việt ở Lào mới có sự thay đổi và từ sau năm 1919 (sau
chiến tranh thế giới thứ nhất) những người Việt lúc đó sống trên đất Lào mới
thực sự trở thành kiều dân của vương quốc Lào.
Theo sử sách Việt Nam, những cư dân Việt Nam đầu tiên định cư ở Lào
được bắt đầu từ Vương triều Lê. Đầu thế kỉ XV. Những ngày đầu phất cờ khởi
nghĩa ở Lam Sơn, trong số nghĩa quân của Lê Lợi có một số tướng lĩnh thông
thạo tiếng Lào và các con đường sang Lào từ căn cứ Lam Sơn lại hết sức thuận

6
lợi nên Lê Lợi đã sai các viên tướng đó sang Lào mua voi và vũ khí chuẩn bị
cho cuộc khởi nghĩa. Vua Lào hết lòng Việt Nam còn ghi rõ những người Việt

Nam thế hệ sau đến Lào là những binh lính củ vua Lê Thánh Tông hai lần tấn
công sang Lào.
Vua Lê Thánh Tông đã hai lần thân trinh cầm quân sang Lào. Lần thứ nhất
vào tháng 6 năm 1479. trong lần tấn công này do phía Lào không chuẩn bị lực
lượng lên quân đội nhà Lê đã nhanh chóng tiến vào thủ đô Luông Phabang và
truy đuổi vua Lào chạy đến biên giới Myanma rồi mới trở về. Lần thứ hai vào
tháng 10 cùng năm đó, vua Lê Thánh Tông lại tập hợp quân mã tiến sang Lào.
Nhưng lần này, các chậu Mường địa phương của Lào đã biết trước ý đồ của vua
Lê Thánh Tông nên đã tập hợp nhau lại để chống đỡ. Do quân lính đi xa mệt mỏi
lại gặp phải quân đội các chậu Mương Lào chống đỡ nên quân đội nhà Lê lần này
không vào được Luông Phabang. Vua Lê bèn sai rút quân về. lần này quân đội
nhà Lê một số bị tử trận, một số bị thương , bị bắt làm tù binh. Nhiều người trong
số tù binh Việt đã được người Lào chạy chữa vết thương và được phép ở lại Lào
làm ăn sinh sống. Đó có thể là những người Việt đầu tiên định cư tại Lào. Những
người này đã lấy vợ Lào và hòa nhập vào cộng đồng của người Lào.
Sau khi lên ngôi (thế kỉ XVIII), vua Quang Trung đã sai sứ giả sang Lào
tìm sự hợp tác với Lào chống lại Nguyễn Ánh. Nước Lào thời kì này đang nằm
dưới sự thống trị của vương quốc Xiêm. Vua Xiêm lại đang giúp Nguyễn Ánh
chống lại Tây Sơn nên vua Lào không giám có quan hệ với Tây Sơn. Vua Lào
đã bắt giữ đoàn sứ giả Tây Sơn cung tất cả cờ trống họ mang theo đưa sang cho
vua Xiêm cầm tù. Trước tình hình đó, vua Quang Trung đã cử đốc trấn Nghệ
An Trần Quang Diệu đem 3 vạn quân đi dẹp phía Tây. Mục đích của chuyến
hành quân này không chỉ nhằm vào Lào mà con nhằm răn đe quân Xiêm đang
đóng ở Lào.
Với mục đích đó tương Trần Quang Diệu đã tiến quân sang Lào. Quân đội
Tây Sơn nhanh chóng tiến vào Viêng Chăn khiến cho vua Lào phải bỏ chạy sang
Xiêm. Quân đội Tây Sơn truy kích đến bờ sông Mê Kông. Nhận thấy nhiệm vụ
đã hoàn thành họ bèn rút về. Việc Tây Sơn đưa quân sang Lào đã giúp cho nhân
dân vùng biên giới và nhân dân Mương Phuôn thoát khỏi sự đô hộ của quân
Xiêm. Người Mương Phuôn, Xiêng Khoảng đã làm một bài vè ca ngợi Tây Sơn.

Sau khi vua Quang Trung qua đời, Nguyễn Ánh ráo riết tìm mọi cách
chống lại nhà Tây Sơn. Vua Lào đã cho sứ giả đến Huế xin được đưa quân đội
từ thượng Lào xuống đanh Tây Sơn, nhưng Nguyễn Ánh không chấp nhận. Sau
khi dẹp được phong trào Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đền ơn giúp đỡ của vua Lào

7
bằng cách cử người Việt đến Luông Phabang giúp vua Lào xây dựng hoàng
cung Lào. Sự kiện này không được ghi vào chính sử của nhà Nguyễn. Nhưng
hậu duệ của những người Việt đến Lào vào thời vua Gia Long, sinh sống ở
Luông Phabang đã kể cho con cháu của họ từ đời này sang đời khác.
Cuối vương triều Nguyễn, nhất là thời trị vì của vua Tự Đức, khi mà những
đại diện của chủ nghĩa tư bản phương Tây đã có mặt ở nhiều nước Đông Nam
Á, trong đó có Việt Nam thì các tu sĩ dòng thiên chúa giáo đã đến truyền đạo tại
các vùng ven biển miền trung của Việt Nam.
Với chính sách “bế quan tỏa cảng”, triều đình nhà Nguyễn đã ra sức cấm
đoán người Việt đi theo tôn giáo của người phương Tây. Không chỉ cấm đoán,
Nhà Nguyễn còn đàn áp dã man những người theo công giáo với chính sách
“bình tây sát đạo”. Trước hành động tàn bạo của vua quan triều Nguyễn, nhiều
người theo đạo thiên chúa ở những vùng ven biển miền trung Việt Nam đã tìm
cách chạy trốn sang Lào. Số cư dân Việt sang Lào thời kì này gồm 5000 người
trong số đó có 1000 người là giáo dân chủ yếu ra đi từ vùng Thừa thiên Huế,
Quảng trị.
Ngay khi thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
phong trào kháng Pháp đã lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam. Đó là phong trào
Cần Vương của các sĩ phu yêu nước: phong trào Đông Du, do Phan Bội Châu
lãnh đạo: phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh lãnh đạo. Các phong trào
kháng Pháp đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Sau khi thất bại rất nhiều người
tham gia kháng chiến chống Pháp đã mang gia đình chạy sang Lào. Trong đợt di
dân sang Lào này chủ yếu là người từ các tỉnh miền trung như Nghệ An và Hà
Tĩnh, và một trong những điểm đến định cư của họ là bản Xiềng Vang, huyện

