Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

GIÁO DỤC KHOA CỬ VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.02 KB, 52 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐỖ THỊ THƯƠNG





GIÁO DỤC KHOA CỬ VIỆT NAM
DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC






ĐỖ THỊ THƯƠNG





GIÁO DỤC KHOA CỬ VIỆT NAM
DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN



CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: Ths. Dương Hà Hiếu





SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy
giáo Th.s Dương Hà Hiếu, người trực tiếp hướng dẫn em nghiên cứu và hoàn

thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn tới ban giám hiệu trường Đại học Tây Bắc,
Thư viện Trường Đại học Tây Bắc, Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô giáo
trong khoa Sử - Địa, cùng các phòng ban chức năng đã giúp em trong quá trình
nghiên cứu.
Qua đây em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo chủ
nhiệm, các bạn sinh viên lớp K50 - ĐHSP Lịch sử, cùng toàn thể các bạn sinh
viên khoa Sử - Địa cũng rất quan tâm tạo cho em những điều kiện thuận lợi
trong quá trình nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì nhiều lí do khác nhau nên khóa luận
chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của
các thầy cô giáo và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn.

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Đỗ Thị Thương





MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu, đóng góp của đề tài 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Mục đích nghiên cứu 3

3.3. Phạm vi nghiên cứu 3
3.4. Đóng góp của đề tài 3
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4
4.1. Cơ sở tư liệu 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Bố cục của đề tài 4
NỘI DUNG 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN5
1.1. Tình hình kinh tế Đại Việt 5
1.1.1. Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp 5
1.1.2. Sự phát triển các ngành thủ công nghiệp 6
1.1.3. Kinh tế thương nghiệp 6
1.2. Tình hình chính trị 7
1.2.1. Tổ chức bộ máy nhà nước 7
1.2.2. Tổ chức quân đội 8
1.2.3. Luật pháp 9
1.3. Tình hình văn hóa - xã hội 10
1.3.1. Tình hình văn hóa 10
1.3.2. Tình hình xã hội 12
CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC KHOA CỬ VIỆT NAM THỜI LÝ - TRẦN 13
2.1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời khoa cử Việt Nam thời Lý - Trần 13
2.2. Nội dung chế độ giáo dục khoa cử thời Lý - Trần 16
2.3. Sự phát triển của chế độ khoa cử thời Lý - Trần 23
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ THÀNH TỰU TIÊU BIỂU CỦA GIÁO DỤC
KHOA CỬ VIỆT NAM DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN 32
3.1. Những gương mặt khoa bảng tiêu biểu của Việt Nam dưới thời Lý – Trần.
32
3.1.1.Gương mặt khoa bảng tiêu biểu thời Lý 32
3.1.2. Gương mặt khoa bảng tiêu biểu thời Trần. 33
3.2. Tác động của giáo dục khoa cử. 34

3.2.1. Đối với tổ chức bộ máy nhà nước 35
3.2.2. Đối với sự phát triển kinh tế 37
3.3.3. Đối với sự phát triển văn hóa, tư tưởng 38
3.3.4. Đối với sự phát triển xã hội 42
KẾT LUẬN 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….46
















1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia giàu truyền thống hiếu học và coi trọng nhân tài.
Sự đề cao việc học, tôn vinh người thầy, coi trọng bậc hiền tài đã tạo nên truyền
thống hiếu học hàng ngàn năm ở nước ta. Từ xưa đến nay không ai có thể phủ
nhận được vai trò của những bậc anh tài đứng ra giúp vua trong việc quản lí đất
nước. Đó là những người có tài năng, có nhân cách góp phần gây dựng cơ cấu

xã hội và xây dựng đất nước.
Bởi vì một lẽ nhân tài là tinh hoa của đất nước, là nguyên khí của quốc gia.
Để tìm ra và tuyển chọn bộ máy lãnh đạo đất nước các triều đại phong kiến Việt
Nam đa phần là thông qua chế độ khoa cử, tức là thông các kỳ thi để tuyển chọn
nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục khoa cử Việt Nam có bước
đầu khởi sắc đầy gian truân.
Trong suốt 1000 năm thời Bắc thuộc chữ Hán được các quan lại Trung Hoa
dạy cho người Việt ở mức độ đủ nhưng chỉ nhằm mục đích đào tạo tay sai phục
vụ đắc lực cho bộ máy cai trị của chúng hay những thuộc hạ thừa hành cần mẫn
cán mà thôi. Đến thời tự chủ qua các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê còn non trẻ,
do phải chỉnh đốn nội bộ, đánh dẹp thù trong giặc ngoài không có nhiều thời
gian giành cho việc học, chính sách để chăm lo đến việc học hành thi cử đều phó
thác cho các nhà sư.
Đến triều Lý - Trần do sự phát triển về kinh tế, xã hội, văn hoá đã dẫn đến
những bước phát triển nhảy vọt, của nền giáo dục, tạo nên nền móng cho chế độ
khoa cử Việt Nam. Qua các khoa thi đã tuyển chọn nhân tài giúp vua xây dựng
bộ máy chính quyền, quản lý đất nước và nhân dân. Có thể nói hình thức thi, nội
dung thi của các kỳ thi ngày càng hoàn thiện góp phần không nhỏ vào việc ổn
định trật tự xã hội, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia dân tộc. Việc lựa chọn
chế độ khoa cử không những góp phần hoàn chỉnh thể chế của một đất nước,
nhất là khi đến thời Lý - Trần ý thức dân tộc, ý thức giai cấp ngày càng cao
muốn sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc.
Chế độ giáo dục khoa cử ra đời trở thành yêu cầu bức thiết và là tất yếu.
Hơn nữa việc ra đời của chế độ khoa cử thời Lý - Trần đã làm nên thay đổi to
lớn trong lịch sử dân tộc, góp phần nâng cao dân trí, đã tạo nên tầng lớp trí
thức góp phần củng cố nền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Thời
Lý - Trần đã mở đầu cho chế độ khoa cử nước ta, từ đây giáo dục khoa cử đã
hình thành và phát triển, có vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí đào

2

tạo nhân tài cho đất nước, mở đường cho chế độ giáo dục sau này. Vì: hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí mạnh thế nước mạnh rồi lên cao.
Nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp…nguyên khí cường thịnh thì
con người được hưởng thọ lâu dài, nhân tài đông đảo thì quốc gia được thái bình
vững chãi.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập khoa
cử thời kỳ này một cách trọn vẹn, hoàn chỉnh và có hệ thống.Vì vậy tôi lựa chọn
“Giáo dục khoa cử Việt Nam dưới thời Lý – Trần” làm khoá luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chế độ khoa cử Việt Nam dưới thời Lý - Trần nhận được rất nhiều sự quan
tâm của giới nghiên cứu, cũng được đề cập đến trong nhiều tác phẩm, công trình
nghiên cứu. Ở mỗi góc độ khác nhau đã có những công trình nghiên cứu khác nhau
về vấn đề này trong đó có thể kể đến một số tác phẩm quan trọng cụ thể như sau:
+ Trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư”, tập I của tác giả Ngô Sĩ Liên -
Nhà xuất bản Văn hóa thông tin đã đề cập một cách khái quát toàn bộ các khoa
thi thời Lý – Trần.
+ Cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, nhà xuất
bản Sử học tập 3 in năm 1961 trong phần “ khoa mục chí” đã đề cập một cách
đầy đủ các khoa thi cũng như quy chế, cách thức, nội dung, hình thức, luật lệ
của các kỳ thi và những người đỗ đầu các khoa thi thời Lý – Trần.
+ Cuốn “Thi cử, học vị học hàm dưới các triều đại phong kiến Việt Nam”
của Đinh Văn Niêm nhà xuất bản Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông
Tây in năm 2011 đã đề cập một cách rõ ràng các khoa thi, và tiểu sử của những
người đỗ đầu các khoa thi dưới thời Lý - Trần.
+ Hay cuốn “Giáo dục – khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến
và thời Pháp thuộc” chuyên khảo của nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh in năm 2011. Trong sách có chương 3: “Lịch sử khoa cử Việt Nam
thời phong kiến” đã viết đầy đủ các khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi
cuối cùng năm 1919. Trong đó có trình bày về khoa cử thời Lý – Trần.
+ Cuốn “Chuyện kể các nhà khoa bảng trong lịch sử Việt Nam”, nhà xuất

bản Thanh niên in năm 2010 các tác giả cũng đã giới thiệu những gương mặt và
tiểu sử của các nhà khoa bảng thời phong kiến. Trong đó có viết về một số
gương mặt khoa bảng tiêu biểu thời Lý - Trần.
+ Cuốn “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và phương
pháp dạy học lịch sử” của Tiến sĩ Phạm Văn Lực (chủ biên). Trong cuốn sách có

