Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH ĐẦU HÀNG CỦA TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN QUA NỘI DUNG CÁC HIỆP ƯỚC ĐÃ KÝ KẾT VỚI THỰC DÂN PHÁP TỪ 1862 - 1884 - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.59 KB, 54 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



ĐINH THỊ LỢI


BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH ĐẦU HÀNG
CỦA TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN QUA NỘI DUNG
CÁC HIỆP ƯỚC ĐÃ KÝ KẾT VỚI THỰC DÂN PHÁP
TỪ 1862 - 1884





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Sơn La, năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐINH THỊ LỢI


BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH ĐẦU HÀNG
CỦA TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN QUA NỘI DUNG
CÁC HIỆP ƯỚC ĐÃ KÝ KẾT VỚI THỰC DÂN PHÁP
TỪ 1862 - 1884




CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: Ths. Hoàng Xuân Thành




Sơn La, năm 2013
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo - Thạc sĩ Hoàng Xuân
Thành đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa, thư viện trường Đại
học Tây Bắc đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và em cũng xin cám ơn
các bạn sinh viên trong tập thể lớp K50 ĐHSP Lịch Sử đã động viên giúp đỡ

trong suốt thời gian em thực hiện khóa luận này.
Mặc dù em đã rất cố gắng xong khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các
bạn để khóa luận này được hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện
Đinh Thị Lợi

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 3
5.1. Cơ sở tư liệu 3
5.2. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của khóa luận 4
7. Bố cục của khóa luận 4
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX 5
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới 5
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước 7
1.2.1. Về chính trị 7
1.2.2. về kinh tế 9
1.2.3. tình hình xã hội và các cuộc khởi nghĩa của nhân dân 11

1.2.4. Về quân đội 12
1.2.5. Về văn hóa, giáo dục 13
1.2.6. Về đối ngoại 14
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH ĐẦU HÀNG CỦA TRIỀU ĐÌNH NHÀ
NGUYỄN QUA NỘI DUNG CỦA CÁC HIỆP ƯỚC ĐÃ KÍ VỚI PHÁP TỪ
(1862 - 1884) 16
2.1. Triều đình nhà Nguyễn đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp (1858 - 1862) 16
2.1.1. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp 16
2.1.2. Thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, đánh chiếm Gia Định và phong trào
đấu tranh của nhân dân ta 17
2.1.3. Chủ trương của triều đình nhà Nguyễn - Điều ước Nhâm tuất (5/6/1862)19
2.2. Triều đình nhà Nguyễn đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược Bắc Kì
lần thứ nhất của thực dân Pháp (1873 - 1874) 24
2.2.1. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất và phong trào chống
Pháp của nhân dân Bắc Kì (1873 - 1874) 24
2.2.2. Thái độ của nhà Nguyễn và hòa ước Giáp Tuất 1874 27
2.3. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai và đối sách của triều
đình nhà Nguyễn (1882 - 1884) 32
2.3.1. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai (1882 - 1884) và phong
trào kháng chiến của nhân dân 32
2.3.2. Đối sách của triều đình nhà Nguyễn - Hiệp ước Harmand 1883 và
Hàng ước Patenôtre 1884. Phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng hoàn toàn thực
dân Pháp 34
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ LÝ GIẢI VỀ SỰ ĐẦU HÀNG CỦA TRIỀU ĐÌNH
NHÀ NGUYỄN QUA VIỆC KÍ KẾT CÁC HIỆP ƯỚC VỚI THỰC DÂN
PHÁP TỪ 1862 - 1884 41
3.1. Thái độ của nhà Nguyễn khi kí kết các hiệp ước 41
3.2. Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực
dân Pháp 44

KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49







1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Qua gần 40 thế kỷ dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hiên
ngang cùng với các dân tộc khác luôn có mặt trên vũ đài chính trị. Nhưng từ
thế kỷ XIX, dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ thử thách vô cùng to lớn, đó
là sự khủng hoảng trong nước và nghiêm trọng hơn là sự xâm lược của thực
dân Pháp.
Trong khi toàn thể nhân dân ta kiên quyết một lòng đấu tranh chống thực
dân Pháp thì do xuất phát từ chỗ bảo vệ triệt để quyền thống trị, bóc lột nhân dân
của tập đoàn phong kiến, nhà Nguyễn đã chủ trương “lấy chủ đợi khách” và
chiến lược “thủ để hòa” rồi theo “lương tâm và hảo ý” của kẻ xâm lược, từng
bước ký kết các văn kiện đầu hàng dâng nước ta cho giặc. Các hiệp ước từ 1862
- 1884 đánh dấu quá trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn từ đầu hàng từng
bước đến đầu hàng toàn bộ và đã gây nên hậu quả to lớn cho vận mệnh dân tộc.
Thế nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào đề cập đến vấn đề này
một cách hoàn chỉnh. Vì thế việc lựa chọn khóa luận “Bước đầu tìm hiểu qúa
trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn qua nội dung các hiệp ước đã ký kết
với thực dân Pháp từ 1862 - 1884” để nghiên cứu có ý nghĩa về mặt khoa học
và thực tiễn như sau:

* Về mặt khoa học:
+ Góp phần làm sáng tỏ quá trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn qua
nội dung các hiệp ước đã ký kết với thực dân Pháp từ 1862 - 1884.
+ Góp phần làm rõ trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi
vào tay thực dân Pháp.
* Về mặt thực tiễn:
+ Bổ sung nguồn tư liệu giảng dạy lịch sử phổ thông và góp phần giúp độc
giả hiểu thêm về một giai đoạn thăng trầm trong lịch sử dân tộc.
+ Góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc cho
thế hệ trẻ ngày nay.
+ Khóa luận này còn làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và
giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.



2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung, về quá trình đầu hàng
của triều đình nhà Nguyễn nói riêng đang được sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học. Mỗi tác giả, tác phẩm nghiên cứu đều đứng ở góc độ khác nhau thậm chí có
nhiều ý kiến trái ngược nhau.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tham khảo và kế thừa một số tác phẩm
tiêu biểu sau:
Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam tập II” của ủy ban khoa hoc xã hội Việt Nam
đã phân tích khá đầy đủ tình hình Việt Nam trước khi bị thực dân Pháp xâm
lược, quá trình xâm lược của thực dân Pháp và đồng thời thấy được quá trình
đầu hàng của triều Nguyễn từ 1862 - 1884. Tác phẩm có nói “Nhà Nguyễn, triều
đại cuối cùng của chế độ phong kiến chuyên chế, không còn khả năng mở mang
kinh tế và phát huy tiềm lực nhân dân trong xây dựng đất nước”. Mặc dù các
vua đầu triều Nguyễn cũng có ý thức và khả năng phát triển kinh tế tuy nhiên

trước nạn ngoại xâm các vua lần lượt đầu hàng và ký kết các văn kiện bán nước
ta cho thực dân Pháp. Điều đó khẳng định trách nhiệm to lớn của nhà Nguyễn
trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Các tác giả “Đại cương lịch sử Việt Nam” (Toàn tập) đã trình bày và phân
tích rất chi tiết, đầy đủ tình hình “Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX thời Nguyễn”
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục và đi đến những kết
luân rằng các vua triều Nguyễn cũng có những biện pháp tích cực để phát triển
đất nước. Song do chính sách bảo thủ, phản động nên “nhanh chóng cấu kết với
bọn cướp nước để làm tay sai cho chúng, đàn áp, bóc lột nhân dân cả nước”.
Trên cơ sở ấy, các tác giả đã phán xét công bằng: “Đó là tội lớn của phong kiến
nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử”.
Tác phẩm “Lịch sử 80 năm chống Pháp” của tác giả Trần Huy Liệu cũng
đã nói rất chi tiết, cụ thể về “Qúa trình xâm lược của thực dân Pháp và chính
sách hàng phục của vua quan Nam triều”.
Tác phẩm “Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới”, nhiều tác giả, nhà
xuất bản Đại học sư phạm năm 2005 cũng đề cập đến cái nhìn và đánh giá vai
trò của triều Nguyễn. Công và tội của triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc.
Ngoài ra còn rất nhiều những tác phẩm khác có liên quan đến nội dung của
khóa luận như cuốn “Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam”,
cuốn “Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay” cùng một số tạp chí, sách báo. Đó là