Noongbuooc, tỉnh Khăm Muội, làng này nằm bên bờ sông Mê Kông.
Bản Xiềng Vang được thành lập vào năm 1982. Ngay khi thành lập bản này
đã có 400 gia đình người Việt và không có gia đình theo thiên chúa giáo sống
xen cài. Đây là địa bàn hoạt động của những người cách mạng Việt Nam. Những
người yêu nước ở Việt Nam bị thực dân Pháp truy lùng cũng tìm đường đến
Xiềng Vang. Hiện nay ở Xiềng Vang vẫn còn dấu tích nhiều hầm bí mật nuôi
dấu cán bộ. Xiềng Vang cũng là địa phương có nhiều đóng góp cho thắng lợi
của cách mạng Lào và được coi là khởi nguồn thắng lợi của cách mạng Lào. Sau
này, thực dân Pháp đã cho một số gia đình theo đạo thiên chúa giáo đến sinh
sống ở Xiềng Vang nhằm “làm loãng” tính cách mạng của Xiềng Vang. Sau
ngày giải phóng, nhân dân Xiềng Vang đã chuyển đi nơi khác làm ăn và ngày

8
nay làng này chỉ còn khoảng 60 gia đình người Việt sinh sống, trong đó có một
số gia đình sống nhiều đời ở đây.
Chạy tị nạn sang Lào sau thất bại của các cuộc kháng Pháp không chỉ có
những người yêu nước trong giới bình dân mà còn có cả một số người trong
Hoàng tộc của vương triều nhà Nguyễn đã tham gia các phong trào Cần Vương
do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết lãnh đạo.
Như vậy có thể nói rằng người Việt có mặt ở Lào ngay từ thời nhà Lê rồi nhà
Nguyễn và tăng lên đáng kể là từ khi thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam. Nhưng phải thấy rằng số lượng người Việt đến định cư ở Lào tăng
mạnh là từ khi thực dân Pháp bắt tay vào khai thác xứ Đông Dương.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc thực dân Pháp ráo riết khai thác
thuộc địa ở 3 nước Đông Dương với mục tiêu chính là biến những nước này trở
thành nơi cung cấp nguồn nguyên liệu thiếu hụt của nước Pháp, và là nơi cung
cấp nguồn nhân lực cho một số nước thuộc địa khác của Pháp lúc bấy giờ như
đảo New Hebrides… bởi chính sách khai thác thuộc địa ngày càng khốc liệt, tàn
bạo của thực dân Pháp đã đẩy số đông nông dân và thị dân nghèo ở các tỉnh
thuộc đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ của Việt Nam rơi vào tình trạng bần cùng

và đói nghèo. Lối thoát duy nhất lúc đó là phải cam phận là dân mộ phu cho các
ông chủ đồn điền, hoặc làm công nhân trong các công trình đường xá, hầm mở
của Pháp mà lúc đó đang ở trong giai đoạn khởi công khẩn trương nhất. Nhiều
người đã trở thành lớp công nhân lục lộ trong kế hoạch mở các con đường chiến
lược từ phía Nam sang Lào nhằm phục vụ cho chương trình khai thác thuộc địa
và những cuộc hành quân đàn áp các cuộc khởi nghĩa đã không ngừng xảy ra
của cả người Lào và người Việt. Những tuyến đường lịch sử đấy đã hình thành
đồng thời với cuộc di cư của người Việt sang Lào. Đó là các tuyến đường: “Sài
Gòn – Pkratie – Pawcsse” “đường số 13”, “số 2 Đông Hà – Savanakhet”.
Hàng chục năm sau đó, do nhiều biến cố lịch sử, đã đưa đẩy những người
công nhân Việt trên những tuyến đường này tản ra làm ăn sinh sống và định cư
dân ở hầu hết các huyện lị và thị xã mới phát triển suốt dọc sông Mê Kông từ
Nam Lào lên tận thủ đô Viêng Chăn.
Cũng từ năm 1919 trở đi quá trình khai thác thuộc địa trên toàn cõi Đông
Dương, thực dân Pháp tiến hành khai thác các mỏ khoáng sản quý có trữ lượng
cao ở Lào như thiếc, chì, trong quá trình khai thác các mỏ thiếc ở Phongtu và
Bofneng, người Pháp đã cho xây dựng một số nhà máy với trang thiết bị thô sơ.
Tuy nhiên các cơ sở đó thu hút được một số lượng đáng kể người Việt sang Lào
làm việc. Những người công nhân đó đều do các ông chủ người Pháp tuyển mộ

9
từ Việt Nam sang. Người Pháp đánh giá tay nghề và sự cần cù của công nhân
người Việt cao hơn người Lào.
Đợt nhập cư lớn tiếp theo là vào những năm 1939 đến 1945 nhiều người
Việt đã chọn khu vực miền trung giữa Xavanakhet, Khăm Muội, và một số phần
nam cao nguyên Boloven làm nơi định cư chủ yếu với số lượng khoảng 39.500
người. Điều này thể hiện sức hấp dẫn của nước Lào vào thời kì khủng hoảng
kinh tế toàn cầu sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đồng thời đó còn là kết
quả chính sách di dời người Việt từ khu vực đồng Bằng Bắc Bộ Việt Nam sang
Lào trong chiến lược khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương.

Ngoại trừ những người chạy sang định cư ở Lào bằng con đường tự do hay
chạy trốn sự trừng phạt của chính quyền thực dân Pháp, còn hầu hết những
người sang Lào bằng con đường mộ phu hoặc do thuyên chuyển sang Lào làm
việc đều phải nộp thuế xuất cư cho nhà nước bảo hộ.
Sự nhập cư của cư dân người Việt vào Lào nói trên đã làm thay đổi diện
mạo dân cư tại hầu hết các thành phố, thị xã như Savanakhet, Thà Khẹt, Xiêng
Khoảng, Viên Chăn. Đương thời, ngoại trừ cố đô Luông Phabang, ở những địa
danh nêu trên, người Việt là cộng đồng thị dân đông đúc hơn cả cho dù người
Lào vẫn là chủ thể của đất nước Lào.
Phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương thay thế người Pháp, ra sức đàn áp
không chỉ người Lào mà còn tấn công vào cộng đồng người Việt trên toàn nước
Lào. Chính trong bối cảnh đó, Lực lượng liên minh Lào – Việt được thành lập,
đơn vị tiêu biểu cho lực lượng đó là bộ đội Việt kiều giải phóng quân Viên Chăn
mà ngày nay âm vang của nó vẫn còn được duy trì dưới hình thức “ban liên lạc
bạn chiến đấu đoàn 83”. Lực lượng chủ chốt của đơn vị quân đội này là lớp
thanh niên và trung niên trai tráng người Việt, cùng một số thanh niên Việt kiều
từ Thái Lan sang phối hợp, đã cùng quân đội Lào kháng chiến chống Pháp trong
âm mưu tái chiếm Đông Dương năm 1946, như vậy ở thời điểm này số lượng
Việt kiều có tăng lên.
Tuy nhiên đây cũng chính là năm có nhiều thay đổi cơ bản số lượng Việt
kiều ở Lào. Bởi lẽ tháng 3 năm 1946 khi thực dân Pháp mở cuộc hành quân lớn
càn quét đầu tiên vào thị xã Thà Khẹt, tiếp theo là hai tỉnh Savanakhet và Viên
Chăn khiền hầu hết Việt kiều ở những nơi này phải cấp tập tản cư sang vùng đất
Isản của Thái Lan mà sau đó nhiều người đã miễn cưỡng ở lại vùng đất này, trở
thành Việt kiều trên đất Thái Lan.
Kể từ đây mật độ dân số của Việt kiều Lào ở các đô thị của Lào có sự thay
đổi, thị dân ở phố chợ, thợ thuyền và cả viên chức người Việt trong các công sở