3
chuyên đề “Thành tựu của quốc gia phong kiến tập quyền Việt Nam trong các thế
kỉ XI - XV”. Chuyên đề này đã làm rõ được thành tựu của giáo dục khoa cử Việt
Nam dưới thời Lý - Trần, cũng như đóng góp của khoa cử trong thời kì này.
+ Cuốn “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần” của viện sử học (1981),
Nhà xuất bản khoa học Hà Nội đã khái quát một số nét về giáo dục khoa cử thời
Lý – Trần, cũng như tác động của giáo dục khoa cử trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội.
+ Ngoài ra, trong cuốn “Giai thoại các vị Đại khoa Việt Nam” vủa Vũ
Ngọc Khánh nhà xuất bản thanh niên Hà Nội được in vào năm 2001 đã khái quát
một cách đầy đủ tiểu sử của các vị đại khoa Việt Nam. Trong đó có viết về các
vị đại khoa thời Lý - Trần.
Tất cả các tác phẩn trên đều ít nhiều đã đề cập đến những góc độ, khía cạnh
khác nhau của giáo dục thời Lý - Trần. Đồng thời đó cũng là cơ sở định hướng
giúp tôi tiếp tục đi vào nghiên cứu khoá luận này, làm sáng tỏ nhiều vấn đề khoa
học mà những công trình trước chưa có điều kiện thưc hiện.
Trên tinh thần kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu, các tác giả
đi trước tôi tiếp tục nghiên cứu và hoàn thành khoá luận nhằm góp phần mang
lại cái nhìn tổng thể hơn về chế độ giáo dục Việt Nam dưới thời Lý - Trần.
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu, đóng góp của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chế độ khoa cử Việt Nam thời Lý - Trần.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Khái quát lại một cách hệ thống những nét cơ bản về sự ra đời, phát triển

và thành tựu của khoa cử Việt Nam thời Lý - Trần.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu chế độ khoa cử trên lãnh thổ
Đại Việt thời Lý - Trần.
Về thời gian: Từ năm 1009 đến năm 1400 là khoảng thời gian mà nhà nước
Lý - Trần tiến hành thực hiện chế độ khoa cử.
3.4. Đóng góp của đề tài
Nhìn nhận đánh giá được vai trò của khoa cử đối với sự phát triển đất
nước nói chung và nền giáo dục nói riêng.

4
Làm phong phú thêm nguồn tư liệu về vấn đề giáo dục ở Việt Nam.
Nghiên cứu đề tài này giúp cho chúng ta thấy được những bài học kinh
nghiệm về những chính sách giáo dục của một thời kì lịch sử, qua đó góp phần
giải quyết tốt các vấn đề về giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Phục vụ cho quá trình giảng dạy ở trường trung học phổ thông.
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tư liệu
Để hoàn thành đề tài này chúng tôi đã sử dụng những nguồn tư liệu sau:
Các tài liệu về chính sử, thông sử.
Các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử.
Các tạp chí lịch sử, sách báo về sử học.
Các tư liệu điện tử.
Tất cả những tư liệu trên đều là nguồn tài liệu quý báu cho việc nghiên cứu
các vấn đề đặt ra trong đề tài của chúng tôi.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lí luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước đề tài này được thực hiện bằng các phương pháp chủ yếu
như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, đồng thời tiến hành phân loại, so
sánh, đối chiếu các sự kiện để nhìn nhận, đánh giá về chế độ khoa cử Việt Nam

thời Lý - Trần.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát tình hình Việt Nam dưới thời Lý - Trần.
Chương 2: Chế độ khoa cử Việt Nam dưới thời Lý - Trần.
Chương 3: Một số thành tựu tiêu biểu của giáo dục khoa cử Việt Nam
dưới thời Lý - Trần.


5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI LÝ - TRẦN
1.1. Tình hình kinh tế Đại Việt
Ngay sau khi được thành lập triều đại Lý - Trần bắt tay ngay vào công cuộc
xây dựng nhà nước và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ.
1.1.1. Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
Dưới thời Lý - Trần ruộng đất bao gồm hai hình thức sở hữu chính đó là
ruộng đất sở hữu của nhà nước và ruộng đất sở hữu tư nhân, đây chính là chiếc
chìa khóa để mở ra cánh cửa của các triều đại phong kiến. Trong đó ruộng đất
thuộc quyền sở hữu của nhà nước bao gồm: Ruộng quốc khố là ruộng dùng
riêng cho nhà vua và hoàng cung, đồn điền là đất khai hoang ở ven sông và ven
biển, ruộng tịch điền có từ thời Tiền Lê nhưng vẫn tiếp tục duy trì. Hàng năm
vào mùa xuân vua làm lễ tế thần nông cầm cày cày vài đường tượng trưng để
khuyến khích nông dân sản xuất, còn ruộng sơn lăng là ruộng dùng cho việc thờ
phụng tổ tiên dòng họ của nhà vua, ruộng thác đao và ấp thang mộc là loại ruộng
đất vua ban thưởng cho các đại thần. Sang đến thời Trần ruộng đất thuộc quyền
sở hữu của nhà nước còn có thêm ruộng thái ấp. Tiếp theo là ruộng sở hữu tư
nhân thời kỳ này tương đối phát triển như ruộng chùa, ruộng sở hữu nhỏ của

nông dân đã phổ biến hay ruộng đất tư hữu của địa chủ và ruộng đất điền trang.
Không những thế, là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu,
triều đại Lý - Trần rất quan tâm đến nông nghiệp như mở rộng diện tích đất canh
tác cùng với những chính sách bảo vệ sức sản xuất, kêu gọi người phiêu tán trở
về quê cũ làm ăn. Đặc biệt nhà nước rất chú ý đến việc bảo vệ nhân đinh nguồn
lao động chủ yếu của xã hội, cấm buôn bán hoàng nam làm nô tì. Ngoài ra nhà
nước còn thi hành nhiều chính sách trọng nông, khuyến nông. Vua cày ruộng
tịch điền, thăm gặt hái, ban hành chính sách ngụ binh ư nông. Hay nhà nước quy
định cấm trộm trâu bò vì đây là sức kéo trong nông nghiệp để tránh ảnh hưởng
đến sản xuất, nếu ai vi phạm sẽ bị trừng trị nặng. Gặp những năm mất mùa đói
kém vua giảm thuế phát chẩn cứu đói cho dân nghèo. Ngoài ra, để thúc đẩy phát
triển nông nghiệp cả hai triều đại hết sức quan tâm đến công tác trị thủy và công
việc thủy lợi như xây dựng các công trình thủy nông, thành lập các cơ quan
chuyên trách như Hà đê sứ, cho đắp và đào sông, kênh. Từ đó sản xuất nông
nghiệp được ổn định và phát triển nhiều năm mùa màng bội thu.