3
những nguồn tư liệu cần thiết giúp tôi có cái nhìn tổng thể, sâu sắc về vấn đề
khóa luận đặt ra.
Khóa luận của tôi một mặt là sự kế thừa thành tựu của những học giả đi
trước, mặt khác là sự cố gắng giải quyết những gì còn bỏ ngỏ khi nói về quá
trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn qua các hiệp ước từ 1862 - 1884.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung đi sâu nghiên cứu về quá trình đầu hàng của triều đình

nhà Nguyễn qua nội dung các hiệp ước đã ký kết với thực dân Pháp từ 1862 -
1884.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu vào khoảng thời gian từ
1858 cho đến cuối thế kỉ XIX trong đó chủ yếu là từ 1862 - 1884, thời gian gắn
liền với sự xâm lược của thực dân Pháp và quá trình đầu hàng của triều Nguyễn.
- Về không gian: Khóa luận nghiên cứu trên một địa bàn khá rộng gồm:
Qúa trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân
Pháp nhưng tập trung vào các hiệp ước mà nhà Nguyễn ký với Pháp.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn qua nội dung các
hiệp ước đã ký kết với thực dân Pháp từ 1862 - 1884 nhằm giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về thái độ, bản chất của triều đình phong kiến Nguyễn trong đối nội, đối
ngoại và thấy được một giai đoạn thăng trầm trong lịch sử dân tộc ta.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tái dựng lại bức tranh về chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn,
nạn ngoại xâm của thực dân Pháp và quá trình đầu hàng của triều Nguyễn từ
1862 - 1884 cùng với những hậu quả của nó.
5. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở tư liệu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu khóa luận này tôi đã sử dụng những nguồn
tư liệu sau:
Các sách giáo trình thông sử, sách tham khảo, sách chuyên đề lịch sử Việt
Nam.

4
Tạp chí nghiên cứu lịch sử và các tài liệu tham khảo khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chuyên nghành là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu còn sử

dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, sưu tầm và xử lý tư liệu.
- Cơ sở của phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu là: Dựa trên
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề chính trị - xã hội.
6. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận góp phần khôi phục lại một cách hoàn chỉnh, hệ thống và chính
xác về tình hình nước ta giữa và cuối thế kỷ XIX. Đặc biệt khóa luận tái hiện lại
một cách đầy đủ về quá trình đầu hàng của triều Nguyễn qua các hiệp ước từ
1862 - 1884 theo trình tự thời gian cụ thể.
- Khóa luận nghiên cứu thành công sẽ giúp cho việc học tập, nghiên cứu về
triều Nguyễn, về sự xâm lược của thực dân Pháp và đặc biệt là quá trình đầu
hàng của triều Nguyễn qua việc ký kết các văn kiện từ 1862 - 1884 sẽ có tính
thống nhất, chiều sâu và đầy đủ hơn.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung
cơ bản của khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1. Bối cảnh lịch sử nước ta nửa đầu thế kỷ XIX
Chương 2. Qúa trình đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn qua nội
dung các hiệp ước đã ký kết với thực dân Pháp từ 1862 - 1884
Chương 3. Một số lí giải về sự đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn qua
việc kí kết các hiệp ước với thực dân Pháp từ 1862 - 1884








5

CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới
Sau các cuộc cách mạng tư sản vào buổi đầu thời kỳ cận đại, các nước Âu,
Mỹ phát triển mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ
nghĩa tư bản trở thành hệ thống thế giới. Ba thập niên cuối của thế kỷ XIX các
nước tư bản chủ nghĩa lần lượt chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang
chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) nổi bật nhất là các nước Anh,
Pháp, Đức, Mỹ… Sự phát triển đó đòi hỏi các nước tư bản phải đẩy mạnh việc
xâm lược thuộc địa để tìm kiếm, mở rộng thị trường, tận dụng nguồn nhân công
rẻ mạt, vơ vét nguồn nguyên, nhiên liệu phục vụ cho chính quốc cũng chính vì
thế mà sự cạnh tranh giữa các nước tư bản diễn ra quyết liệt. Trên đà phát triển
đó các nước phương Tây ráo riết tìm kiếm xâm lược thuộc địa mà mục tiêu hàng
đầu là các nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Châu Á nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng là những nước có lãnh
thổ rộng lớn, dân số đông, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Trong khi đó
đến thế kỷ XIX, các nước này vẫn chìm trong chế độ phong kiến bảo thủ lạc hậu và
ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong
tình hình như vậy, các nước phương Tây, trước hết là các thương nhân qua con
đường buôn bán đã lần lượt sang các nước khu vực Đông Nam Á. Từ các hoạt
động buôn bán và truyền giáo, bọn thực dân phương Tây chuyển sang chính
sách xâm lược, biến các nước Đông Nam Á nói riêng và các nước châu Á, châu
Phi, khu vực Mỹ Latinh nói chung thành thuộc địa. Làn sóng này vốn đã trỗi dậy
từ cuối thế kỷ XIV. Ở Trung Quốc chiến tranh thuốc phiện (1839 - 1842) với
nước Anh đã mở màn cho hàng loạt các nước đế quốc khác như Anh, Pháp, Hà
Lan… theo chân vào xâm lược Trung Quốc.
Trên thực tế, ở những thập niên đầu thế kỷ XIX, ý đồ can thiệp, xâm lược
của các nước tư bản thực dân phương Tây đã trở thành nguy cơ chung của hàng
loạt các nước phương Đông nói chung và các nước khu vực Đông Nam Á nói

riêng…
Đối với Xiêm sớm trở thành đối tượng xâm lược của Anh. Đến năm 1827,
Anh buộc Xiêm ký một hiệp ước buộc Xiêm phải cho người Anh đến buôn bán
tự do ở một số bang, 80 năm sau Anh đã chiếm được các bang còn lại của Xiêm
và sáp nhập vào Mã Lai.

6
Đối với Mã Lai, từ đầu thế kỷ XIX, công ty Đông – Ấn của Anh đã chiếm
những cứ điểm quan trọng trên bán đảo này nhằm giành ưu thế thương mại và quân
sự ở Viễn Đông. Năm 1819, công ty này chiếm đóng Singapore có vị trí quan trọng
trên con đường hàng hải từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Đối với Singapore. Năm 1826, thực dân Anh gộp Singapore, Pesnang,
Welleslly thành một khối gọi là “đất thực dân eo biển” dưới quyền cai trị của
công ty Đông - Ấn đặt tại Kua-la-lăm-pua.
Thế kỷ XIV - XV một phần quần đảo Philippin lệ thuộc vào triều đình
Indonexia. Năm 1521, nhà hàng hải Bồ Đào Nha là Magienlan trong chuyến đi
vòng quanh thế giới đã đến đây và bị giết chết. Đến thế kỷ XVI Tây Ban Nha đã
chiếm được Philippin làm thuộc địa và xây dựng thành phố Manila tại đây.
Indonexia là nước đầu tiên ở Châu Á bị xâm chiếm. Bồ Đào Nha đã chiếm
eo Malacca năm 1511. Năm 1595, Hà Lan lập thương điếm đầu tiên và cạnh
tranh với người Bồ Đào Nha ở Indonexia. Đến giữa thế kỷ XVI, tuy mới làm
chủ một vùng đất không lớn lắm nhưng Hà Lan thực sự đã có ảnh hưởng mạnh
mẽ ở nước này đến khi Bồ Đào Nha phải rút bỏ.
Miến Điện đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước quân chủ mạnh trong khu
vực Đông Nam Á. Nhưng từ cuối thế kỷ XVIII, sau khi nắm được công ty Đông
- Ấn của Anh bành trướng sang vùng Bengale tiếp giáp Miến Điện. Đặt xong
một số thương điếm ở gần thủ đô Rangoun (Miến Điện) năm 1972 thực dân Anh
yêu cầu triều đình Miến Điện chấp nhận công ty Đông - Ấn hưởng đặc quyền
buôn bán và đặt cơ quan thường trú. Bị vua Miến Điện khước từ, thực dân Anh
thực hiện yêu sách trên bằng vũ lực vào đầu thế kỷ XIX.