10
giảm rõ rệt. Tuy nhiên còn số người Việt sống ở các vùng nông thôn trước đây

nay dời nông thôn trở vè sống ở các thành thị, bắt đầu cuộc sống như đồng bào
họ trước đây. Hòa bình lập lại, từ năm 1955 đến những năm 60 của thế kỉ trước,
một số không nhiều Việt kiều, những người đã từng tản cư sang Thái Lan trước
đó, trở lại Lào làm ăn buôn bán và cũng có một số người Việt ở miền Nam Việt
Nam qua cửa khẩu Lao Bảo sang Lào kiếm sống. Do cuộc sống khá thuận lợi,
nhiều người đã ở lại Lào. Những người làm ăn khá giả trong số này do không
hiểu đường lối của chính phủ cách mạng Lào nên sau năm 1975, đã chạy sang
nước thứ ba định cư.
Một hiện tượng nữa cũng cần phải thấy là vào những năm sau giải phóng
(1975), cư dân Việt Nam sống dọc biên giới Việt – Lào gặp nhiều khó khăn
trong khi đó Thái Lan lại thi hành nhiều chính sách cởi mở, tung hàng hóa Thái
xâm nhập vào thị trường Lào nên lúc này đời sống của cư dân Lào lúc này dễ
chịu hơn Việt rất nhiều. Do lực hút đó mà làn sóng di dân Việt trong thời gian
này tăng lên khá mạnh, nhiều người muốn vượt biên sang Lào. Một số người đã
đi sâu vào trong lãnh thổ Lào tìm kiếm công việc làm ăn mà trong đó hấp dẫn
nhất là nghề làm thương nhân mua bán, mua bán vận chuyển hàng hóa Thái về
Việt Nam. Từ Việt Nam, quần bò, áo phông, hàng mĩ phẩm nhãn hiệu Thái Lan
lại được chuyển qua Liên Xô và Đông Âu để biến thành nồi hầm, quạt tai voi,
bàn là, nồi áp xuất… trong hoàn cảnh đó, một số người không ít đã định cư làm
ăn sinh sống lâu dài ở Lào.
Cư dân sống dọc biên giới hai nước thường xuyên hỗ trợ nhau và có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Vấn đề di dân tự do và kết hôn không dã thú đã tồn
tại nhiều năm do đặc điểm dân tộc, thân thuộc lâu đời giữa nhân dân hai biên
giới. có những vùng cư dân sinh sống không phân biệt đâu là Việt đâu là Lào,
thậm chí có những gia đình người Lào còn gửi con của mình sang bên Việt Nam
nhờ bà con người Việt nuôi hộ. Hiện nay, mặc dù hai bên Việt Nam và Lào đã
tích cực ngăn chặn số người nhập cư trái phép nhưng tình trạng đó không những
không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng. Tính đến năm 1994, số cư dân Việt
Nam sang Lào sinh sống dọc theo biên giới ngày càng nhiều. Năm 1997, phía
Lào thông báo cho Việt Nam có 104 hộ với 868 người Việt Nam di cư trái phép

sang Lào. Một trong số đám cư dân này đã bị Lào trả về Việt Nam triển tinh
thần phù hợp với tập quán của hai nước. Năm 2004, tình trạng xâm cư lại tái
diễn, phía Việt Nam có 57 hộ với 355 người Việt Nam đã tự di cư sang Lào,
phía Lào đã trao trả cho Việt Nam 27 hộ với 151 khẩu.

11
Những năm gần đây sự qua lại giữa Việt Nam và Lào qua lại càng nhộn
nhịp hơn, nhất là khu vực đường vành đai Đông Dương với các dự án hợp tác
phát triển kinh tế “ba quốc gia mười thành phố” người việt sang Lào bằng nhiều
con đường: Thăm thân nhân rồi tìm cách ở lại sinh sống ở Lào luôn; sang Lào
theo giấy thông hành của hai tỉnh kết nghĩa, nhưng tiến sâu vào nội địa, hết hạn
giấy thông hành lại xin gia hạn rồi tìm cách ở lại Lào; Tự do sang Lào tìm kiếm
công ăn việc làm, buôn bán hoặc sang du lịch rồi ở lại Lào không về; Một số
vượt biên trái phép sang Lào do bị phạm tội ở Việt Nam.
Không kể các loại người nhập cư trái phép nêu trên, luồng người Việt đến
Lào vào thời gian này chủ yếu đi theo các công trình đầu tư hoặc hợp tác của cả
hai nước hoặc của các doanh nghiệp Lào. Hết hợp đồng một số ở lại, một số về
nước quay trở về rồi lại tìm cách trở lại Lào làm ăn sinh sống. Một số doanh
nghiệp việt nam đã đưa công nhân sang công trình làm, khi kết thúc công trình
hoặc vì lý do nào đó doanh nghiệp phải rút đi, nhưng đại bộ phận công nhân ở
lại Lào làm ăn sinh sống.
Xin lấy ví dụ về sự hiện diện của các công ty Việt Nam trên đất nước Lào.
Từ cuối năm 2004, Chính phủ Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã cấp phép
đầu tư cho 3 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam gồm : các công ty cổ phần
cao su Việt Nam – Lào trồng 10.000 ha cao su, số vốn đầu tư là 22 triệu USD,
công ty trách nhiệm hữu hạn cao su Đắc Lắc trồng 10.000 ha cao su, vốn đầu tư
là 30 triệu USD, công ty nông nghiệp Sài Gòn – Pắcsế đầu tư sản xuất giống ngô
có quy mô diện tích 1.000 ha với số vốn đầu tư 1,5 triệu USD… Ngày 5/4/2004
tại huyện Đắc Chưng tỉnh Seekong đã tiến hành lễ khởi công công trình thủy
điện Seekong III Với tổng số vốn đầu tư là 273 triệu USD theo hình thức BOT