6
Như vậy, với những chính sách và biện pháp khuyến nông tích cực trên đã
có tác dụng mạnh mẽ đối với phát triển kinh tế nông nghiệp nền kinh tế chủ đạo
của cư dân Đại Việt, góp phần ổn định đời sống nhân dân tạo cơ sở vững vàng
cho công cuộc xây dựng đất nước cùng với những thắng lợi trong công cuộc
chống ngoại xâm. Từ đây đòi hỏi phải tạo nên những ông vua anh minh quan
tâm đến kinh tế nông nghiệp hay giải quyết các mối quan hệ về kinh tế.
1.1.2. Sự phát triển các ngành thủ công nghiệp
Bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp phát triển dưới thời độc lập tự chủ Lý -
Trần thì các ngành thủ công nghiệp càng có điều kiện phát triển và bao gồm hai
bộ phận là: thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp dân gian trong đó.
Thủ công nghiệp nhà nước gồm các quan xưởng hay cục bách tác với
những người thợ khéo tay được gọi là thợ bách tác sản xuất phục vụ riêng cho
nhu cầu vua như đúc tiền, chế tạo vũ khí, làm các phẩm phục triều đình. Điều

đặc biệt sản phẩm làm ra không được tự tiện trao đổi buôn bán trên thị trường.
Bên cạnh thủ công nghiệp nhà nước là thủ công nghiệp dân gian bao gồm:
các ngành thủ công nghiệp truyền thống như đồ gốm, rèn đúc đồng, nghề làm
giấy, khắc bản in, nghề mộc, xây dựng và nghề khai khoáng có những bước
phát triển mới. Với những người thợ thủ công là những người nông dân kiêm
thợ thủ công, thợ thủ công kiêm thương nhân. Họ sản xuất và buôn bán trong
các phường phố ở kinh thành và các làng quê. Sản phẩm làm ra để tự túc hoặc
có thể trao đổi buôn bán trên thị trường và có tác dụng nhất định đối với phát
triển hàng hóa. Trong đó, nổi tiếng nhất là gốm Bát Tràng được dùng làm cống
phẩm ngoại giao và buôn bán với bên ngoài. Từ đây hình thành các làng nghề
truyền thống như: nghề dệt ở làng Nghi Tàm, nghề gốm ở Bát Tràng (Gia Lâm,
Hà Nội) hay Thổ Hà và Phủ Lãng (Bắc Ninh), nghề rèn sắt ở Tùng Lâm và Hoa
Chàng (Diễn Châu, Nghệ An) hay ở Vân Chàng (Nam Định), nghề đúc đồng ở
làng Bưởi (Gia Lương, Bắc Ninh)….
Tóm lại, dưới thời Lý - Trần các nghành thủ công đã thúc đẩy nền kinh tế
hàng hóa đồng thời đặt ra một yêu cầu bức thiết đó là nâng cao trình độ cũng
như tay nghề của các thợ thủ công.
1.1.3. Kinh tế thương nghiệp
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, kinh tế thương
nghiệp thời Lý - Trần cũng hết sức thịnh đạt, hoạt động thương nghiệp cũng
được mở rộng. Đồng tiền có vai trò quan trọng trong hoạt động nội thương và
ngoại thương là phương tiện chủ yếu để lưu thông hàng hóa.

7
Trước hết là hoạt động nội thương diễn ra sôi nổi xuất hiện nhiều chợ ở các
địa phương, mỗi huyện cũng có đến vài chợ, phiên chợ này họp lệch phiên chợ
kia. Không những thế còn hình thành các trung tâm buôn bán, trao đổi hàng hóa
để thu hút thương nhân và tiêu dùng. Trong đó, Thăng Long trở thành trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất của Đại Việt lúc bấy giờ.
Bên cạnh đó hoạt động ngoại thương khá phát triển và phồn vinh, xuất hiện

nhiều trung tâm buôn bán với nước ngoài như cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), Càn
Hải (Nghệ An), Hội Thống (Hà Tĩnh) hàng hóa khá nhiều thường là lâm thổ
sản như tràm hương đã thu hút rất nhiều thương nhân nước ngoài vào buôn bán
như Trung Quốc, Inđônêxia.Ngoài ra, các dân tộc ít người vùng biên giới cũng
có buôn bán với nhau.
Như vậy, thời Lý - Trần dưới tác động của những chính sách cũng như sự
chỉ đạo của nhà nước cộng với tinh thần ý thức của bản thân nhân dân Đại Việt
đã xây dựng được cho mình một nền kinh tế tự chủ, tương đối toàn diện đảm
bảo đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống cũng như tạo tiềm lực
cho sự phát triển lâu dài, thịnh vượng của đất nước. Đồng thời, sự phát triển của
nền kinh tế ấy cũng là cơ sở, tiền đề thuận lợi cho sự phát triển những yếu tố
khác của đất nước trong đó yếu tố được coi trọng hàng đầu đó chính là yếu tố
con người. Yếu tố con người có tốt thì mới có cơ sở xây dựng được một đất
nước vững mạnh. Muốn có con người tốt thì con người ấy phải được trải qua
đào tạo, giáo dục và tuyển chọn kĩ lưỡng. Và như vậy, sự ra đời của một nền
giáo dục khoa cử để đào tạo con người là hoàn toàn tất yếu.
1.2. Tình hình chính trị
Bên cạnh công cuộc phát triển kinh tế triều đại Lý - Trần tích cực xây dựng
bộ máy nhà nước.
1.2.1. Tổ chức bộ máy nhà nước
Về mặt chính quyền trung ương: đứng đầu nhà nước trung ương tập quyền
là vua theo thể chế cha truyền con nối. Giúp vua trị nước là hệ thống quan văn
võ gồm nhiều cấp bậc khác nhau với số lượng đại thần không nhất định thường
bao gồm Tể tướng, Á tướng, Tam thái (thái sư, thái phó, thái bảo), Tam thiếu
(thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo) cùng thái úy. Đến thời Trần còn có thêm chức vụ
Tư đồ. Bên cạnh đó còn có các chức vụ quan trọng khác như Tả hữu phúc tâm,
Tả hữu Gián nghị đại phu, tả hữu tham tri Đây là những chức gần gũi thân
vua, thân cận vua, khuyên vua lúc cần.

8

Dưới cấp đại thần là một hế thống là một cơ quan chỉ đạo các hoạt động
của nhà nước gọi hành khiển. Tuy nhiên, dưới thời Trần hành khiển được tổ
chức thành ti. Giúp việc các hành khiển ti là đài, viện, ti cục (Ngự sử đài, Hàn
lâm viện, Quốc tử giám, khuyến nông ti). Tuy nhiên dưới thời Lý các quan lại
đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Nhưng đến thời Trần đều do vương hầu, quý
tộc Trần nắm giữ.
Tiếp theo là chính quyền địa phương được tổ chức và xây dựng thành một
hệ thống chặt chẽ. Dưới thời Lý cả nước chia thành 24 phủ lộ. Dưới phủ lộ là
huyện (châu), hương, xã. Đứng đầu phủ lộ châu có các chức tri phủ, phán phủ,
tri châu, đứng đầu huyện là Huyện lệnh. Qua đó cho thấy nhà Lý đã tiến hành
cuộc cải tổ hành chính quy mô lớn, có vai trò quan trọng trong việc quản lý toàn
diện đất nước, tạo sức mạnh quốc gia. Đồng thời thể hiện tích chất tập trung của
nhà nước quân chủ chuyên chế. Khác với nhà Lý chính quyền địa phương dưới
thời Trần được chia thành ba cấp: phủ, lộ - châu, huyện - hương, xã chia địa giới
hành chính thành 12 lộ. Đứng đầu phủ lộ là các chức An phủ chánh danh, Phó
sứ thông giám trần phủ (tri phủ). Dưới phủ lộ là châu, huyện, đứng đầu là châu
tào viện chánh phó sứ, tri châu, tào ti. Đứng đầu huyện là tri lệnh (Lệnh úy) và
chủ bạ. Dưới châu, huyện là hương xã (ở trung du, miền núi gọi là sách, động
Hương và sách có quy mô lớn hơn xã và động). Như vậy, so với thời Lý hệ
thống tổ chức chính quyền thời Trần quy củ, chặt chẽ hơn từ trung ương đến địa
phương. Quan lại được phát triển cả số lượng thể loại, thành phần. Quyền lực
của vua ngày càng được củng cố, chính vì vậy chế độ quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền càng rõ nét.
1.2.2. Tổ chức quân đội
Để giữ gìn an ninh, trật tự cho đất nước và bảo vệ nhà nước phong kiến
thời Lý – Trần rất quan tâm và chú ý xây dựng tổ chức quân đội khá quy củ.
Quân đội bao gồm 2 mảng lớn là quân triều đình và quân địa phương trong đó.
Quân triều đình còn gọi là Cấm quân (hay cấm binh) là quân chủ lực
nòng cốt trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm có nhiệm vụ bảo vệ kinh
thành và được trang bị tốt nhất, thiện chiến nhất và được sự chu cấp trực tiếp

của triều đình. Dưới thời Lý lực lượng Cấm quân còn ít khoảng chục đô và vệ
quân. Nhưng sang đến thời Trần đặc biệt quan tâm đến việc tuyển chọn quân
triều đình gồm 8 quân đứng đầu mỗi quân là một đại tướng có thể được điều đi
khắp nơi hoặc phối hợp với các lộ tác chiến.
Tiếp theo là quân địa phương được gọi là lộ quân hay sướng quân (quân ở
phủ, lộ) có nhiệm vụ bảo vệ địa phương trong lộ. Ngoài ra, còn có lực lượng dân