Bước sang thế kỷ XIX kẻ thù nguy hiểm nhất của Campuchia là triều đình
Xiêm. Thực hiện ý đồ bành trướng và nô dịch Campuchia, vua Xiêm đã gây ra
nhiều cuộc đảo chính ở Campuchia tiến hành kiểm soát nội trị, ngoại giao, tiếp
tục khống chế Campuchia cho đến khi thực dân Pháp bắt đầu kế hoạch xâm lược
nước này vào giữa thế kỷ XIX.
Trong vài thập niên đầu của thế kỷ XIX, Lào cũng bị áp bức nặng nề của
triều đình Xiêm. Toàn bộ nước Lào coi như chịu sự khống chế của Xiêm trước
khi bị cắt phần đất phía đông cho thực dân Pháp.
Đối với Việt Nam, trong hoàn cảnh như vậy, một đất nước giàu tài nguyên,
đông dân cư cũng sớm bị các nước tư bản nhòm ngó và xâm chiếm. Thế kỷ XIX
triều đình phong kiến nhà Nguyễn vừa phải đối phó với tình trạng khủng hoảng
trong nước vừa phải đối phó với nguy cơ xâm lược từ các nước phương Tây, chủ

7
yếu là thực dân Pháp. Ngay từ năm 1645 sau 21 năm làm công việc truyền giáo
ở Việt Nam, khi về Pháp Alexande Rhodes đã đưa ra lời nhận xét có ý cổ vũ cho
một cuộc xâm chiếm thuộc địa tại đây: “Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy,
chiếm được vị trí này thì thương nhân Châu Âu sẽ tìm được một nguồn lợi
nhuận và tài nguyên dồi dào”…
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản thế kỉ XIX, Việt Nam cũng giống các quốc gia khác trên thế giới đều nằm
trong con mắt thèm thuồng và trở thành đối tượng xâm lược của bọn tư bản thực
dân phương Tây mà ở Việt Nam chính là thực dân Pháp.
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước
Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta đúng vào lúc chế độ phong kiến
Việt Nam đang đi sâu vào con đường khủng hoảng từ cuối thế kỷ XVIII. Lúc
này, những mầm mống đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong nước đã xuất hiện và
ngày càng mâu thuẫn với quan hệ kinh tế phong kiến lạc hậu, lỗi thời.
Ngày 31 tháng 8 năm 1802 triều Nguyễn được thành lập đứng đầu là
Nguyễn Ánh. Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh lấy hiệu là Gia Long và trở thành vị

vua đầu tiên của triều Nguyễn làm chủ toàn bộ Đàng Trong, Đàng Ngoài. Vào
giai đoạn đầu của nhà Nguyễn, nước ta vẫn là nước có chủ quyền và đã đạt được
những tiến bộ nhất định về kinh tế, chính trị, văn hóa… Tuy vậy, về cơ bản dưới
triều Nguyễn nước ta vẫn không phát triển lên theo xu thế chung của thế giới mà
ngày càng có những biểu hiện suy yếu và khủng hoảng thể hiện ở nhiều mặt.
1.2.1. Về chính trị
Về thể chế chính trị, bộ máy thống trị của triều Nguyễn ngay từ khi thành
lập đã là bộ máy chính trị mang nặng tính chất quan liêu, độc đoán chuyên
quyền và phản động. Mọi quyền hành đều tập trung trong tay người đứng đầu
nhà nước đó là ông vua chuyên chế. Vua được mệnh danh là “Thiên tử” (con
trời) “thay trời” trị dân; quyền hành của nhà vua được coi là thiêng liêng, vô
hạn, nắm tất cả mọi quyền hành, cả quyền hành pháp và lập pháp; quyết định cả
chiến tranh và hòa bình. Trong thực tế nhà vua cũng là đại địa chủ lớn nhất trong
nước có toàn quyền đối với đất đai và thần dân trong nước.
Từ Gia Long đến các vị vua tiếp theo của triều Nguyễn đều xây dựng, củng
cố nền thống trị trên nền tảng của ý thức hệ Nho giáo, xem trật tự phong kiến là
bất di bất dịch, mãi đến khi phương Tây nổ súng xâm lược nước ta thì mới bừng
tỉnh. Do xuất phát từ quyền lợi của giai cấp và dòng họ nên các ông vua nhà
nguyễn đã thi hành nhiều chính sách thiển cận, ngăn chặn và thui chột những tiến

8
bộ của nền sản xuất hàng hóa đã manh nha xuất hiện của thế kỉ XVIII. Không đưa
ra những chính sách phù hợp để tự cứu mình, cứu dân tộc trong bối cảnh thực dân
phương Tây đang ráo riết bành trướng sang phương Đông.
Hệ thống quan lại phần lớn là gian nịnh thần dốt nát và hủ bại, chính trị thì bảo
thủ cầu an, kinh tế thì tham lam luôn tìm cách đục khoét của nhân dân. Sự thối nát
đó đã được Nguyễn Trường Tộ thể hiện qua di thảo của ông: “Quan chế thời tự
Đức là một hệ thống quan liêu nặng nề đến mức mười con dê chín người chăn”,
“một con ngựa chín người giữ” [6, 131]. Hệ thống ấy vừa làm cho triều đình tốn
nhiều lương bổng, vừa tạo ra tình trạng quan dân xa cách, khiến cho trên dưới

không thông, lòng dạ khác nhau. Tệ tham nhũng quan lại ngày càng trở lên phổ
biến. Năm 1805, chính Tự Đức cũng phải than vãn “quan vui thì dân khổ ích
người trên thì tổn dưới… đưa quà cáp xin xỏ để làm cái thang bước lên quan
trường, hoặc đóng góp khắp bạc để làm của cải cho mình tiêu dùng, những tệ ấy
không kể xiết…” nhưng vua không làm được gì. Nhân dân coi quan lại kẻ đại
diện cho pháp luật là trộm cướp, vì thế mà nhân dân ta có câu:
“Con ơi mẹ bảo câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”
Đối với xã hội, nhà Nguyễn rất có ý thức trong việc quy định bộ máy cai trị
ở đây, tổ chức xã thôn được nhà Nguyễn tận dụng thành công cụ bóc lột của
cường hào, địa chủ, làm cho nhân dân vô cùng đói khổ. Năm 1928, Nguyễn
Công Trứ tâu rằng “ quan lại nhũng tệ chỉ mới hai ba phần, còn lại điêu hào làm
hại đến bảy tám phần, còn lại cướp của ,giết người, giết vợ, cướp con mà trên
vẫn không biết, mà vẫn không tội vạ gì” [5, 21]. Điều đó chứng tỏ rằng nhà
Nguyễn thiết lập hệ thống tổng lý đó ở nông thôn là để trực tiếp đề phòng và
ngăn chặn phong trào quật khởi của nông dân.
Lúc này trong hệ thống quan lại nhà nguyễn có những người có tư tưởng
tiến bộ, như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, họ đưa ra đề
nghị cải cách đất nước nhưng những tư tưởng này nhanh chóng bị bác bỏ vì
quan lại trong triều phần lớn là những kẻ bảo thủ, lạc hậu. Một chính quyền
thống nhất trong cả nước nhưng lại mang nặng tính quan liêu, độc đoán, tham
nhũng đè đầu nhân dân. Năm 1915, bộ luật Gia Long mô phỏng bộ luật phản
động phong kiến nhà Thanh (Trung Quốc) được ban hành đề cao quyền thống trị
tuyệt đối của vua quan, bảo vệ quyền bóc lột của địa chủ phong kiến, vua quan
nhà Nguyễn thi hành lệnh đóng cửa, không tiếp xúc với tư bản phương tây,
nhưng lại thần phục nhà Thanh.