do công ty cổ phần đầu tư và phát triển Việt – Lào đầu tư.
Thực hiện những dự án hợp tác đầu tư của Việt Nam tại Lào là hàng nghìn
công nhân Việt Nam đến sống và làm việc tại Lào. Chính họ là những người góp
phần không nhỏ vào việc tăng trưởng kinh tế của Lào. Nhiều người trong số họ
đã ở lại làm ăn sinh sống trên đất Lào, và những người công nhân đó là những
bộ phận hợp thành cộng đồng Việt tại Lào.
Như vậy vì lý do này hay lý do khác thì người Việt Nam từ xa xưa đã tìm
sang Lào làm ăn sinh sống ở đây, dần hình thành lên những cộng đồng người
Việt, góp phần vào sự phát triển của Lào và quá trình đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược ở Lào.
1.2. Vị thế của người Việt trong xã hội Lào
1.2.1. Bức tranh chung về cộng đồng người Việt ở Lào

12
a. Số lượng người Việt ở Lào
Căn cứ chung vào cộng đồng người Việt ở Lào, căn cứ vào thành phần hợp
thành của cộng đồng người Lào hiện nay, chúng ta có thể bước đầu đưa ra
những số liệu như sau:
Bộ phận Việt kiều (những người định cư lâu dài ở Lào nhưng chưa có quốc
tịch Lào). Theo số liệu của trung tâm Thống kê Quốc gia Lào, năm 2005, tổng
số Việt kiều là 8.795 người, chiếm 0,16% tổng dân số Lào. Theo thống kê từ 10
tỉnh hội cộng đồng người Việt ở Lào, số người việt ở 10 tỉnh là khoảng 15.210
người cộng với số Việt kiều ở 8 tỉnh chưa có tổ chức hội thì Việt kiều ở Lào là
khoảng 20.000 người [10,42].
Bộ phận người Lào gốc Việt. các tài liệu của Lào không nói đến các bộ
phận này vì họ đã là người Lào và nằm trong tổng dân số nước Lào. Căn cứ vào
người Việt đã nhập quốc tịch nào thể hiện qua phiếu điều tra của 3 tỉnh “40%”,
chúng tôi đã ước tính số lượng người Việt đã nhập quốc tịch Lào cũng có thể
tương đương với số Việt kiều ở Lào “khoảng 20.000 người Lào gốc Việt”
[10,43].

Bộ phận thứ ba chủ yếu là những người mới đến Lào trong những năm gần
đây với nhiều nhiều hình thức khác nhau, hết sức phức tạp về loại hình. Nhóm
này ước tính vào khoảng 10.000 người [10,43].
Như vậy với cách tính toán trên thì cộng đồng người Việt ở Lào hiện nay
vào khoảng 50.000 người. Tôi xin nói rõ rằng đó là một con số ước đoán. Để có
con số chính xác về cộng đồng người Việt tại Lào chúng ta phải tiến hành các
cuộc điều tra dân số chi tiết và cụ thể hơn trong một công trình khoa học khác.
Như vậy nếu so số lượng cộng đồng người việt ở Lào với dân số Lào thì
người Việt ở Lào chỉ chiếm 1 % dân số; Còn nếu chỉ tính đến thành phần Việt
kiều thì tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều khoảng 0,4% dân số.
b. Thời gian định cư của cộng đồng người Việt ở Lào
Qua điều tra ở 3 tỉnh ở Lào, thời gian định cư của người Việt ở 3 tỉnh đó
được tính theo cách chia thế hệ. Người Việt đã sinh sống ở Lào từ 4 – 5 thế hệ là
dông nhất, chiếm khoảng 55,14%. Đây là những người Việt đến Lào vào những
thập niên đầu thế kỉ XX. Thứ đến là những người Việt đã sinh sống ở Lào 3 đời,
chiếm 24,53%. Đay là những người Việt đến Lào vào thời kì chiến tranh ở Đông
Dương. Cuối cùng là người Việt mới chỉ sống ở Lào từ một đến hai đời. chiếm
17,47%. Đây là những người Việt đến Lào từ sau năm 1975 đến nay [10,45].

13
Những người Việt sống ở Lào từ 3, 4 đến 5 đời đã hòa nhập vào xã hội
Lào, có cuộc sống ổn định. Về cơ bản họ đã nhập quốc tịch Lào, trở thành người
Lào. Một số vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, được gọi là Việt kiều. Những người
mới ở Lào từ hai đời trở xuống phần lớn cuộc sống thật chưa ổn định.
c. Nguyên quán của cộng đồng người Việt ở Lào
Theo điều tra tại ba tỉnh Viên Chăn, Luông Phabang, Chămpasắc cho thấy
nguyên quán gốc của người Việt thuộc 3 tỉnh này đến từ 34 tỉnh và thành phố
của Việt Nam. Trong đó nhiều nhất là Quảng Bình có 83 hộ gia đình, chiếm
24.9%, thứ đến là Ninh Bình có 37 hộ gia đình , chiếm 11,1%; Huế có 26 hộ gia
đình chiếm 7.8%; Nam định có 23 hộ chiếm 6.9%; Nghệ An có 19 hộ gia đình

chiếm 5.8%; Hà Nội có 13 hộ gia đình chiếm 3.9%; Thái Bình có 12 hộ gia đình
chiếm 3,6% Hà Đông có 10 hộ gia đình chiếm 3%; Sơn Tây có 6 hộ gia đình
chiếm 1.8%; Quảng Trị có 9 hộ gia đình chiếm 2,7%; Hải Phòng có 9 hộ gia
đình chiếm 2,4%; các địa phương khác có một vài hộ gia đình. Như vậy qua số
liệu ta thấy người Việt ở Lào chủ yếu từ các tỉnh miền trung Việt Nam. Sở dĩ có
hiện tượng đó một phần vì các tỉnh miền trung đều nghèo, đói và còn vì vùng
này có nhiều đường giao thông thuận lợi giữa hai nước [10,48].
1.2.2. Vị thế của cộng đồng người Việt Nam trong xã hội Lào
a. Người Việt đã nhập quốc tịch Lào
Về cơ bản những người đã nhập quốc tịch Lào có quyền lợi và nghĩa vụ
đầy đủ như người Lào. Họ được làm tất cả mọi ngành nghề như người Lào,
được quyền mua bán bất động sản như nhà cửa, đất đai, xe cộ và có giấy phép
kinh doanh, con em họ được học hành như người Lào.
Nhận xét về vấn đề này học giả Lào, Sucsavang Simana đã viết như sau:
“Người Việt ở Lào hầu hết đã trở thành công dân nước Lào một cách tự nhiên,
nghĩa là đã nhập quốc tịch Lào, được hưởng mọi quyền hạn công dân như người
Lào, có quyền bầu cử, quyền học hành, quyền buôn bán nhà đất, quyền mở
trường học và dạy tiếng mẹ đẻ… có thể nói rằng, cộng đồng người Việt ở Lào
được hưởng chính sách ưu đãi đặc biệt của chính phủ Lào hơn hẳn cộng đồng
người Việt ở các nơi trên thế giới”.
Quả vậy, người Lào gốc Việt được khuyến khích làm các nghề thầy giáo,
bác sĩ, tham gia bộ máy chính quyền Lào ở cấp thấp và thậm chí còn được tham
gia vào lực lượng vũ trang Lào.
Theo quy định của pháp luật, người Lào gốc Việt có quyền lợi như người
Lào, nhưng trong thực tế cũng có một số vấn đề tế nhị. Thượng tá quân đội Lào,