9
binh, hương binh ở đồng bằng và thổ binh ở miền núi, là lực lượng dân chúng
được động viên trong thời chiến để bảo vệ. Dưới thời Trần còn có quân đội của
các vương hầu, quý tộc.
Tuy nhiên lực lượng quân đội chủ yếu là quân thủy và quân bộ được huấn
luyện chu đáo với kỉ luật nghiêm minh. Nhà nước thực hiện chính sách “Ngụ
binh ư nông”, binh pháp kỹ thuật quân sự được chú ý đặc biệt.
Như vậy, dưới thời Lý – Trần đã xây dựng được một lực lượng quân sự
hùng mạnh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước. Đây là cơ sở để quân dân Đại
Việt hai lần đánh thắng quân Tống, ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông để
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
1.2.3. Luật pháp
Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, phản ánh mức độ hoàn
thiện của một thiết chế xã hội, một chính quyền nhà nước. Chính vì vậy ngay sau
khi lên ngôi và ổn định tổ chức bộ máy nhà nước các vua Lý - Trần đã cho ban hành
hệ thống luật pháp nhằm quản lí và điều hành đất nước tốt hơn.
Dưới thời Lý bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1042 đó là
bộ luật Hình thư đã góp phần hạn chế những tiêu cực, phiền nhiễu trong việc xử kiện
trước đây của các quan lại, tăng cường ý thức pháp luật trong dân chúng và góp phần
kiện toàn bộ máy trung ương tập quyền. Đồng thời sự ra đời của bộ luật đã đánh dấu
một bước tiến trong lịch sử pháp quyền Việt Nam. Điều đó chứng tỏ nhà nước trung
ương tập quyền được củng cố và hoàn thiện thêm một bước. Nội dung quan trọng
của bộ luật là bảo vệ hoàng cung và quyền lực của đẳng cấp quý tộc, quan lại, đặc

biệt là nhà vua quan tâm đến trật tự xã hội, chống việc hà lạm thuế má, giải quyết
tranh chấp, bảo vệ sản xuất nông nghiệp nhưng chấp nhận sở hữu tư nhân ruộng đất.
Như vậy luật pháp thời Lý đã có bước phát triển mới, đã duy trì được trật tự xã hội
và phát triển đất nước trong vòng hơn 200 năm.
Đến thời Trần luật pháp phát triển thêm một bước. Năm 1230 Trần Thái Tông
ban hành bộ luật Quốc triều thông chế gồm 20 quyển. Đến năm 1341 biên soạn bộ
Hoàng triều Đại Điển và khảo đính bộ Hình luật để ban hành. Nhưng luật pháp thời
kỳ này bảo vệ đặc quyền của nhà vua, hoàng tộc và hoàng gia, bảo vệ quyền tư hữu
tài sản, đặc biệt là ruộng đất, vấn đề bảo vệ sức kéo trong nông nghiệp được đặc biệt
chú trọng.
Như vậy, chế độ chính trị dưới thời Lý – Trần chưa thực sự hoàn mỹ, song
với thể chế thống nhất và ổn định ấy cũng đã giúp triều đại Lý – Trần quản lý
được một đất nước có nền kinh tế và quốc phòng vững mạnh góp phần đẩy lùi

10
nạn ngoại xâm lớn đe dọa vận mệnh dân tộc, tạo tiền đề xây dựng một nền văn
hóa Thăng Long mang đậm dấu ấn lịch sử. Trong điều kiện đó, Nho giáo tỏ ra
thích hợp bởi Nho giáo là học thuyết chính trị về đường lối cai trị, xây dựng bộ
máy chính quyền phong kiến theo mô hình Trung Hoa, chủ trương quyền hành
phải thống nhất tập trung vào tay vua (Thiên tử), bảo vệ dòng họ thống trị, các
quyền lợi và địa vị tôn quý của nó, là tư tưởng trung quân - ái quốc,… phục vụ
đắc lực cho yêu cầu của giai cấp thống trị đương thời, và nó đã trở thành một nhu
cầu tư tưởng thiết yếu trong việc xây dựng thiết chế quân chủ chuyên chế mà các
vua Lý - Trần đang hướng tới. Cách hiệu quả nhất để thiết chế chính trị theo tư
tưởng ấy là xây dựng được một nền giáo dục khoa cử của riêng mình, đào tạo ra
một đội ngũ quan lại trợ giúp đắc lực cho nhà vua trong việc hoàn thiện tổ chức
bộ máy nhà nước theo mô hình ấy. Và như vậy sự ra đời của giáo dục khoa cử trở
thành yêu cầu bức thiết của thời đại mà các vua triều Lý và sau đó là các vua triều
Trần đã nhận ra và thực hiện với kết quả ngày càng cao đáp ứng yêu cầu trong
việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và quản lý đất nước.

1.3. Tình hình văn hóa - xã hội
Song song với công cuộc giữ nước thời Lý – Trần đã ra sức xây dựng đất
nước và đạt được những thành tựu rực rỡ trong nền văn hóa, xã hội.
1.3.1. Tình hình văn hóa
Trước hết là tôn giáo tín ngưỡng nhà nước Lý – Trần chủ trương một chính
sách khoan dung hòa hợp và chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo.
Đó chính là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên, Tam giáo cùng tồn tại. Bên cạnh
đó các tín ngưỡng dân gian cổ truyền như tín ngưỡng thần linh, vật linh, tục thờ
mẫu, pha trộn với đạo giáo đã được tự do phát triển và khuyến khích. Trong đó
đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất được coi là quốc giáo và có ảnh hưởng sâu
đậm trong xã hội nhất là trong làng xã. Nhưng Nho giáo đã trở thành một nhu cầu
tư tưởng thiết yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền với những
nguyên lý cơ bản của phép trị nước nhưng chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp trên và rất
mờ nhạt ở các làng xã.
Tiếp theo tôn giáo tín ngưỡng là văn học nghệ thuật. Văn học đã phản ánh
những tư tưởng và tình cảm của con người với hai dòng văn học chính: Văn học
Phật giáo và văn học yêu nước dân tộc đã thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc. Với
thành tựu quan trọng đó là việc phổ biến chữ Nôm vừa mang tính dân tộc (Nam
Nôm) vừa mang tính dân gian (nôm na), cải biến và Việt hóa chữ Hán được coi
là “Quốc ngữ”, “Quốc âm”.