9
Tóm lại về chính trị, hệ thống chính trị của nhà Nguyễn rất sâu mọt, phản
động, bảo thủ, lạc hậu đối lập với lợi ích của nhân dân chính điều này đã làm

cho trên dưới không đồng lòng, quan dân xa cách, vua quan chỉ là kẻ bất tài,
chuyên hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân làm cho mâu thuẫn xã hội thêm gay
gắt. Do đó khi thực dân Pháp xâm lược nước ta triều đình đã không thể và không
biết xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để chống lại kẻ xâm lược mà chỉ biết
bảo vệ quyền lợi của chính mình.
1.2.2. Về kinh tế
Ngay sau khi thành lập, nhà Nguyễn đã thi hành chính sách kinh tế phản
động. Hầu hết những chính sách tiến bộ dưới thời Tây Sơn bị nhà Nguyễn xóa
sổ hoàn toàn, đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng suy thoái nhất là đến
giữa và cuối thế kỷ XIX.
* Về nông nghiệp
Nhà Nguyễn xóa bỏ chính sách ruộng đất và khuyến khích sản xuất thời
Tây Sơn. Thời Nguyễn, nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm
trọng, ruộng đất của nông dân vẫn tiếp tục bị địa chủ kỳ hào chấp chiếm ác
liệt hơn các triều đại trước. Ruộng đất công chỉ còn trên dưới 15% phần lớn là
đất “xương xẩu” cằn cỗi, hơn nữa nhân dân lại phải gánh chịu mọi nghĩa vụ
thuế khóa, phu phen tạp dịch Những mảnh đất màu mỡ thì nằm hết trong
tay địa chủ và quan lại cho nên nạn đói thường xuyên xảy ra, thiên tai, dịch
bệnh hoành hành, đời sống của nông dân vô cùng cực khổ. Hiện tượng nông
dân do dời sống cùng cực phải phiêu bạt đi khắp nơi trở nên phổ biến dưới
triều Nguyễn. Từ năm 1802 đến năm 1806, nông dân 370 thôn thuộc các trấn
lớn ngoài Bắc phiêu tán đi nơi khác. Đến năm 1826, lại có thêm 108 xã thôn
thuộc 13 huyện của trấn Hải Dương xiêu tán, cộng thêm vào đó là tô thuế rất
nặng nề. Cùng vời thảm cảnh đó, vỡ đê, lụt lội xảy ra thường xuyên. Tại
Hưng Yên, đê Văn Giang vỡ 18 năm liền làm cho cả vùng Khoái Châu màu
mỡ, phì nhiêu biến thành bãi đất hoang, đời sống nông dân đói khổ, hàng đoàn
người bồng bế nhau đi khắp nơi xin ăn, ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều.
Năm 1857, số ruộng đất bỏ hoang trong cả nước là 395 488 mẫu [2, 374]. Đặc
biệt vào năm Tự Đức thứ 12 (1859) số người chết vì đói kém ôn dịch ở Nam
và Bắc có tới 60 vạn người [3, 15].

Để đối phó lại, nhà Nguyễn đã dùng biện pháp khẩn hoang bằng cách mở
các đồn điền ở Nam Kì và khai khẩn đất sa bồi ở Bắc Kì nhưng ruộng đất do
chính tay người lao động khai khẩn được coi là “ruộng công” và nông dân muốn
chiếm hữu thì phải nộp thuế.

10
Vào năm 1853 - 1854 dưới thời vua Tự Đức, Nguyễn Tri Phương đã cho
xây dựng hệ thống đồn điền rất lớn, 21 cơ được lập với 124 ấp phần lớn ở 6 tỉnh
Nam Kì… Nhưng những việc làm trên đã không mang lại những hiệu quả đáng
kể vì đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Người nông dân vẫn không
có ruộng đất. Vì vậy, nạn nông dân lưu tán, nhất là đến thời Tự Đức, khi tư bản
Pháp nổ súng xâm lược lại càng trở nên phổ biến khắp cả nước và trầm trọng
hơn. Đó là một trong những nét tiêu biểu của thời kỳ khủng hoảng và suy vong
của chế độ phong kiến Việt Nam dưới Triều Nguyễn.
* Về công, thương nghiệp
+ Công nghiệp
Chính sách của triều Nguyễn về mặt công thương nghiệp vô cùng phản
động đã hạn chế sự phát triển của công, thương nghiệp ở thế kỉ XVIII, đặc biệt
là ở thời Tây Sơn thương nghiệp nước ta đang có đà phát triển. Trên cơ sở nắm giữ
các nghành kinh doanh lớn như: đóng tàu, đúc tiền, đúc súng và các công xưởng
chuyên làm nhiệm vụ chế tạo các đồ dùng phục vụ vương triều và nắm giữ các
công trường xây dựng đền đài, lăng tẩm… triều đình áp dụng chính sách quản lí
bảo thủ, phản động. Chế độ lao động trong các công xưởng này theo chế độ “Cộng
tượng” mang nặng tính chất cưỡng bức lao động. Tất cả các thợ giỏi ở các địa
phương đều bị tập trung về làm việc tại các công xưởng đều được biên chế thành
các đội, lao động tập trung với mức lương thấp, lại chịu sự quản lý, giám sát
nghiên ngặt của bộ Công nên họ rất bất mãn, không hứng thú với công việc.
Đối với nghành khai mỏ triều đình phong kiến giữ độc quyền, từ năm 1802 -
1858, nhà Nguyễn nắm 139 mỏ và phần lớn các mỏ đều do quan lại khai thác chỉ
số ít là do thương nhân Việt Nam đứng ra khai thác và bị nhà nước đánh thuế nặng.

Phương thức sản xuất trong các mỏ vẫn là lao động thủ công, năng suất thấp. Bên
cạnh đó các nghành nghề thủ công dân gian cũng không có điều kiện phát triển.
Về thương nghiệp, nhà nước giữ độc quyền những nguyên liệu phục vụ cho
công nghiệp nặng như: đồng, chì, thiếc, lưu huỳnh… vì sợ nhân dân chế tạo vũ
khí mang bán cho thương nhân nước ngoài. Đối với những loại hương, lâm sản
quý hiếm như: sừng tê, gác hươu, cánh kiến, trầm hương… nhà nước phong kiến
kiểm soát và đánh thuế rất chặt chẽ. Nhà nước phong kiến còn cấm nhân dân
không được họp chợ vì lo sợ phong trào nông dân lan rộng. Thóc gạo, mặt hàng
thiết yếu nhất trong đời sống cũng bị đánh thuế cao. Gạo từ Gia Định trở ra Nghệ
An phải nộp thuế 9 lần. Dưới thời phong kiến việc lưu thông hàng hóa chủ yếu dựa
vào đường sông và đường biển. Nhưng nhà nước không bảo vệ đường biển để cho
giặc hoành hành, và thêm vào đó là việc trưng thu thuyền bè. Năm 1816 quy định