14
Cù Văn Tống cho biết hiện nay quân đội Lào chỉ có còn 3 người có quân hàm
cấp tá. Đồng thời anh còn cho biết hiện nay những người Lào gốc Việt trong
quân đội Lào đều được xuất ngũ và không được tuyển vào quân đội như trước

đây nữa. Lý giải về vấn đề này anh cho rằng ngày nay ở Lào không còn chiến
tranh và thanh niên Lào hăng hái tham gia nghĩa vụ quân sự nên không cần đến
sự tham gia của người Lào gốc Việt nữa.
b. Người Việt chưa nhập quốc tịch Lào – Việt kiều
Những người Việt đã nhập quốc tịch Lào thì thành người gốc Lào còn
những người chưa nhập quốc tịch thì được gọi là Việt kiều. Việt kiều được
chính phủ Lào cho phép định cư ở Lào với những điều kiện cụ thể, tuy Việt kiều
được cấp hộ khẩu và chứng minh thư Lào, nhưng vẫn mang quốc tịch Việt Nam,
họ được nhà nước Lào quản lý theo những quy định đối với ngoại kiều.
Theo đó Việt kiều được hoạt động, đi lại, làm ăn, buôn bán bình thường,
nhưng Việt kiều không được mua, bán đất đai, nhà cửa. Việt kiều cũng không được
nhà nước Lào cấp giấy phép đầu tư kinh doanh nên họ phải dựa vào môn bài của
người Lào. Ngoài những điều không được phép nói trên, con em họ dù học giỏi
cũng không được theo học tại các trường Đại học ở trong nước và nước ngoài. Nếu
muốn đi học tiếp chúng phải xin làm con nuôi người Lào mang họ Lào.
Vậy Việt kiều có bị chính phủ Lào cấm một số nghề hay không? Đây là
một vấn đề khá nhạy cảm, nhưng khi được phỏng vấn một số bà con người Việt
thì họ đều nói rằng chính phủ Lào không cấm bất cứ nghề gì.
Do những thiệt thòi về quyền lợi nói trên của người Việt kiều so với người
Lào gốc Việt, nên Việt kiều một mặt tìm mọi cách để thích ứng với luật pháp
của Nhà nước Lào bằng cách cho con cái mình làm con nuôi những gia đình
người Lào có địa vị trong xã hội để có quốc tịch Lào. Mặt khác, họ lại tìm mọi
cách để được nhập quốc tịch Lào.
Để góp phần vào việc giải quyết sự khác biệt về quyền lợi trên trong những
năm 1993, 1994, chính phủ Lào đã tiến hành cho phép người Việt nhập quốc
tịch Lào. Một trong những điều kiện quan trọng để được nhập quốc tịch Lào là
ứng viên phải biết nói tiếng Lào và đọc viết thành thạo chữ Lào.
Chính phủ Lào đã đưa ra chính sách về việc Việt kiều gia nhập quốc tịch
Lào hoặc quốc tịch Việt Nam tùy thuộc vào người đó. Về phần mình, đa phần
Việt kiều Lào đều được muốn nhập quốc tịch Lào và nhất là muốn con em họ

được nhập quốc tịch Lào, nên họ bắt con em của họ phải học cho biết được tiếng
Lào và chữ Lào.

15
Ngày nay trong không khí của sự hợp tác toàn diện đoàn kết đặc biệt, quan
hệ Việt Nam – Lào ngày càng tốt đẹp, địa vị của người Việt Nam ở Lào ngày
càng được cải thiện hơn trước. Về phía người Việt trong cộng đồng nhìn nhau
không còn khắt khe, phân biệt như trước nữa.
c. Những người mới đến Lào từ sau năm 1975.
Đây là những người Việt mới đến Lào từ sau năm 1975 đặc biệt là từ 1980
đến nay, phần lớn họ đều chưa có cuộc sống ổn định ở Lào và thành phần thì hết
sức đa dạng. Những người mới nhập cư này khi vào Lào họ có giấy thông hành
hoặc hộ chiếu. theo quy định của hai nước giấy thông hành thường do các tỉnh
biên giới cấp. Theo quy định của hai nước các loại giấy thông hành này không
thể đi sâu vào nội địa Lào. Không những thế khi giấy thông hành hay hộ chiếu
hết hạn lưu trú họ không những không gia hạn mà còn tiếp tục ở lại Lào. Những
trường hợp kể trên là bất hợp pháp.
Để thoát khỏi tình trạng trên, những người này có cách thích ứng đặc biệt của
họ. Khi hết thời hạn cư trú họ quay lại cửa khẩu Việt Nam hay qua cầu Thà Đừa,
sang “du lịch” Thái Lan rồi quay lại Lào. Và như vậy họ lại được phép cư trú thêm
1 tháng trên đất Lào bởi Việt Nam và Lào chỉ kí thời hạn lưu trú cho người lao
động 1 tháng. Tuy nhiên những quy định mới đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho
người Việt Nam sang Lào.các công trình, dự án nếu quá hạn lưu trú mà không gia
hạn thì các chủ doanh nghiệp, chủ công trình hay dự án sẽ bị phạt nặng.
Đối với những người tự do sang Lào tìm kiếm việc làm, theo quy định họ
phải được chính quyền địa phương Lào cấp giấy phép cư trú và thẻ lao động.
Nếu công an địa phương kiểm tra phát hiện những người không có các loại giấy
tờ trên lập tức bị đưa trở lại Việt Nam.
Đối với những người sang Lào kinh doanh, buôn bán có hộ chiếu, họ phải
nộp tiền lưu trú cho chính quyền địa phương và thuế kinh doanh, buôn bán.