11
Không những vậy, thời Lý – Trần cũng để lại nhiều công trình nghệ thuật,
kiến trúc, điêu khắc. Trong đó, kiến trúc thời Lý mang tính hoành tráng, quy mô
nhưng kiến trúc thời Trần mang tính thực dụng khỏe khoắn và tinh thần dân tộc
thấm đượm trong các công trình này như: thành Thăng Long, các cung điện ở khu
Tức Mặc – Thiên Trường, cùng với thành quách còn có các khu lăng mộ và phủ
đệ như khu sơn lăng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), khu lăng mộ ở Long Hưng (Thái
Bình), phủ đệ Trần Quốc Khang ở Diễn Châu (Nghệ An). Bên cạnh đó là các
chùa tháp như chùa Diên Hựu (Một Cột), chùa Phật Tích, chùa Thái Lạc, tháp

Báo Thiên, tháp Phổ Minh, tượng Chu Công, Khổng Tử, Tứ Phối “An Nam tứ đại
khí”. Trong điêu khắc thời Lý – Trần có ảnh hưởng của nhiều yếu tố Champa.
Ngoài ra, nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý – Trần phát triển phong
phú chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Nam Á và Đông Á. Được biểu diễn rộng rãi
trong dân gian cũng như được ưa chuộng trong sinh hoạt cung đình. Nghệ nhân
sử dụng các nhạc cụ như sáo, tiêu, chũm chọe, trống cơm, các loại đàn cầm, đàn
tranh, đàn tì bà, đàn thất huyền, đàn ba lỗ và múa rối nước là môn nghệ thuật
đặc sắc. Trong các lễ hội có nhiều trò vui tạp kĩ mang tính dân gian như đấu vật,
trọi gà, cờ người, bơi chải, đánh đu, leo dây, đá cầu,
Cuối cùng là khoa học nghệ thuật thời Lý – Trần chủ yếu được biết ở một
số ngành như sau:
Sử học: Thời Lý - Trần nhà nước đều có Quốc sử viện chuyên ghi chép
những hoạt động của nhà nước - chủ yếu là của vua quan với các công trình Đại
Việt sử ký,… Các nhà sư cũng có sách riêng: Thiên uyển tập anh ngữ, Tam tổ
thực lục
Địa lí: Những tư liệu về địa chí cũng đã đươc biên soạn: năm 1172 vua vua
Lý Anh Tông đi tuần ở các địa giới phiên bang Nam Bắc vẽ bản đồ và ghi chép
phong vật rồi về .…
Y học: danh y Phạm Bân nổi tiếng về y đức trách nhiệm đối với người
bệnh, Tuệ Tĩnh đề cao tác dụng của thuốc Nam là tác giả của bộ Nam dược thần
hiệu….
Như vậy, khi mà chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu ổn định và dần đi
vào quỹ đạo của nó thì việc xây dựng một nền văn hóa phong phú, đậm đà bản
sắc dân tộc cũng như việc tìm hiểu phát minh khoa học kĩ thuật lại càng trở nên
bức thiết hơn bao giờ hết. Để tạo ra một nền văn hóa như thế không phải người
bình thường nào cũng thực hiện được mà yêu cầu phải có đội ngũ những người
có trí thức, sự hiểu biết, tài năng. Để đào tạo ra đội ngũ đó cần có sự ra đời của
một cái mới đó là hoạt động giáo dục đào tạo con người. Quá trình giáo dục ấy

12

sẽ dần đến những biến đổi căn bản trong cách tư duy, óc sáng tạo và thị hiếu của
xã hội, góp phần tạo nên một nền văn hóa phong phú đa dạng.
1.3.2. Tình hình xã hội
Bên cạnh tình hình, kinh tế, chính trị, văn hóa đó là tình hình xã hội. Dưới thời
Lý - Trần dần dần hình thành và xác lập những giai cấp chính của xã hội bao gồm
hai giai cấp chính là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Trong đó:
Giai cấp thống trị bao gồm các vương hầu quý tộc, quan lại cao cấp và một
bộ phận địa chủ quan chức hóa và ngày càng mở rộng ruộng đất tư hữu. Ban đầu
điều này góp phần mở rộng diện tích canh tác, giải quyết ít nhiều tình trạng
phiêu tán. Về sau vua quan quý tộc chiếm ruộng đất, ăn chơi sa xỉ, không quan
tâm tới cuộc sống của nhân dân.
Bên dưới giai cấp thống trị là giai cấp bị trị bao gồm đông đảo nhân dân
thuộc nhiều tầng lớp khác nhau như địa chủ, nông dân, thợ thủ công, thương
nhân…. Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư và là lực lượng
sản xuất chủ yếu, là những người gánh chịu mọi trọng trách của xã hội: làm
ruộng, đóng thuế, lao dịch, đi lính, bảo vệ tổ quốc…. Thợ thủ công có số lượng
không nhiều sống và làm ăn ở các phường của Thăng Long còn có một số sống
rải rác ở các làng, làm nghề thủ công phục vụ làng mình là chính. Thương nhân,
ngày càng nhiều chuyên buôn bán. Thân phận thấp nhất trong xã hội là tầng lớp
nô tì, với nhiều tên gọi khác nhau như gia nô, gia đồng, nô tì, điền nhi, lộ ông,…
Như vậy, từ thế kỉ X, được đánh giá là thế kỷ mang tính “bản lề” nhà nước
đã tiến hành củng cố và xây dựng nhà nước Đại Việt độc lập, tự chủ và phát
triển toàn diện. Chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đang dần
hoàn chỉnh, bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương được tổ chức
ngày càng chặt chẽ, đời sống nhân dân Đại Việt được nâng cao. Thế nhưng sự
phát triển nhanh của nền kinh tế đặt ra yêu cầu phải mở rộng bộ máy nhà nước
và quan lại, đồng thời để duy trì nền quân chủ chuyên chế đó cần thiết phải có
những nhân tài làm cho bộ máy nhà nước ngày càng vững mạnh. Điều này đặt ra
yêu cầu khách quan cho sự ra đời của nền giáo dục khoa cử. Đồng thời, việc xây
dựng nền giáo dục khoa cử cũng khẳng định tính độc lập tự chủ của một quốc

gia nhất là khi các triều đại phong kiến phương Bắc luôn nhòm ngó và tìm cách
xâm lược.


13
CHƯƠNG 2
GIÁO DỤC KHOA CỬ VIỆT NAM THỜI LÝ - TRẦN
2.1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời khoa cử Việt Nam thời Lý - Trần
Khoa cử là phương thức tuyển chọn nhân tài ra làm quan tham gia triều
chính theo từng khoa bằng con đường thi cử. Đây là cách kén người tương đối
công bằng và bình đẳng, trên khắp thế giới ngày nay vẫn dùng phép thi cử để
kén nhân tài. Việc thi tuyển khoa cử bắt đầu từ đời Tùy. Năm thứ hai niên hiệu
Đại Nghiệp đời Tùy Dạng Đế (606) bắt đầu dùng phép thi cử thay cho "chế độ
cứu phẩm trung chính" áp dụng từ đời Ngụy Tấn về sau. Đây là sự mở đầu của
chế độ khoa cử. Đến thời Đường, chế độ khoa cử được thực hiện rộng rãi trong
cả nước và lấy khoa tiến sĩ làm khoa mục chủ yếu để chọn kẻ sĩ chính thức hoàn
thành bước quá độ từ "chế độ cứu phẩm trung chính" sang chế độ khoa cử.
Chế độ khoa cử đã có tác dụng tích cực trong việc đào tạo, giáo dục nhân
tài và làm phong phú hoàn thiện nền giáo dục và chính gía trị văn hóa. Trong bài
viết: Ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc tới Việt Nam của Vương Giới
Nam có viết: Dân tộc Trung Hoa phát minh ra chế độ khoa cử là một cống hiến
to lớn cho văn hóa thế giới. Chế độ thi tuyển quan văn ở các nước Âu Mĩ và
Nhật Bản, suy cho cùng đều phát triển bởi ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung
Quốc. Chế độ khoa cử Trung Quốc càng ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đối với
Việt Nam.
Như vậy, chế độ khoa cử xuất hiện rất sớm từ Trung Quốc và nhanh chóng
ảnh hưởng đến nước ta. Ngay từ thời Bắc thuộc, các thái thú Tích Quang, Nhâm
Diên, Sĩ Nhiếp đã mở các trường dạy học chữ Hán. Tuy nhiên, việc dạy học ở
trình độ thấp kém, chỉ đào tạo các quan lại hạ cấp để sai khiến, ai muốn học thì
phải sang tận Trung Quốc. Việc làm này không có gì lạ đối với bọn đô hóa, có