11
lại “thuyền đi buôn thì phải chịu thuế còn chở cho nhà nước thì được miễn”. Như
vậy đưới triều Nguyễn nội thương rất sa sút, giao lưu hàng hóa giữa các địa
phương rất yếu kém.
+ Ngoại thương
Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài cũng suy giảm do triều
đình thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” (đóng cửa). Mặc dù nước ta có vị
trí thuận lợi, bờ biển dài, có nhiều cửa biển tiện lợi cho hoạt động thông thương
buôn bán nhưng việc buôn bán với nước ngoài do triều đình độc quyền, thường
bị hạn chế đến mức tối đa đặc biệt dưới thời Tự Đức thì hầu như cấm hẳn, nhà
nước chỉ cho phép mở một vài cửa biển để thông thương với nước ngoài, nhập
những mặt hàng phục vụ cho sinh hoạt của hoàng tộc, còn các hoạt động buôn
bán khác đều bị kiểm soát chặt chẽ, tàu buôn nước ngoài không thể ra vào buôn
bán được. Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn đã kìm hãm sự giao lưu
buôn bán với bên ngoài, số lượng tàu bè ra vào các cửa biển vắng vẻ, nguồn thu
thuế quan giảm sút. Năm 1851 nước ta chỉ còn 20 địa điểm buôn bán so với trước
thời điểm này là 60 địa điểm, một con số quá ít ỏi đối với sự phát triển của thương

nghiệp. Triều đình Tự Đức hầu như cự tuyệt hoàn toàn với các thương nhân
phương Tây khi xin vào nước ta buôn bán. Việc nhà nước đóng cửa ngoại thương
xuất phát từ ý đồ bảo vệ nền tảng phong kiến đang tàn tạ, ngăn cản sự phát triển
của tầng lớp thị dân và sự tiếp xúc của nó với thị dân nước ngoài. Chính sách bế
quan tỏa cảng của triều đình đã làm cho việc buôn bán với nước ngoài sa sút rõ
rệt. Một số cảng trước kia phồn thịnh nay trở nên tiêu điều xơ xác.
Mặt khác còn có sự khủng hoảng tài chính của nhà Nguyễn. Năm 1820,
tổng số tô thuế triều đình thu được là 192.592 quan tiền, 2.266.650 hộc thóc, 580
lạng vàng. Đến năm 1847 số thu nhập còn tăng hơn: 308.162 quan tiền,
2.960.134 hộc thóc, 1608 lạng vàng và 128.773 lạng bạc. Điều này phản ánh chế
độ tô thuế và sự khủng hoảng tài chính nặng nề của nhà Nguyễn.
1.2.3. Tình hình xã hội và các cuộc khởi nghĩa của nông dân
* Về xã hội
Nhìn chung đến giữa thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng
trầm trọng. Dưới triều Nguyễn các vua quan chỉ lo ăn chơi sa đọa, chỉ quan tâm
đến vui chơi tiệc tùng, ca hát, xây dựng các lăng tẩm, đền đài bỏ bê việc triều
chính, các quan từ trung ương đến địa phương ỷ thế cậy quyền bóc lột nhân dân.
Điều này làm cho đời sống của nhân dân hết sức khó khăn. Không chỉ vậy họ
còn chịu nhiều thiên tai, dịch bệnh dẫn đến cuộc sống nhân dân vô cùng khổ
cực. Mâu thuẫn giữa nhân dân, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nông dân và giai cấp

12
phong kiến ngày càng trở nên sâu sắc đã dẫn đến bùng nổ nhiều cuộc khởi
nghĩa của nông dân.
* Các cuộc khởi nghĩa của nông dân
Ngay sau khi nhà Nguyễn được thành lập, vương triều nhà Nguyễn đã phải
đối phó với phong trào nổi dậy của nông dân. Đến thời tự Đức đã thành một
nguy cơ cho nền thống trị đó. Trong suốt 18 năm thời Gia Long (1802 – 1820)
đã có 73 cuộc khởi nghĩa, thời Minh Mạng (1820-1840) đã có 243 cuộc khởi
nghĩa, thời Tự Đức đã có 40 cuộc khởi nghĩa trong đó có một số cuộc khởi nghĩa

tiêu biểu như: Khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định (1821), Lê Duy Lương ở
Ninh Bình (1833), Lê Văn Khơi ở Gia Định (1833), Cao Bá Quát ở Bắc Ninh
(1854)… Các cuộc khởi nghĩa này thể hiện rõ rằng lúc thực dân Pháp xâm lược
nước ta thì lúc này mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến ở nước ta cũng
đang gay gắt. Về sau các phong trào này lập tức bị triều đình nhà Nguyễn dập
tắt. Cùng với các cuộc khởi nghĩa của nông dân, dân bỏ đi xiêu tán ngày một
nhiều dẫn tới sự bất ổn của xã hội. Lợi dụng tình hình này, giặc cướp nổi lên
hoành hành cướp bóc của cải của nhân dân. Mặt khác, dân ta phải đối phó với
nạn giặc khách từ Trung Quốc tràn sang cướp phá ở vùng Việt Bắc. Đặc biệt là
giặc Tam Đường (Quảng nghĩa đường, Lục thắng đường, Đức thắng đường) tràn
sang cướp phá nhân dân ta ở Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, nạn cướp phá, cướp của, giết
người ngày càng nhiều. Triều đình nhiều lần cử người đi đánh dẹp nhưng không
dẹp được. Nhà Nguyễn bất lực phải cầu viện nhà Thanh càng tạo điều kiện cho
quân Thanh sang cướp phá, nhũng nhiễu nhân dân ta khiến cho đời sống nhân
dân ta ngày càng cơ cực, lầm than. Vì thế phong trào đấu tranh của nhân dân ta
vừa chống xâm lược, vừa chống phong kiến ngày càng mạnh mẽ.
1.2.4. Về quân đội
Trong khi nước ta đứng trước bờ vực của nguy cơ mất nước thì triều đình
nhà Nguyễn vẫn duy trì hệ thống quân đội cũ theo kiểu lạc hậu với ba bộ phận:
Thân binh (bộ vệ vu), cấm binh (phòng thủ hoàng thành), tinh binh hay biến
binh (ở kinh đô và các địa phương). Theo nhận định của người Pháp làm ở thời
Gia Long lúc đó có 115.000 bộ binh và 17.600 bộ binh, theo Đại Nam thực lục
thì năm 1820 số quân là hơn 204.220 người, năm 1840 là 212.290 người. Dưới
thời vua Tự Đức, quân đóng ở kinh thành khoảng 1 vạn người, ở các kinh thành
lớn có khoảng 4000 – 5000 quân, ở tỉnh nhỏ 1000 quân hoặc vài trăm quân. Tuy
nhiên binh lính không được luyện tập thường xuyên, tinh thần quân sĩ bạc
nhược, tình trạng đảo ngũ, bỏ trốn rất nhiều gây ra sự thiếu hụt lực lượng