Những người này hết hạn hộ chiếu phải xin gia hạn. Đây là những người chỉ đến
Lào kinh doanh, buôn bán kiếm tiền. Họ không có ý định cư trú lâu dài ở Lào.
Như vậy quá trình di dân sinh sống ở Lào của người Việt diễn ra từ rất sớm
và nó là cả một quá trình lâu dài. Bên cạnh đó thành phần người Việt di cư sang
Lào cũng hết sức phong phú và đa dạng. Đồng thời những người sinh sống trên
đất Lào hợp pháp trên đất Lào đều được đảm bảo quyền lợi. Đây chính là những
cơ sở quan trọng để Việt kiều gắn bó với quê hương Lào và hăng hái tham gia
kháng chiến chống Pháp cung với nhân dân Lào bản địa.

16
Chương 2. VAI TRÒ CỦA VIỆT KIỀU TẠI LÀO TRONG CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP (1946 – 1947)
2.1 Khái quát về vai trò của Việt Kiều trong quá trình vận động tại Lào
(1930 – 1945)
Năm 1858 chiến hạm của Pháp tiến vào biển Đông, nã pháo vào thành
phố Đà Nẵng của Việt Nam, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam, và từ Việt
Nam tiến đánh Lào và Campuchia đặt ách thống trị lên ba nước trên bán đảo
Đông Dương
Cùng với quá trình thực dân Pháp xâm lược Lào, thì ngay từ đầu nhân dân
Lào cùng với Việt kiều đã đứng lên đấu tranh, ra sức vận động và thành lập
nhiều tổ chức chính trị để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài đang chờ đợi.
Trong những năm 1928 - 1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Xiêm và
Người đã đến công tác tại Lào. Trong thời gian này, một số cơ sở của Hội Việt
Nam Cách Mạng Thanh niên đã được xây dựng tại Lào. Đến cuối năm 1929 đầu
năm 1930 một số cơ sở, tổ chức của Đông Dương Cộng Sản Đảng, Đông Dương
Cộng Sản Liên Đoàn đã được thành lập và phát triển ở Lào.
Tại Hương Cảng (TQ) 3 – 2 – 1930 đồng chí Nguyễn Aí Quốc thay mặt
Quốc tế cộng Sản triệu tập hợp nhất ba tổ chức Đảng ở Việt Nam : Đông Dương
cộng Sản Đảng, An Nam cộng Sản Đảng, Đông Dương cộng Sản Liên Đoàn lấy

tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị nhất trí thông qua chính cương vắn
tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt của Đảng và sau đó bản lận cương chính trị
bổ sung, phát triển trở thành cương lĩnh của cách mạng Việt Nam.
“Cương lĩnh khẳng định cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân
quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, là cách mạng thổ địa đánh đổ các tàn dư
phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, làm cho Đông Dương hoàn toàn
độc lập, thẳng tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội không qua giai đoạn phát triển Tư Bản
chủ nghĩa.
Phong trào của Việt Kiều Lào được các chiến sĩ của Việt Nam Quang Phục
Hội nhen nhóm, trỏ thành cơ sở vững chắc của hội Việt Nam Cách Mạng Thanh
Niên. Phong trào thống nhất cả về tổ chức và tư tưởng nên sau khi Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời, Quốc tế Cộng Sản đã quyết định cho thành lập Đảng bộ
Cộng Sản Việt Kiều Lào – Thái.
Sự ra đời của Đản Cộng Sản Việt Nam mà sau này là Đảng Cộng Sản Đông
Dương là nhân tố cơ bản tạo nên bước ngoặt lịch sử Việt Nam, phong trào yêu

17
nước của Việt Kiều Lào từ đây cũng bước sang 1 giai đoạn mới, dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng.
Từ sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam, phong trào cách mạng trong
nước phát triển mạnh mẽ đỉnh cao của nó là cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Trong
những năm 1930 – 1931 hòa nhịp với cao trào cách mạng bùng lên ở Việt Nam,
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào cũng nổ ra ở rất nhiều nơi
Viêng Chăn, Boneng… Đặc biệt vào giữa năm 1931, công nhân Lào làm đường
Lắc Xao đấu tranh ủng hộ cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh của Việt Nam. Sau cao
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, những năm 1932 – 1933, phong trào cách mạng Việt
Nam bị dìm trong bể máu là giai đoạn thoái trào của cách mạng Đông Dương,
nhiều chi bộ tan ra, cán bộ của Đảng bị bắt tù đầy, người bị sát hại. Cán bộ Đảng
viên ở Lào cũng nằm trong hoàn cảnh đó. Chỉ trong vòng hai năm 1934 – 1935
ba lần thành lập sứ uỷ Ai Lao Lâm thời và hoạt động được một vài tháng cán bộ

đều bị bắt, giam cầm tù đầy. Tháng 5 – 1935, Xứ ủy lâm thời Lào lãnh đạo cuộc
biểu tình dài hơn 3 tuần lễ nổ ra ở Viêng Chăn, Xiêng Khoảng, Thà Khẹt…
chính quyền thực dân và chính quyền thuộc địa ở Lào ra sức khủng bố, đàn áp
dã man phong trào cách mạng Lào. Qua những cuộc nổi dậy này năm 1936, hơn
400 chiến sĩ cách mạng Việt Nam tại Lào bị bắt và trục xuất ra khỏi nước Lào.
Tuy nhiên công nhân, nông dân, học sinh và Việt Kiều Lào vẫn đứng lên đấu
tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.
Tháng 9 – 1934, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Lào ( tức Xứ ủy lâm
thời Lào) sau một thời gian bị địch khủng bố, được thành lập để lãnh đạo quần
chúng tiếp tục đấu tranh. Tiếp đó các đoàn thể Công hội, Hội phản đế liên
minh,… dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy lâm thời Lào, lần lượt ra đời và được củng
cố, phát triển. Tháng 9 – 1934, tại Lào đã thành lập được bốn chi bộ ở Viêng
Chăn, Phoontiu, Thà Khẹt, với tổng số hơn 20 đảng viên. Cuối năm 1934 ,Xứ ủy
lâm thời Lào được củng cố, công tác tổ chức xây dựng Đảng được đẩy mạnh.
Đầu năm 1935 các tổ chức Đảng lần lượt được thành lập: Thị ủy Viêng Chăn,
Tỉnh ủy Xanavakhet, Tỉnh uỷ Thà Khẹt, Chi bộ Phônti.
Bên cạnh phong trào yêu nước tự phát triển ở Lào trong những năm 40 của
thế kỷ XX còn xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng do
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo lớp người sinh vào những năm 20, 30 của
thế kỉ XX đã tiếp thu và thừa hưởng những hạt giống cách mạng ra đờ từ sáu chi
bộ Đảng đầu tiên ở Viêng Chăn, Xanavakhet, Păcxe, Boneng, Phoongtin, Thà
khẹt vào giai đoạn Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập.