âm mưu đồng hóa một dân tộc bị chinh phục. Cho đến khi Ngô Quyền giành
được độc lập, giáo dục phong kiến đã có trong xã hội Việt Nam. Mặc dù chỉ
đọng lại ở tầng lớp trên của xã hội, đặc biệt là trong tầng lớp tăng lữ mà biểu
hiện ở học vấn của các nhà sư tham chính trong buổi đầu xây dựng nền độc lập
tự chủ như: Ngô Chân Lưu, Lý Vạn Hạnh và sáng tác của các nhà sư. Nhưng
trong buổi đầu củng cố xây dựng độc lập và thống nhất, các triều đại phong kiến
Ngô (939 - 980), Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009) còn non trẻ vẫn phải
đánh dẹp thù trong giặc ngoài, coi việc võ bị cần thiết hơn và tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội thời kỳ này chưa ổn định lắm. Hơn nữa, các triều đại tồn tại
trong một thời gian ngắn ngủi (nhà Ngô: 43 năm, nhà Đinh: 12 năm, Tiền Lê: 29
năm) nên nhà nước chưa có điều kiện chăm lo việc giáo dục và tổ chức học hành

14
thi cử một cách quy củ, không giành nhiều thời gian cho việc khuyến học. Do
vậy, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê chưa có tổ chức thi cử để tuyển chọn
người làm quan, triều đình đặt ra lệ tiến cử và bảo cử.
Đặt trong bối cảnh tiếp xúc và giao lưu văn văn hóa Trung Hoa, văn hóa
Việt Nam nổi lên một đặc điểm tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng rất thực tế.
Trong gần một năm Bắc thuộc dưới ảnh hưởng của văn hóa Hán thì tinh thần
chủ đạo của người Việt, là tinh thần chống đồng hóa nhưng đến khi giành độc
lập tự chủ thì người Việt lại chủ động tiếp nhận văn hóa Hán để xây dựng và
phát triển quốc gia mà một trong những biểu hiện của nó là tiếp nhận mô hình
giáo dục khoa cử. Hán học được các quan lại Trung Hoa (Tích Quang, Nhâm
Diêm, Sĩ Nhiếp, ) truyền vào Việt Nam từ buổi đầu Công Nguyên nhưng suốt
gần một nghìn năm Bắc thuộc chưa bao giờ Nho giáo, Nho học có được chỗ
đứng vững chắc trong xã hội người Việt mà phải đến nhà Lý, với tinh thần chủ
động tiếp nhận thì Nho giáo và Nho học Trung Hoa mới thực sự cắm rễ, từng
bước hoàn thiện và phát triển.
Ngay từ đầu Phật giáo được nhân dân ta tiếp thu và ăn sâu vào đời sống
văn hóa tinh thần. Đạo Phật được truyền vào bằng “con đường hòa bình”, phù

hợp với tâm tư, tình cảm của người dân làm nghề nông trồng lúa nước. Tuy
nhiên, bản chất của Phật giáo không phải là đạo trị nước. Khi bộ máy nhà nước
phát triển cao hơn, yêu cầu về quản lí nhà nước, hệ tư tưởng cai trị đặt ra cho
tầng lớp thống trị. Phật giáo mang tính tích cực nhưng không đề cập đến vấn đề
củng cố nhà nước phong kiến. Còn Nho giáo du nhập vào nước ta từ đầu công
nguyên bằng con đường vó ngựa của kẻ xâm lược nên nó được coi là công cụ
của giai cấp thống trị nhà Hán âm mưu đồng hóa dân tộc ta. Vì thế lúc đầu nhân
dân ta không chấp nhận Nho giáo. Trong suốt thời kì Bắc thuộc và cả các triều
đại đầu tiên của nhà nước Ngô, Đinh, Tiền Lê, Nho giáo vẫn chưa có vai trò gì
đáng kể trong đời sống chính trị, xã hội.
Nhưng, khi nền tảng và cơ cấu xã hội Đại Việt thay đổi với sự thiết lập của
chế độ phong kiến trung ương tập quyền thì Nho giáo lại tỏ ra thích hợp là một
yêu cầu, một hệ tư tưởng cần phải tiếp thu. Nho giáo là một học thuyết chính trị
đạo đức chủ trương quyền hành phải tập trung thống nhất vào tay vua, bảo vệ
dòng họ thống trị và địa vị tôn quý của họ. Nho giáo còn đưa ra những chuẩn
mực đạo đức, những yêu cầu đối với các mối quan hệ: vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ trong học thuyết “Tam cương”, “Ngũ thường”. Chính vì vậy, muốn
trị nước, muốn củng cố chế độ phong kiến thì ở một nước láng giềng có mối
quan hệ về văn hóa và chủng tộc, khi mà chế độ phong kiến Trung Hoa phát

15
triển đến giai đoạn đỉnh cao, Nhà Lý không thể không tin cậy vào Nho giáo
mỗi lúc thêm nhiều.
Trước hết sau khi mới giành được độc lập nhà Lý phải mất nhiều thời gian
để từng bước ổn định xã hội trên các mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã
hội, Cùng với những hoạt động liên quan đến Phật giáo là những hoạt động
"dẹp loạn" bên ngoài nhằm bảo vệ và phát huy thành quả của độc lập quốc gia
trong buổi đầu tự chủ.
Sau đó, dựa trên chính những thực tiễn phát triển xã hội, triều Lý đã từng
bước nhận thấy cần phải sử dụng một học thuyết chính trị tư tưởng phù hợp để

quản lý và phát triển xã hội. Bởi Phật giáo không cung cấp cho vương triều
những điều cần thiết bài học đẻ bảo vệ ngai vàng, xây dựng đất nước, kiến tập
nền chính trị hành chính trị quốc an dân và Nho giáo có thể đem lại vì đây là
học thuyết giành cho người cai trị quốc gia, là học thuyết phù hợp cho việc đào
tạo và lựa chọn đội ngũ tri thức cho bộ máy quản lý nhà nước. Và trên thực tế
triều Lý không giáo điều cả hệ thống Nho giáo Trung Hoa vào quan điểm
chính trị và giáo dục Đại Việt. Nói tóm lại, triều đại Lý - Trần tiếp nhận Nho
giáo và đã được tái cấu trúc cho phù hợp với xã hội Việt Nam. Độ khúc xạ
trong tiếp nhận và giao lưu văn hóa đã tạo ra những đặc điểm của Nho giáo
Nho học Việt Nam.
Nhìn chung, Nho giáo từ một tôn giáo, một công cụ của kẻ đi xâm lược đã
dần dần được chính quyền trung ương và nhân dân chấp nhận. Hệ tư tưởng của
nó tạo ra sức mạnh bảo vệ sự liên kết gia đình, dòng họ. Bảo vệ sự liên kết giữa
cá nhân với xã hội. Bảo vệ sự phân chia danh phận với khả năng dung hợp sự
phân chia này trên nền tảng đạo đức. Lí luận chính trị mà cơ sở của nhà nước về
nguyên tắc và lễ phép hòa lẫn nhau và được thần thánh hóa là thiên mệnh, trung
hiếu, tam cương, ngũ thường đã phục vụ đắc lực cho yêu cầu của giai cấp thống
trị đương thời. Sự phát triển của Nho giáo còn gắn liền với nhu cầu phát triển
giáo dục cấp thiết hiện thời.
Điểm cần nhấn mạnh ở đây là khi tiếp nhận Nho học triều đại Lý – Trần đã
chủ động tiếp nhận tinh thần lấy: giáo dục để bồi dưỡng hiền tài và từng bước
thay thế cho các phương thức dùng người cũ trong việc bổ sung quan lại là
nhiệm cử và tiến cử của các triều đại trước đó. Mặc dù, tiến cử và nhiệm cử vẫn
tiếp tục được sử dụng nhưng thông qua các kỳ thi đã bước đầu thực hiện phương
pháp dùng khoa củ để chọn nhân tài. Đây là bước đặt nền móng, bệ đỡ cơ bản
cho các triều đại kế tiếp trong việc dần dần thay thế từ chỗ khoa cử là phụ và
tiến cử là chính chuyển sang dựa vào khoa cử hoàn toàn.