13

nghiêm trọng trong quân đội. Mỗi năm quân đội chỉ được luyện tập một lần duy
nhất là bắn đại bác. Nhà Nguyễn không tiến hành tổ chức thi võ để lựa chọn
người tài giỏi võ như các triều đại trước đó.
Vũ khí tuy được củng cố nhưng vẫn còn thô sơ chủ yếu là giáo mác. Thời
vua Tự Đức đã cho đúc nhiều đại bác phục vụ cho chiến đấu nhưng hiệu quả
không cao, đại bác bắn rất thấp và ngắn lại nặng nề. Đạn dược không được bảo
quản tốt nên bắn ít nổ, bắn ra như bắn đá. Thành quách của nhà Nguyễn rất kiên
cố vững chắc theo lối vô lăng của Pháp như công sự ở Đà Nẵng, đồn lũy Chí
Hòa ở Nam Kì có giá trị nhiều mặt về kĩ thuật nhưng trong cuộc chiến đấu
chống thực dân Pháp có vũ khí hiện đại thì nó lại là điểm tập hợp vũ khí, lương
thực, quân lính để chờ chết.
Tướng lĩnh phần lớn là kẻ bất tài, ngu dốt không do thi cử tuyển chọn mà
chỉ do mộ được đi lính mà thành quan võ. Sự hèn nhát của quan, lính nhà
Nguyễn lên đến cao độ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1858,
viên suất đội Bùi Văn Phương ở quân thứ Quảng Nam đang đắp lũy Cẩm Lệ
“vẳng nghe tiếng súng ở vùng Sơn Trà đã bỏ chạy quân cũng tan tác tứ phía cả”,
hay như “viên suất đội Bùi Văn Côn đi thuyền giang vận, gặp một thuyền phỉ
chỉ có bốn tên đi tới Văn Côn sợ liền bỏ chạy, mất cả thuyền và khí giới lương
thực”. Sự bạc nhược và hèn nhát của quan quân nhà Nguyễn như vậy thì làm sao
có thể thắng được kẻ thù “đang hung hăng như con hổ đói” - thực dân Pháp.
1.2.5. Về văn hóa, giáo dục
Giữa thế kỉ XIX, hệ tư tưởng nước ta thời kỳ này có những biến đổi to lớn.
Trong khi hệ tư tưởng dân chủ tư sản được xác lập và trở thành một hệ thống thế
giới thì ở nước ta, nho giáo ngày càng suy dồi kìm hãm sự phát triển của đất
nước, nhà Nguyễn đứng đầu là Tự Đức vẫn ra sức củng cố địa vị Nho giáo, dùng
văn học để tuyên truyền cho sự thống trị đẫm máu của chúng tiêu biểu là vua
Minh Mạng đã ra Mười điều huấn dụ, Tự Đức ra “Điều âm thập điều diễn ca” để
truyền rộng rãi học thuyết Nho giáo. Trên cơ sở đó củng cố ý thức hệ phong
kiến đã rạn nứt.
Vào thời điểm này trước nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây, đất

nước cần chấn hưng, phát triển về mọi mặt. Do đó, cần phải đổi mới phương
pháp giáo dục, thi cử. Nhưng nhà Nguyễn vẫn bó gọn nội dung giáo dục, thi cử
trong mấy bộ “Tứ thư”, “Ngũ kinh”. Người học chỉ biết học thuộc lòng, làm thơ,
soạn nhạc theo khuôn sáo, không được học những kiến thức của khoa học tự
nhiên. Hình thức thi cử không được đổi mới vẫn mang nặng lối thi cử theo hình
thức học thuộc lòng, thiếu sáng tạo. Từ giáo dục, thi cử lạc hậu đã đào tạo ra

14
một hệ thống quan lại có đầu óc bảo thủ, ngu dốt, một bộ máy sâu mọt, quan
liêu nặng nề.
Bên cạnh đó, hệ tư tưởng nước ta thời kì này có những biến đổi lớn. Trong
khi hệ tư tưởng Nho giáo đang ngày càng suy đồi thì đạo Thiên Chúa phát triển
mạnh mẽ số lượng tín đố theo đạo ngày một đông. Trước tình hình đó, Tự Đức
đã ban hành nhiều chỉ dụ cấm đạo: Tháng 8 năm 1848, Tự Đức ban bố dụ cấm
đạo lần thứ nhất ra lệnh ban thưởng 30 nén bạc cho kẻ nào bắt được giáo sĩ.
Những giáo sĩ tội nặng thì bị xử theo hình phạt buộc đá vào cổ và vứt xuống
biển. Đối với giáo sĩ bản xứ nếu không bỏ đạo thì bị thích chữ vào mặt và bị đi
đày vùng nước độc. Tháng 9 năm 1851, Tự Đức ban bố dụ cấm đạo lần thứ hai
nhắc lại hình phạt của chỉ dụ lần thứ nhất. Tháng 9 năm 1855 ban bố dụ cấm đạo
lần thứ ba với hình phạt tàn khốc hơn. Tuy nhiên chính sách cấm đạo của vua
không ngăn cản được sự phát triển của đạo Thiên Chúa mà trái lại tạo nên sự
xung đột tôn giáo và tư tưởng gay gắt. Chính sách này cũng là cái cớ trực tiếp để
thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đạo Phật và tín ngưỡng dân gian thời
kì này tiếp tục phát triển.
1.2.6. Về đối ngoại
Nhà Nguyễn thực hiện chính sách hai mặt: Đối với các nước phương Tây,
nhà Nguyễn vẫn duy trì chính sách bế quan tỏa cảng, tăng cường cấm đạo, giết
hại và đàn áp giáo dân. Đối với các nước láng giềng như Lào và Cao Miên, nhà
Nguyễn thực hiện chính sách quân sự cứng rắn. Đối với nhà Thanh, Nguyễn
Ánh cử người sang xin cầu phong, quốc hiệu và cống nạp. Trong bối cảnh lịch

sử lúc bấy giờ muốn giữ được đất nước thì không có cách nào khác là phải ra
sức củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, ra sức phát triển kinh tế, phát triển nền
kinh tế tiểu nông, mở các cửa biển để thông thương buôn bán với bên ngoài học
tập sự tiến bộ của phương Tây để từng bước khôi phục tiềm lực quốc gia dân
tộc. Chỉ có như vậy mới có thể đối phó được với âm mưu và hành động xâm
lược của thực dân Pháp nhưng triều đình nhà Nguyễn đã không làm được điều
đó mà lại thi hành những chính sách thủ cựu, phản động, bảo thủ làm cho tiềm
lực quốc gia suy kiệt, kinh tế lạc hậu, xã hội mâu thuẫn gay gắt.
Tóm lại, các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Nguyễn đã làm cho tiềm
lực đất nước bị suy yếu về mọi mặt đẩy nước ta nhanh chóng trở thành đối
tượng xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, nhất là thực dân Pháp từ lâu
đã có âm mưu và hành động xâm lược hết sức ráo riết và được che đậy dưới
nhiều hình thức khác nhau.

15
Như vậy, trong khi chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nguy
cơ xâm lược bộc lộ rõ thì tình hình nước ta giữa và cuối thế kỷ XIX lâm vào
khủng hoảng sâu sắc, nhà Nguyễn đứng đầu là Tự Đức không đưa ra những
chính sách tích cực để phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, xã hội, đổi
mới giáo dục, thi cử và củng cố lực lượng quân đội. Trái lại, thi hành nhiều
chính sách kìm hãm sự phát triển của đất nước tạo điều kiện thuận lợi cho thực
dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Chính sách của triều Nguyễn đã làm cho
dân “sức mòn, lực kiệt” nội bộ chia rẽ sâu sắc, đặt nhân dân ta vào thế bất lợi
trước cuộc vũ trang của thực dân Pháp và đẩy nguy cơ mất nước từ chỗ “không
tất yếu” thành “tất yếu”.

16
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH ĐẦU HÀNG CỦA TRIỀU ĐÌNH
NHÀ NGUYỄN QUA NỘI DUNG CỦA CÁC HIỆP ƯỚC
ĐÃ KÍ VỚI PHÁP TỪ (1862 - 1884)