18
Viêng Chăn là thành phố đông dân nhất nước Lào. Thành phố có khoảng
10.000 người Việt, với tinh thần đấu tranh kiên cường phong trào đấu tranh của
quần chúng nhân dân và Việt Kiều Lào phát triển ngày càng cao. Tháng 12 –
1930 công nhân bến tàu Viêng Chăn đã bãi công đòi tăng lương. Tháng 4 – 1934
trên cù lao của sông Mê Kông, đại biểu các chi bộ cộng sản các địa phương đã
tổ chức thành lập Đảng bộ Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Lào. Từ đó, cuộc

đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào gắn bó mật thiết với cách mạng Đông
Dương và cách mạng thế giới chuyển từ cuộc đấu tranh yêu nước sang cuộc đấu
tranh yêu nước – cách mạng với chất lượng hoàn toàn mới. Tháng 12 – 1935
công nhân nhà máy in, vận tải đình công, học sinh trương Bách Nghệ bãi khoá
đòi tăng học bổng. Đầu năm 1936 nổi lên cuộc đấu tranh của công nhân mở
thiếc Phông Tin và mở thiếc Boneng đòi tăng lương mở đầu cho phong trào đấu
tranh của nhân dân Lào giai đoạn mới. Tiếp đó, công nhân cầu đường, công
nhân điện và công nhân của xẻ gỗ đồ mộc ở Viêng Chăn đòi cải thiện đời sống.
Năm 1937 công nhân mở thiếc lại bãi công lần thứ 2 và đến năm 1938 công
nhân các đồn điền ở Xiêng Khoảng và nhân nhân Khăm Muội cùng Việt Kiều đã
đứng lên đấu tranh chống sưu cao thuế nặng.
Đầu những năm 40 của thế kỷ XX,Viêng Chăn đã có một chi hội Việt Kiều
cứu quốc, dưới chi hội là phân hội. Mối quan hệ giữa bà con Việt Kiều với nhân
dân Lào rất mật thiết, học sinh Lào – Việt cùng học chung một trường nên gắn
bó với nhau trong quan hệ xã hội cũng như trong các hoạt động khác.
Không chỉ ở Viêng Chăn, tại một số thành phố khác hoạt động cách mạng
của Việt Kiều Lào cũng diễn ra sôi nổi như ở Thà Khẹt. Thà Khẹt nằm ở khúc
giữa nước Lào thuộc tỉnh Khăm Muội, có đường số 8, 9, 12, 14 nối liền với Việt
Nam. Có đường bộ số 13 và đường thuỷ dọc sông Mê Kông chạy lên Viêng
Chăn xuống Xavanakhet. Vị trí địa lý của Thà Khẹt có đường giao thông từ Việt
Nam sang, phía tây bên kia sông Mê Kông là Nakhon Panom – Thái Lan có
phong trào Việt Kiều mạnh nên trỏ thành hành lang liên lạc đi về của các nhà
cách mạng từ Việt Nam sang, cũng vì thế thanh niên ở đây sớm tiếp thu được
những tư tưởng tiến bộ. Phong trào yêu nước của Việt Kiều Lào cũng xuất phát
từ thanh niên, học sinh, công chức, được các đồng chí cán bộ của tổng hội Việt
Kiều như Lê Mạnh Trinh, Lê Tiền Tiến và nhiều đồng chí khác tuyên truyền
giác ngộ sau này trở thành những cán bộ cốt cán hoạt động tích cực trong phong
trào Việt Kiều. Cán bộ cơ sở Việt Kiều Thà Khet vẫn thường xuyên liên lạc, xin
ý kiến chỉ thị của tổng hội Việt Kiều.


19
Phong trào cách mạng, yêu nước của Việt Kiều Lào trong những năm đầu
thập niên 40 cũng diễn ra mạnh mẽ. Sau khi chiến tranh thế giới thư 2 bùng nổ (
9 – 1939) cuộc đấu tranh chống phát xít xâm lược, bảo vệ độc lập, dân chủ, hoà
bình của các nước đồng minh và nhân dân thế giới ngày càng diễn ra sôi nổi.
Một thời kì chiến tranh và cách mạng bắt đầu.
Ở Đông Dương, lợi dụng cơ hội nước Pháp bị phát xít Đức đánh bại (6 –
1940), phát xít Nhật thực hiện kế hoạch xâm lấn các nước Đông Dương, hòng
dùng Đông Dương làm bàn đạp tiến công các nước Đông Nam Á. Nhân dân các
nước Đông Dương bị hai tầng áp bức bóc lột càng khổ cực điêu đứng, không
còn cách nào khác phải đoàn kết đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật để tự giải
phóng mình. Lo sợ trước phong trào đấy tranh chống đế quốc, phát xít ở Đông
Dương, phát xít Nhật lại thoả hiệp với thực dân Pháp, để cho Pháp thẳng tay đàn
áp dã man phong trào cách mạng và bóc lột ngày càng tàn tệ đối với nhân dân
các nước Đông Dương.
Trước tình thế phức tạp đó, hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng Cộng
sản Đông dương đã họp tại Bắc Ninh chỉ rõ “kẻ thù của các dân tộc Đông
Dương lúc này là phát xít Nhật xâm lược và thực dân Pháp thống trị, nhiệm vụ
của Đảng lúc này là phải chuẩn bị lãnh đạo nhân dân ba nước Đông Dương nổi
dậy. Đánh đuổi Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếp đó hội nghị lần
thứ 8 của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương nhấn mạnh “cuộc cách
mạng Đông ương, kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Ở Lào, cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo
chung của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ những năm 1933 – 1934 và 1936 –
1939, phong trào cách mạng đã được gây dựng ở một số thành phố, thị trấn dọc
theo sông Mê Kông và xứ Uỷ Ai Lao. Trong các hoạt động của phong trào cách
mạng đó, kiều bào Việt Nam ở Lào với số lượng khá đông và với truyền thống yêu
nước nồng nàn, đã nhiệt tình hăng hái tham gia và có những đóng góp quan trọng.
Đầu những năm 40, cùng với việc xâm lấn các nước Đông Dương, phát xít
Nhật đã xúi giục chính quyền quân phiệt Xiêm gây ra cuộc tranh chấp biên giới

Thái Lan – Lào. Sau cuộc chiến tranh Xiêm – Việt Nam – Pháp, quan hệ hai bên
vẫn căng thẳng, biên giới Lào - Thái bị phong toả, thực dân Pháp tìm mọi cách
củng cố chế độ thống trị của mình. Chúng ra sức tuyên truyền chia rẽ Lào – Việt
và tiến hành nhiều đợt khủng bố ác liệt đối với phong trào cách mạng ở Lào và
các nước Đông Dương. Nhiều cán bộ lãnh đạo trong Xứ uỷ Ai Lao và Đảng
viên ở cơ sở bị bắt, bị trục xuất về Việt Nam, một số phải tạm lánh sang Thái
Lan, các tổ chức cơ sở phải rút vào bí mật. Phong trào cách mạng của Lào và