16
Khi chế độ phong kiến tập quyền bắt đầu ổn định, triển khai theo quy mô

lớn thì yêu cầu về xây dựng và phát triển nền văn hóa giáo dục độc lập được đặt
ra. Để nắm quyền quản lí đất nước, các triều đại Lý - Trần đã quan tâm đến việc
nâng cao tri thức đồng thời do việc củng cố và phát triển nhà nước phong kiến
nên việc bổ nhiệm quan lại bằng con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đáp
ứng được yêu cầu, phải có một phương thức đào tạo và tuyển chọn quan lại để
bổ sung vào. Điều này chỉ được thực hiện bằng việc phát triển một nền giáo dục
mới với chế độ thi cử để tuyển chọn nhân tài mà yêu cầu này chỉ có Nho giáo
mới có thể đảm đương được.
2.2. Nội dung chế độ giáo dục khoa cử thời Lý - Trần
Có thể nói, với tư cách là triều đại mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ lâu
dài của quốc gia Đại Việt . Đồng thời, là triều đại mở đầu cho sự phát triển của
nền giáo dục nước nhà tiếp theo thời Lý là thời Trần cùng với sự lựa chọn quan
trọng coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Qua đó đã đặt nền móng vững chãi, bệ
đỡ cơ bản, mở ra sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục Nho học ở nước Việt Nam.
Nội dung giáo dục khoa củ thời Lý – Trần được thể hiện như sau:
Về trường học
Trước hết về trường công: do diều kiện về địa lý và lịch sử, Việt Nam sớm
chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa lớn thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ cũng
sớm tiếp thu hai tôn giáo lớn của hai nước này là Nho giáo và Phật giáo. Vì thế,
việc tổ chức nền giáo dục của Việt Nam có đặc điểm nổi bật là chịu ảnh hưởng
lớn của nền giáo dục Trung Hoa. Trong đó có việc tiếp thu văn tự Hán. Chữ Hán
do người Hán sáng tạo cách đây trên dưới 3500 năm và du nhập vào Việt Nam
muộn nhất vào đầu công nguyên. Sau khi phong kiến Trung Quốc thiết lập được
ách đô hộ trên đất nước ta nhằm phục vụ cho công việc hành chính, truyền bá
văn hóa Trung Hoa và đặc biệt là thực hiện âm mưu đồng hóa, cai trị nhân dân
ta. Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không, người Việt phải dần dần tiếp thu chữ
Hán, thông qua các con đường khác nhau. Lúc đầu, do người Hán dạy sau đó
người Việt dạy cho nhau. Từ đó đã hình thành một tầng lớp trí thức Nho học
trong người Việt. Rất nhiều người có trình độ cao, từng dự thi và thi đỗ tại các
khoa thi ở Trung Quốc như anh em Khương Công Phụ, Khương Công Phục ở

Thanh Hóa vào cuối thế kỷ VII dưới thời Đường.
Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, Nho giáo tuy chưa chiếm được vị trí độc
tôn trong đời sống xã hội Việt Nam song văn tự Hán lại được dùng làm phương
tiện chủ yếu để kinh, in sách Phật. Sau khi nước ta giành được độc lập tự chủ
nhà nước phong kiến Đại Việt được thiết lập, chữ Hán được coi là văn tự chính

17
thức, trở thành chữ thông dụng trong các văn bản hành chính, trong học tập, thi
cử và sáng tác văn học. Ra đời từ cuộc đấu tranh chống ách đô hộ gần nghìn
năm của các thế lực phong kiến Trung Quốc giành quyền độc lập, tự chủ. Giai
cấp phong kiến Đại Việt bắt đầu từ thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, nhất là từ thời Lý
đứng trước yêu cầu xây dựng đất nước vững mạnh đủ sức đảm đương được
nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc, đã vận dụng mô hình thể chế chính trị xã
hội dựa vào ý thức hệ Nho giáo của Trung Quốc. Tiếp thu Nho giáo có hệ thống
từ triều đình đến hoàng tộc đến gia đình các tầng lớp quan lại tổ chức học chữ
Hán để làm công cụ soạn thảo các văn bản hành chính, văn bản ngoại giao và
văn bản luật, soạn kinh Phật hoặc làm thơ, soạn văn tế. Trong dân gian đã xuất
hiện các tầng lớp dạy chữ Hán đáp ứng nhu cầu của cuộc sống (làm văn tự mua
bán ruộng đất, tài sản lớn,…) và có đủ kiến thức Nho học để thi tuyển làm quan.
Tháng Tám năm Canh Tuất niên hiệu Thuần Vũ (1070) vua Lý Thánh
Tông cho dựng nhà Khổng miếu tiền thân của Văn Miếu sau này ở phía Nam
kinh thành, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, bốn mùa cúng tế. Đây
cũng là nơi Hoàng thái tử đến học. Về sau cả một số con em của các triều thần
và quan viên văn chức người nào biết chữ được học tại đây.
Sáu năm sau, năm Bính Thìn niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng (1076) vua
Lý Nhân Tông cho lập Quốc tử giám, tuyển các văn thần, lấy những người có
văn học bổ vào đó, lại chọn những nhân sĩ trong nước, lấy đỗ người có tài văn
võ, phân phối cai quản quân và dân. Như vậy, đây là sự tôn vinh Nho giáo và
nền giáo dục Nho học của nhà nước phong kiến Đại Việt. Đồng thời, là quyết
định vô cùng quan trọng và đúng đắn của nhà Lý và được tiếp tục phát triển ở

các triều đại tiếp theo. Mở ra sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục Nho học ở
Việt Nam, đóng vai trò không nhỏ trong việc tạo ra tầng lớp tri thức của xã hội
mà chủ yếu là các nhà Nho. Đồng thời, phản ánh rõ nét tư tưởng quan trọng của
nhà Lý quyết định sử dụng từng bước phát triển giáo dục Nho học. Sự tồn tại
của Quốc tử giám như một minh chứng sinh động cho việc coi trọng giáo dục
nhân tài Việt Nam: nguyên khí cường thịnh thì con người được hưởng thọ lâu
dài được thái bình vững chãi. Không chỉ tồn tại với tư cách là trường Quốc học
đầu tiên của nền giáo dục phong kiến Việt Nam, Quốc tử giám còn tạo ảnh
hưởng đối với nền giáo dục cả nước.
Đầu tiên có thể khẳng định là sự tồn tại của Quốc tử giám là sản phẩm tiêu
biểu, đáng tự hòa của giáo dục cả nước, nơi đã đào tạo ra nhiều nhân tài, đóng
góp vào quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. Quốc tử giám là trường
học đào tạo các Nho sinh để chuẩn bị cho các kỳ thi tiến sĩ. Trường là nơi tập

18
hợp của những người: Ân giám (được vua ban cho vào học), Âm giám (con em
văn thân tư lục phẩm trở lên), Cử giám (những người đã đỗ kỳ thi Hương nhưng
chưa đỗ kỳ thi Hội vào học để chờ khoa thi sau) và những người được chọn gửi
từ các địa phương. Điều hành công việc giảng dạy và học tập ở Quốc tử giám
gồm hệ thống các chức quan Tế tửu,Tư nghiệp, Ngũ kinh Bác sĩ, Quốc tử giám
thụ, Quốc tử giám học chính, Quốc tử giám học lục, được lựa chọn từ những
người đỗ đạt có năng lực và đạo đức.
Bên cạnh việc học tứ thư, ngũ kinh, Bắc sử, Nam sử, giám sinh trường
Quốc tử giám còn được giáo dục về đạo lí làm người tận trung với nước, có ích
với dân, đạo nghĩa ngay thẳng, công đức vẻ vang. Quốc tử giám là nhà học trong
khu văn miếu ở Thăng Long. Ban đầu chỉ giành riêng cho con vua và con các
bậc đại quyền quý (nên được gọi là Quốc tử). Từ năm 1253 vua Trần Thái Tông
cho mở rộng Quốc tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức
học xuất sắc. Đồng thời, đổi tên Quốc tử giám thành Quốc tử viện, lấy đây làm
nơi giảng cho con em vua quan và những người học giỏi trong cả nước. Dưới