2.1. Triều đình nhà Nguyễn đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp (1858 - 1862)
2.1.1. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp
Bước sang thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây tiến dần lên trở thành
những nước đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết đẩy mạnh xâm lược trên phạm vi
thế giới nhất là ở các nước phương Đông trong đó có Việt Nam.
Âm mưu xâm lược Việt Nam của tư bản Pháp đã có từ rất sớm bắt đầu từ
cuối thế kỷ XVII (thông qua các giáo sĩ truyền đạo) và được xúc tiến mạnh mẽ
vào giữa thế kỷ XIX. Xâm lược Việt Nam tư bản Pháp có thuận lợi là được giáo
sĩ và thương nhân truyền đạo, buôn bán trước rất lâu lại được sự tiếp tay từ bên
trong đó là Nguyễn Ánh. Ngay từ đầu thế kỷ XVI, đã có những giáo sĩ đến
truyền đạo tại nước ta, trong thời kỳ đầu hoạt động truyền giáo thuần túy mang ý
nghĩa tôn giáo nên đã được nhà nước phong kiến Việt Nam tạo điều kiện thuận
lợi. Nhưng càng về sau, hoạt động của các giáo sĩ dần có sự biến tướng - nhuốm
màu chính trị, họ đã cấu kết với tư bản Pháp bằng cách: các quan chức thực dân
cung cấp phương tiện, tài chính cho các giáo sĩ, đổi lại họ sẽ nhận được thông
tin về Việt Nam thông qua các giáo sĩ. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX nhiều
quan chức thực dân đã đội lốt thầy tu, trực tiếp xâm nhập vào nước ta đến dò la
tình hình tiêu biểu như : Adran (Bá đa lộc) người làm trung gian cho Nguyễn
Ánh kí với chính phủ Pháp hòa ước Vecxai (1787) Từ đó mọi vấn đề nội trị,
ngoại giao của đất nước đã được các giáo sĩ ghi chép tỉ mỉ, nhất là tình hình
khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ.
Mặc dù biết được âm mưu đó của thực dân Pháp xong nhà Nguyễn lại
vướng mắc ở chỗ là nhờ có sự giúp đỡ của thực dân Pháp, năm 1802 Nguyễn
Ánh mới lật đổ được vương triều Tây Sơn và thiết lập nên nhà Nguyễn. Vì nhớ
đến công lao của Bá-Đa-Lộc, vua Gia Long đã không bức hại đạo và cũng
không nâng đỡ đạo, điều này đã tạo điều kiện cho các giáo sĩ mở rộng địa bàn
hoạt động khắp cả nước. Đó cũng chính là lí do tại sao về sau nhà Nguyễn đã
phải áp dụng chính sách cấm đạo. Thế nhưng, triều đình càng cấm đạo thì các

giáo sĩ phương Tây càng tỏ ra ngoan cố hoạt động ráo riết hơn.
Vào những năm 50 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản Pháp phát triển ngày
càng mạnh mẽ, nhu cầu về thị trường và thuộc địa ngày càng lớn, do đó chúng

17
đẩy mạnh hơn nữa quá trình xâm lược nước ta và có những hành động như: do
thám một số nơi ở bờ biển nước ta, tạo áp lực buộc ta phải mở cửa buôn bán ở
cửa biển Đà Nẵng và một số nơi khác, đưa quốc thư tới triều đình nhà Nguyễn
lấy danh nghĩa thương thuyết về truyền đạo để chuẩn bị gấp rút xâm lược Việt
Nam rồi bắn phá các pháo đài của ta ở Đà Nẵng. Đến tháng 9 năm 1858, viện cớ
bênh vực giáo sĩ, chống lại việc triều đình nhà Nguyễn ngược đãi các giáo sĩ và
cự tuyệt việc nhận các quốc thư của Pháp, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược
nước ta.
Như vậy ngay từ sớm, thực dân Pháp đã có âm mưu xâm lược nước ta và
chính những chính sách sai lầm của triều đình nhà Nguyễn cả về đối nội, đối
ngoại đặc biệt là chính sách cấm đạo đã tạo cái cớ và điều kiện thuận lợi để thực
dân Pháp thực hiện âm mưu đó.
2.1.2. Thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, đánh chiếm Gia Định và phong
trào đấu tranh của nhân dân ta
Sau một thời gian chuẩn bị, từ giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp gấp rút hành
động xâm lược nước ta.
Sáng sớm ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha chính thức nổ
súng xâm lược nước ta tại Đà Nẵng. Kế hoạch của chúng là đánh nhanh, thắng
nhanh để chiếm lấy Đà Nẵng làm căn cứ bàn đạp đánh lên kinh thành Huế buộc
triều đình đầu hàng. Sở dĩ Pháp chọn Đà Nẵng là nơi tấn công đầu tiên vì thời
điểm 1858, Pháp đang cùng với Anh liên minh gây chiến tại Quảng Đông Trung
Quốc, lực lượng Pháp đánh Việt Nam là rất nhỏ. Do đó họ phải liên kết với Tây
Ban Nha cùng nhau đánh Việt Nam. Tuy nhiên ban đầu họ cũng chưa muốn
chiếm ngay mà chủ trương uy hiếp triều đình Huế phải mở cửa và kí kết các
điều ước có lợi cho họ.Với số quân ít, không chắc thắng, nên họ đành chọn

chiến lược đánh bất ngờ, kinh thành Huế nằm phía trong phá Tam Giang, muốn
vượt qua sẽ thiệt hại rất lớn. Đánh các vùng khác thì hiệu quả bắt phải đàm phán
không cao nên họ quyết định chọn đánh vị trí gần kinh thành và có giá trị kinh tế
nhất là khu vực Đà Nẵng. Hơn nữa, Đà Nẵng nằm giữa Huế và đồng bằng phía
Nam, có bãi biển rộng, tương đối sâu dễ cho hải quân đổ bộ và bắn phá, Đà
Nẵng còn có Hội An là thương cảng lớn nhất khu vực lúc đó, ở đây lại có nhiều
người theo đạo Thiên Chúa nên sẽ ủng hộ họ, nếu đánh thắng ở đây thì một
trong những nơi ảnh hưởng trực tiếp là kinh thành Huế, do đó Pháp và Tây Ban
Nha quyết định chọn Đà Nẵng là nơi tấn công đầu tiên. Tuy nhiên, vừa đổ bộ lên
bán đảo Sơn Trà, quân Pháp đã vấp phải sức kháng cự của quân đội triều đình
do Nguyễn Tri Phương chỉ huy.

18
Trên mặt trận Đằ Nẵng, ngay khi chiến sự xảy ra quan quân triều đình phối
hợp với nhiều đội quân nông dân đánh giặc. Tại đây, Nguyến Tri Phương đã thực
hiện lối đánh “phòng thủ”, đắp đồn lũy và chiến thuật “vườn không nhà trống”
nhằm cắt đứt con đường bóc lột lương thực, binh lực của địch. Kết quả, sau 5 tháng
bị giam chân tại chỗ, khó khăn ngày càng chồng chất, liên quân Pháp - Tây Ban
Nha phải rút phần lớn quân khỏi Đà Nẵng, đi vào nam mở mặt trận mới ở Gia Định
(2/1859). Kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch đã bị thất bại. Sáng ngày
10/02/1859 tàu chiến Pháp - Tây Ban Nha tập trung ở Vũng Tàu, bắn phá các pháo
đài phòng thủ của ta như Phúc Thắng, Lương Thiện, Phúc Mỹ… mở đường ngược
sông Cần giờ, vừa tiến vừa bắn phá các đồn hai bên bờ nhưng vấp phải sự chống cự
khá quyết liệt của quan quân triều đình và nhân dân. Sáng 17/2, quân địch mới
chiếm xong thành Gia Định. Tháng 3/1860, Nguyễn Tri Phương được điều động từ
Đà Nẵng vào chỉ huy mặt trận Gia Định. Ông huy động quân dân gấp rút xây dựng
hệ thống phòng ngự kiên cố, lấy đại đồn Chí Hòa làm đại bản doanh, tập trung
quân sĩ, vũ khí lương thực để phòng giặc đánh rộng ra.
Về phía Pháp. Cuối tháng 2/1861 sau khi cùng các nhà tư bản phương Tây
can thiệp vũ trang vào Trung Quốc, chúng dồn quân vào mặt trận Gia Định. Không

trụ nổi trước hỏa lực của địch, quân Nguyễn Tri Phương thất thủ. Sau đó, quân địch
đánh rộng ra nhiều nơi lần lượt là ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định
Tường, Biên Hòa) và một tỉnh miền Tây Nam Kì (Vĩnh Long) bị Pháp chiếm.
Mặc dù vậy nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân không lúc nào ngớt.
Cuối năm 1861, tiếp theo trận đánh của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy
tàu Ét-pê-răng trên sông Nhật Tảo, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ bùng nổ,
nhiều trung tâm kháng chiến hình thành tiêu biểu là căn cứ Gò Công (huyện Tân
Hòa, Gia Định) của Trương Định. Trong năm 1862, phong trào nhân dân chống
Pháp dâng cao ở các quận, huyện và thị trấn thuộc hai tỉnh Gia Định và Định
Tường. Tình hình đó làm cho địch hết sức hoang mang, lo sợ. Chính lúc đó,
triều đình Huế đã kí điều ước 5/6/1862, cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kì và đảo
Côn Lôn cho Pháp. Mục đích của triều đình Huế là muốn sớm bắt tay với thực
dân Pháp để đối phó với phong trào nông dân miền Bắc đang trên đà phát triển.
Như vậy, chỉ sau ba năm kể từ khi kéo quân vào xâm lược Gia Định
đến đầu năm 1862, thực dân Pháp đã mở rộng địa bàn chiếm đóng ra ba tỉnh
miền Đông Nam Kì là Gia Định, Định Tường và Biên Hòa và một phần tỉnh
Vĩnh Long.