20
Việt Kiều yêu nước gặp khó khăn, một lần nữa tạm lắng xuống, nhưng số Đảng
viên còn lại vẫn tiếp tục hoạt động, giữ vững cơ sở cách mạng ở hai bên bờ sông
Mê Kông.
Trước sự khủng bố của chính quyền thực dân, một số trí thức và công chức
Lào có tinh thần dân tộc đã chạy sang Xiêm tìm đường liên lạc với Đồng minh
chống Nhật và thực dân Pháp. Họ cũng liên lạc với Việt Kiều cứu quốc ở Xiêm,
Và được “Đảng Thái Tự Do” giúp đỡ tổ chức “Hội Lào Tự Do” đấu tranh chống
Nhật xâm lược. Cũng thời gian này, một số binh lính khố xanh, khố đỏ người
Việt và người Lào có xu hướng tiến bộ do Quản Bỉnh cầm đầu đã chuẩn bị binh
biến ở Viêng Chăn, nhưng kế hoạch bị bại lộ phải chạy sang Xiêm. Được sự
giáo dục và chỉ đạo của tổ chức Việt Kiều yêu nước Quản Bỉnh và phần lớn anh
em binh sĩ đã tham gia phong trào cách mạng, góp phần xây dựng lực lượng,
chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa của Lào sau này.
Cuối năm 1944 “Đội Tiền Phong” một tổ chức tiền thân của Xứ uỷ Ai Lao
lần thứ tư được thành lập. Tháng 2 năm 1945, trên cơ sở phong trào yêu nước
của Việt Kiều Lào đã được phục hồi, cũng từ đây phong trào đấu tranh của Việt
Kiều ngày càng phát triển với quy mô rộng khắp.
Trong thời kì vận động tại Lào một trong những người có công lao to lớn
đối với sự chuẩn bị lực lượng thời kì này phải kể tời vai trò của vị lãnh đạo cách
mạng Lào Cayxơn Phomvihan người có công rất lớn đối với thắng lợi của cách
mạng Lào.

Như vậy từ năm 1930 nhân dân Lào cùng với Việt Kiều đã tích cực vận
động, chẩn bị mọi tiền đề và nền tảng vững chắc cho cuộc kháng chiến lâu dài
chống Pháp cho tới thắng lợi cuối cùng.
2.2. Vai trò của Việt kiều tại Lào trong cách mạng tháng 8 – 1945
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Lào, Việt nam, Campuchia, là ba
nước Đông Dương cùng chung cảnh ngộ, 80 năm dưới ách nô lệ lầm than, thuộc
địa của thực dân Pháp, với chính sách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, nhằm khai
thác triệt để 3 nước Đông Dương. Nước Lào có đường biên giới giáp Việt Nam
nên người Việt đến sinh sống từ rất sớm. Việt kiều ở Lào cùng mang thẻ căn
cước và đóng thuế thân như người Lào, cùng chung số phận là người dân nô lệ
của thực dân Pháp nên họ cũng là một lực lượng của cách mạng Lào.
Năm 1945 tình hình thế giới có nhiều thay đổi, có lợi cho phe đồng minh.
Trước tình hình đó lực lượng cách mạng yêu nước Lào và việt kiều đang tích
cực chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa, thì phát xít Nhật hất cẳng thực dân Pháp.

21
Bằng một cuộc đảo chính nhanh gọn trong đêm ngày 8 rạng sang ngày 9 tháng 3
năm 1945 và những ngày sau đó, phát xít Nhật đã tước khí giới quân đội Pháp
trên toàn cõi Đông Dương biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ quân sự
của phát xít Nhật.
Quân đội Pháp ở Lào nhanh chóng tan dã, đầu hàng. Một số bị Nhật bắt
làm tù binh, một số chạy sang Trung Quốc, còn lại lẩn trốn vào rừng núi ở Hạ và
Trung Lào.
Được tin Nhật đảo chính Pháp, ngay trong đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị mở rộng, để nhận định tình hình và ra chỉ
thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị chỉ ra rằng: “tình
hình lúc này là thời cơ tiến hành khởi nghĩa” và nhiệm vụ của Đảng lúc này là
“lãnh đạo toàn dân tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”
[1,43].
Ở Lào, sau khi hất cẳng thực dân Pháp, phát xít Nhật lập ngay ách thống trị

của chúng, để che dấu bộ mặt xâm lược, Nhật vẫn duy trì hệ thống cai trị của
chính quyền vương quốc do Pháp lập ra và cho nhà vua Lào ra tuyên bố: “Nước
Lào độc lập và tán thành hợp tác với Nhật trong mọi lĩnh vực. Trước tình hình
hết sức khẩn trương, chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ưng Đảng
Cộng sản Đông Dương, ngày 28/3/1945, Ban lãnh đạo Đội Tiền Phong đã họp
với đại biểu các chi bộ Đảng ở Lào và Thái Lan tại một địa điểm ở hữu ngạn
sông Mê Kông đối diện với Viên Chăn.
Hội nghị đã nêu lên những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác vận động
cách mạng vừa qua và nhấn mạnh: cùng với việc vận động, tổ chức Việt kiều,
phải hết sức coi trọng công tác tuyên truyền vận động nhân dân bản địa, là lực
lượng chính chủ yếu của cuộc cách mạng.
Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, Hội nghị đã đề ra một
số công việc cấp bách trước mắt là: Thúc đẩy công tác tuyên truyền vận động
nhân dân Lào và Việt kiều ủng hộ và tham gia khởi nghĩa; xúc tiến việc lập
chiến khu, xây dựng lực lượng vũ trang, tỏ chức huấn luyện quân sự để chuẩn bị
khởi nghĩa. Cũng trong hội nghị đã bầu ra sứ ủy Ai Lao.
Ngày 11/5/1945, tại chiến khu Na Kè, đơn vị vũ trang đầu tiên của Tổng
hội Việt kiều chính thức được thành lập, lấy tên là “Việt Nam độc lập quân".
Cuối tháng 6 năm 1945, phát xít Nhật cho quân trinh sát, chuẩn bị mở cuộc càn
quét vào chiến khu Na Kè. Đề phòng quân Nhật tiến công bất ngờ, ta tạm thời
phân tán lực lượng vũ trang thành từng đơn vị nhỏ, chia súng và bố chí lực

×