triều Trần Quốc học viện được nâng dần trình độ đào tạo tới mức đại học và đặt
tên là Thái học viện.
Quốc tử giám bao gồm sáu nhà Minh Luân, giảng đường Đông Tây, phòng
học của sinh viên, tam xá kho chứa văn in, thư viện trường là nơi cung cấp sách
học cho không chỉ học sinh trường mà còn học sinh của các trường ở cấp phủ lộ
gồm tứ thư, ngũ kinh, Ngọc Đường văn phạm, sách học đề cương: văn hiến
thông khảo (sách đời Nguyên, gồm 348 quyển), văn tuyển (sách đời Lương gồm
602 quyển), Cương mục (sách đời Tống gồm 592 quyển), Thiếu vi thông giám
(sách đời Tống gồm 20 quyển), Nốc trai thập khoa sách lược (sách thời Minh),
Tính lý đại toàn (sách đời Thanh),….Những giáo trình học tập này cũng mang
tính định hướng về nội dung, cách thức học tập cho các trường tư Nho học.
Tự thân Quốc tử giám đã trở thành khuôn mẫu về cách thức quản lý nội
dung, hình thức, giáo dục đối với các trường học ở các cấp, đơn vị hành chính
thấp hơn, kể cả trường công và trường tư trong cả nước. Việc đề cao vai trò của
những người đỗ đạt của triều đình phong kiến, thông qua sự tồn tại của Văn
Miếu và Quốc tử giám đã đào tạo ra không khí học tập cho Nho sinh cả nước
với ước muốn thành công trong bước đường khoa cử. Từ trường Quốc học ban
đầu cùng thời gian Quốc tử giám đã phát triển hoàn thiện đóng góp to lớn trong
việc đào tạo và giáo dục nhân tài cho đất nước. Hơn hết Quốc tử giám là biếu
tượng gửi gắm triết lý muốn có nhân tài phải đào tạo, vun trồng bồi dưỡng của
ông cha ta từ thời Lý cho các thế hệ hiên tại. Bên cạnh Quốc tử giám đến thời

19
Trần 1281 nhà Trần lập thêm nhà học ở phủ Thiên Trường. Như vậy, đây là các
trường học công mà nhà nước mở nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước.
Ngoài trường học do nhà nước mở ra lúc bấy giờ, nước ta còn có hệ thống
trường tư. Trường học tư đầu tiên được xác nhận là trường Bái Ân do Lý Công
Ân - một tôn thất nhà Lý không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Ông sống ở Bái
Ân (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội), là học trò của sư Vạn
Hạnh cũng là một tín đồ đạo Phật nhưng ông mở trường dạy học truyền thụ kiến

thức Nho giáo. Dưới thời Trần, trường lớp của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc
dựng tại phủ đệ của ông trong kinh thành Thăng Long hay trường Huỳnh Cung
của Chu Văn An đều ở thôn Hoàng Cung, Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội. Thầy
giáo của các trường đều là nhà Nho uyên bác, đức độ. Nhiều người trong số họ
là tôn thất của triều đình như Lý Công Ân, Trần Ích Tắc. Đặc biệt là Chu Văn
An là vị thầy giáo đã từng giữ chức tư nghiệp Quốc tử giám thời Trần dạy học
cho thái tử. Học trò của các trường tư có thể xuất thân từ bất cứ thành phần nào
trong xã hội, giàu hay nghèo cao hay thấp đều có thể đi học, chuẩn bị kiến thức
cho các kỳ đại đăng khoa, tiểu đăng khoa. Lấy nội dung, cách thức giảng dạy
Quốc tử giám làm chuẩn. Sách học của các trường cũng là Tứ thư, Ngũ kinh.
Ngoài ra, Chu văn An còn soạn sách giáo khoa để dạy học trò của mình như Tứ
thư thuyết ước.
Về mô hình đào tạo, học trò có bốn kỳ thi làm văn thường kỳ, hai bài
văn nhật khắc, được chấm các hạng ưu, bình, thứ, liệt. Vào ngày rằm và mùng
một thầy trò có buổi bình văn, và được hạng ưu sẽ được đem ra để mọi người
học tập. Nhiều học trò đã trưởng thành từ các trường Nho học đã trở thành
những người giữ trọng trách và có đóng góp nhất định trong triều đình hoặc có
đóng góp nhất định trong tiến trình lịch sử văn hóa của dân tộc như Lý Thường
Kiệt (học trò trường Bái Ân của Lý Công Ân), Mạc Đĩnh Chi (học trò trường
của Trần Ích Tắc), Phạm Sư Mạnh, Lê Quát (học trò của Chu Văn An). Như
vây, các trường tư đã có những đóng góp quan trọng trong việc đào tạo nhân tài
xây dựng triều đại phong kiến vững mạnh.
Tất cả các điểm trên thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của triều đại Lý –
Trần với sự phát triển lâu dài của vương triều của đất nước coi giáo dục là:
“quốc sách hàng đầu”. Trong đó đặc biệt là coi trọng giáo dục và khoa cử Nho
học để đào tạo quan lại, tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, tạo tiền đề để quản lý
xã hội, việc làm này không chỉ phục vụ quyền lợi của nhà Lý – Trần mà còn đặt
nền móng cho các vương triều sau này.

20

Về nội dung giáo dục khoa cử, về cách thức tổ chức và quy chế thi nếu ban
đầu ở triều Lý chưa có quy củ thì sang đời Trần mới thành thể lệ càng về sau
càng chính quy chặt chẽ, quy củ hơn. Việc lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng
Tử cùng với đồ đệ của ông và sai Hoàng thái tử đến học có nghĩa rằng vua Lý
Thánh Tông đã tìm thấy một học thuyết về đạo trị nước phù hợp, có giá trị dẫn
đường cho chế độ chính trị xã hội mà triều Lý đang ra sức xây dựng và củng cố.
Nho giáo với học thuyết của Khổng tử mà xương sống của nó là thuyết “Tam
cương, ngũ thường” trở thành tiêu chuẩn mẫu mực về đạo đức của con người,
nhằm thiết lập và ổn định một xã hội phục vụ cho quyền uy vô thượng của nhà
vua, đại diện tối cao cho giai cấp phong kiến thống trị. Nhưng đến mãi năm
1253 thì Quốc tử viện mới giảng học Tứ thư, Ngũ kinh tức học tập sách kinh
điển của Nho giáo. Lúc đầu Nho giáo chưa phải là nội dung duy nhất trong học
tập và thi cử. Tình hình phát triển đến cực điểm của Phật giáo và sự hiện diện
phổ biến của Đạo giáo thời Lý, cũng như ảnh hưởng vai trò của tăng lữ trong
thời này đã chi phối mọi mặt sinh hoạt của xã hội trong đó có giáo dục khoa cử.
Thi Tam giáo không chỉ có ở thời Lý mà còn ở đầu thời Trần. Vào năm 1299, sử
cũ cho hay nhà nước còn cho in sách giáo khoa nhà Phật phát cho trong nước.
Về các khoa thi tam giáo thời Lý - Trần, Phan Huy Chú có nhận xét rằng: đời Lý
- Trần, đều tôn chuộng Phật Giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn người
muốn được thông cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đạo đều tôn chuộng
không phân biệt mà học trò đi thi khoa ấy nếu không học rộng biết nhiều thì
cũng không đỗ được.
Đến năm 1304 vua Trần Anh Tông đã quy định phép thi như sau:
Kỳ nhất thi ám tả “y quốc thiên” và “mục thiên tử truyện” để loại bớt.
Kỳ nhì thi kinh nghi, kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thì ngũ ngôn trường thiên
hỏi vể “vương độ khoan mãnh” lấy bốn chữ “tài, nạn, xạ, trĩ” làm vần phú dùng
thể tám vần: “đế đức hiếu sinh hiệp vụ dân tâm” đức độ đế vương vốn ưa sống
phù hợp với lòng dân.
Kỳ ba thi chiếu, chế, biểu.
Kỳ tư thi văn sách.

Trong đó, ám tả là bài thi thí sinh nghe đọc rồi viết đúng chữ. Kinh nghi là
bài thi có đầu đề hỏi về những chỗ còn nghi ngờ trong kinh sách. Kinh nghĩa là
bài văn giải thích ý nghĩa một câu trong kinh truyện, làm theo lối văn “bát cổ”
(tám vế) tức theo lối biền văn, không có vần mà có đối. Chiếu là lời vua ban bố
hiệu lệnh cho thần dân. Chế là lời vua phong thưởng cho công thần. Biểu là bài
văn của thần dân dâng lên vua để chúc mừng hoặc bày tỏ điều gì.

×