19
2.1.3. Chủ trương của triều đình nhà Nguyễn - Điều ước Nhâm Tuất
(5/6/1862)
Trong khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, tình hình nước ta có nhiều biến đổi
trên các lĩnh vực, chính trị thì rối ren, triều đình nhà Nguyễn vẫn một mực thi
hành chính sách bảo thủ, phản động, triệt để thực hiện chủ trương giải quyết
bằng phương pháp hòa hoãn. Kinh tế thì tiêu điều, xơ xác, đời sống nhân dân vô
cùng đói khổ. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn trong xã hội gay gắt, nhân dân
nổi dậy khắp nơi. Bên cạnh cuộc đấu tranh chống phong kiến, nhân dân ta còn
đấu tranh chống Pháp. Vì vậy, sau khi thực dân Pháp xâm lược trên đất nước ta
vẫn duy trì hai trận tuyến đấu tranh: khởi nghĩa nông dân chống phong kiến và

chiến tranh chống áp bức dân tộc.
Đứng trước hai trận tuyến đấu tranh đó, triều đình Tự Đức đã giải quyết
như sau:
Thứ nhất: Nhà Nguyễn vì quyền lợi giai cấp không kiên quyết đấu tranh
chống xâm lược mà lựa chọn con đường thỏa hiệp và từng bước đầu hàng giặc,
đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Cụ thể:
Ngay từ khi liên minh Pháp - Tây Ban Nha vừa mới xâm phạm Đà Nẵng, lòng
dân cả nước từ Bắc chí Nam đã sôi sục chí căm thù giặc. Nhưng trái lại, ngay từ
đầu tập đoàn phong kiến đã không muốn đi với dân trong cuộc đấu tranh này. Sau
khi thất bại ở Đà Nẵng, Gia Định, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang kế
hoạch đánh lâu dài, trong khi đó nhà Nguyễn không có quyết tâm chống giặc
nên không thể tìm ra mưu kế gì đối phó lâu dài với giặc. Trước sức tấn công ồ ạt
của quân giặc, ngay từ đầu quan quân triều đình chỉ lo phòng thủ mà không tấn
công, dần tỏ ra bất lực, trong nội bộ đã sớm có sự phân hóa thành hai phái: chủ
chiến và chủ hòa với đa số theo phe chủ hòa. Điều đó khẳng định một thực tế là
ngay từ đầu, đại bộ phận thuộc hàng ngũ cầm quyền đã mang nặng tư tưởng thất
bại, sợ giặc.
Khi Pháp tấn công Đà Nẵng, chúng chỉ có 2000 quân và 14 tàu chiến.
Trong khi triều đình Huế gồm 2000 quân đóng tại chỗ, 2000 quân ứng cứu và
lực lượng kháng chiến của ta rất đông đảo nhưng quan quân triều đình đều “án
binh bất động”. Tháng 2 năm 1859 khi đại bộ phận quân Pháp rút vào Gia Định,
chỉ để lại Đà Nẵng một lực lượng quân sự nhỏ bé nhưng triều đình chỉ lo phòng
thủ chứ không tấn công. Điều này đủ nói lên sự thiếu quyết tâm tiêu diệt địch
của triều đình phong kiến. Khi Pháp đánh chiếm Gia Định, chúng có 2.200 quân,
16 tàu chiến, ngược lại quân triều đình có 1000 quân với hàng nghìn quân tiếp
viện đủ khí giới và 5.800 quân ứng nghĩa của dân cùng với lương thực cho 1 vạn

20
quân đóng giữ trong 1 năm. Nhưng triều đình vẫn không chịu đánh giặc, giặc tấn
công thì chống cự yếu ớt, chạy dài, giặc chiếm Gia Định một cách dễ dàng,

nhanh chóng. Tháng 2/1860, Pháp sa lầy ở Trung Quốc phải điều động quân từ
miền nam sang, chỉ còn lại 800 tên do một đại úy chỉ huy và phải dàn mỏng ra
10 km. thế mà nhà Nguyễn vẫn thực hiện chiến thuật “ án binh bất động”, không
đánh cũng không hòa. Hậu quả là hàng ngàn quân tập trung trong đại đồn, chỉ
rộng ba cây số vuông làm mục tiêu cho đại bác giặc.
Thứ hai: Đứng trước những khó khăn chồng chất về kinh tế, xã hội nhiều tư
tưởng duy tân nhằm đưa đất nước ta ra khỏi ngõ cụt đã không được nhà Nguyễn
chấp nhận. Cuối cùng, để cứu vãn quyền lợi giai cấp, chúng đã hèn hạ phản bội
quyền lợi nhân dân, dân tộc chọn con đường cắt đất đầu hàng, trông chờ vào
“lương tâm và hảo ý” của giặc. Từ hướng giải quyết trên đã đưa đến việc nhà
Nguyễn vội vã kí hiệp ước ngày mồng 5 tháng 6 năm 1862, cắt ba tỉnh miền Đông
Nam Kì cho Pháp đánh dấu bước đầu hàng đầu tiên của triều đình nhà Nguyễn.
- Điều ước Nhâm Tuất (5/6/1862)
Ngay từ đầu tháng 5/1862, để bảo vệ quyền lợi cho mình, vua Tự Đức đã
chủ động giảng hòa với giặc. Nhận được tin này, quân Pháp vô cùng mừng rỡ vì
đây là một cơ hội bất ngờ giúp chúng thoát khỏi tình trạng khó khăn này.
“Người Pháp đã bắt đầu thấy cần phải chinh phục lại những tỉnh đã chinh phục.
Nhưng trong lúc không ngờ Tự Đức xin giảng hòa thì Tự Đức lại xin giảng
hòa”[ 5, 74].
Hiệp ước Nhâm Tuất được kí kết trên một chiếc tàu chiến Duprè của Pháp
đậu ở bến Sài Gòn đại diện phía Pháp do Bonard (Đô đốc chỉ huy liên quân
Pháp – Tây Ban Nha) cùng Gutchiene (Đại tá chỉ huy trưởng đạo quân Tây Ban
Nha ở Nam Kì) và đại diện triều đình Nguyễn do Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Thiệp, toàn quyền khâm sai của Tự Đức. Sau nhiều ngày thương thuyết, đến ngày
05/06/1862 thì hiệp ước được kí kết được mang danh là “ Hiệp ước hòa bình và
hữu nghị”. Nội dung gồm 12 khoản quy tụ những điểm sau.
Điều khoản III xác định rằng, Tự Đức với danh nghĩa quốc vương nước
Đại Nam nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường và
cả Côn Đảo. Phần hai của điều khoản III và toàn bộ điều khoản X xác định
quyền kiểm soát toàn bộ đường thủy trên khắp lục tỉnh. Điều khoản IV xác định

sự lệ thuộc về ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn vào quyền lợi tư bản Pháp
và thông qua đó, Pháp giành được quyền chủ động trong âm mưu biến Việt Nam
thành thuộc địa của mình. Điều khoản V xác định, tư bản Pháp có quyền tự do
buôn bán ở ba cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên đồng thời nhà Nguyễn

×